Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Cấu trúc giới tính và cấu trúc sinh sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.57 KB, 8 trang )



Cấu trúc giới tính và cấu
trúc sinh sản - Quần thể



Sự phân chia giới tính là hình thức cao
trong sinh sản của sinh giới. Nhờ đó
trong sinh sản có sự trao đổi chéo và kết
hợp gen giữa các cá thể, tạo nên thế hệ
con cái có sức sống cao hơn.
Cấu trúc giới tính là cơ cấu quan trọng
của quần thể, mang đặc tính thích ứng
đảm bảo hiệu quả sinh sản của quần thể
trong những điều kiện thay đổi của môi
trường.
Trong thiên nhiên, tỷ lệ chung giữa con
đực và con cái là 1:1, song tỷ lệ này biến
đổi khác nhau ở từng loài và khác nhau ở
các giai đoạn khác nhau trong đời sống
ngay trong một loài, đồng thời còn chịu
sự chi phối của các yếu tố môi trường
(tập tính sống).
- Cấu trúc giới tính bậc I (giống bậc I): là
tỉ lệ giữa số lượng cá thể đực và cái của
trứng đã thụ tinh. Tỉ lệ này xấp xỉ 1:1 ở
đa số các loài động vật.
- Cấu trúc giới tính bậc II (giống bậc II):
là tỉ lệ đực/cái ở giai đoạn trứng nở hoặc
con non mới sinh. Tỉ lệ này xấp xỉ 1:1 ở


đa số các loài động vật.
- Cấu trúc giới tính bậc III (giống bậc
III): là tỉ lệ đực/cái ở giai đoạn cá thể
trưởng thành.
Cấu trúc giới tính bậc III khác nhau ở các
loài khác nhau, đặc biệt quan trọng và có
liên quan với tập tính sinh dục và tiềm
năng sinh sản ở các loài. ở ngỗng, vịt,
gà gô Mỹ (Tinamidae), cun cút
(Turnicidae), thỏ (Salvilagus) có cấu
trúc giới tính bậc III là 60 đực/40 cái.
Những loài đa thê (ở nhiều loài như gà,
vịt, hươu, nai...) có số lượng cá thể cái
nhiều hơn cá thể đực gấp 2-3 lần,
thậm chí đến 10 lần. Cấu trúc giới
tính bậc III không ổn định mà thay đổi
tuỳ tập tính sinh dục và sinh sản của từng
loài chẳng hạn như ở thằn lằn, rắn độc,
bò cạp...sau mùa sinh dục (giao phối) số
lượng cá thể đực giảm xuống, sau đó lại
xấp xỉ bằng nhau. Điều này phụ thuộc
vào tỷ lệ tử vong không đồng đều giữa cá
thể cái và đực. Ngoài ra, tỉ lệ đực cái của
quần thể còn thay đổi tuỳ theo điều kiện
môi trường, ví dụ như kiến nâu rừng
(Formica rufa) đẻ trứng ở nhiệt độ thấp
hơn 20
0
C thì trứng nở ra hoàn toàn cá thể
cái, nhưng ở những nơi có nhiệt độ cao

hơn 20
0
C thì trứng nở ra hoàn toàn cá thể
đực.
Khi nghiên cứu về giới tính và sự sinh
sản của sinh vật, người ta nhận thấy nhịp
điệu tái sản xuất của quần thể tăng lên
khi tăng số lượng các cá thể cái, song
trong điều kiện đó sức sống của thế hệ
con non giảm. Bởi vậy trong điều kiện
môi trường thuận lợi, nhiều loài động vật
tỷ lệ cá thể cái thường cao, thậm chí có
trường hợp trong quần thể chỉ toàn
những cá thể cái. Chẳng hạn, trong
quần thể giáp xác bậc thấp: giáp xác
râu ngành (Cladocera) và trùng bánh xe
(Rotatoria) vào mùa hè không có các cá
thể đực. Những quần thể này sinh sản
theo kiểu đơn tính như trinh sinh
(Parthenogenese).
Ở nhiều loài động vật sinh sản lưỡng
tính, nhất là động vật thuỷ sinh, có sự
biến đổi luân phiên đều đặn giữa các pha
đực và pha cái thì cấu trúc giới tính phụ
thuộc vào tuổi của cá thể, ví dụ loài
tôm Pandalus borealis tham gia vào
đàn đẻ trứng ở pha đầu thường là con đực
với tuổi 2,5 năm, sau đó chuyển giới
tính vào mùa sinh sản tiếp theo.
Loài tôm Solenocera membranaela có

tuổi thọ 3 năm, nhưng 2 năm cuối đời
hoạt động như cá thể cái do vậy trong

×