Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

SKKN vận dụng phương pháp trò chơi vào phân môn học vần để kích thích hứng thú học tập cho HS lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.91 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU:
1.

1.

LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

“ Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Đó chính là câu khẩu hiệu đồng thời
cũng là mục tiêu cao đẹp mà tất cả những ai làm công tác giáo dục đều trăn trở
và tìm đủ các biện pháp nhằm tạo cho các em niềm tin và tinh thần sảng khoái
khi đến trường; giúp các em cảm nhận được trường học thật sự là ngơi nhà thứ
hai của mình và cơ giáo là mẹ hiền. Tuy nhiên, quá trình giáo dục chỉ thật sự
đạt kết quả cao khi có sự chung tay góp sức giữa các lực lượng giáo dục thông
qua cầu nối là người giáo viên. Trên hành trình đi ươm mầm tri thức những tài
năng Việt, vai trò của người giáo viên càng trở nên vơ cùng quan trọng. Trong
thời kì hội nhập và phát triển, xem giáo dục là quốc sách hàng đầu như ngày nay
thì người giáo viên vừa có đức vừa có tài lại vơ cùng cần thiết. Người giáo viên
thời đại mới không chỉ đơn thuần là cung cấp cho các em những kiến thức hay
khám phá những chân trời tri thức mới mà còn phải trang bị cho các em những
kĩ năng cơ bản để có thể ứng phó với những đổi thay của cuộc sống. Hơn thế
nữa; người giáo viên cần phải tạo cho các em hứng thú, niềm tin, niềm lạc quan
trong hành trình chinh phục đỉnh cao tri thức. Như vậy có nghĩa là càng ngày xã
hội càng đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với giáo viên. Điều đó càng trở nên
khó khăn bội phần đối với những giáo viên lớp một như tôi.
Các em như một tờ giấy trắng. Bước chân vào ngưỡng cửa lớp 1 với bao điều
bỡ ngõ và mới mẻ. Cuộc sống của các em bắt đầu có nhiều thay đổi to lớn. Ở
lớp một; điều bỡ ngỡ đầu tiên đó là các em phải làm quen với một môi trường
mới, bạn bè mới, thầy cô mới và đặc biệt là những môn học mới đem lại cho các
em những hiểu biết về tự nhiên, xã hội - những kiến thức này cũng có thể tạo
cho các em sự thích thú nhưng nếu khơng khéo léo thì cũng có thể gây nên
những áp lực trong tâm hồn non nớt của các em. Đặc biệt đối với những môn


học có nhiều phân mơn như mơn Tiếng Việt gồm: Học vần, Tập viết, Chính tả,
Tập đọc, …. bất hình chung làm cho các em trở nên ngột ngạt và lo lắng.
Khác với các hoạt động ở trường mầm non, vui chơi là hoạt động chủ đạo thì ở
trường tiểu học, hoạt động học lại là hoạt động nòng cốt. Đây chính là biến đổi
thứ hai trong đời sống của trẻ. Việc chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt
động học tập là một rào cản rất lớn đối với học sinh (HS) lớp một. Các em rất
hiếu động, thường khó tập trung trong một thời gian dài và học theo cảm hứng.
Vì vậy, kết quả học tập của các em chưa cao. Ở giai đoạn này, trí nhớ của trẻ


tương đối phát triển nên trẻ ghi nhớ khá nhanh nhưng do chưa bền vững nên trẻ
chóng nhớ rồi cũng chóng qn. Trước tình hình đó, đặt ra cho người giáo viên
(GV) những thách thức mới: cần phải vận dụng kết hợp những biện pháp nào
để giúp trẻ hứng thú học tập, học với niềm thích thú, say mê với tất cả các mơn
học? Đó là một bài tốn rất nan giải, địi hỏi người GV phải khơng ngừng tìm
tịi để có thể phát hiện ra phương pháp giáo dục hữu hiệu.
Dẫu biết rằng môn học nào cũng quan trọng và trẻ chỉ có thể phát triển tồn diện
khi được giáo dục tích hợp. Nhưng do đặc thù của HS lớp 1 là chưa có khả năng
đọc, viết lưu lốt nên môn Học vần ở HKI và một nửa HKII là tối quan trọng.
Nó như chiếc cầu nối đưa các em đến với biển trời tri thức và bước đầu biết sử
dụng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ trong hoạt động giao tiếp thơng qua nói và viết. Như
vậy, ngơn ngữ có vai trị to lớn trong giao tiếp do đó các nhà giáo dục phải trau
dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng hứng thú của trẻ
vào các bài dạy. Đối với các em; biết đọc, biết viết như là cả thế giới đang mở
ra trước mắt. Cánh cửa ngôn ngữ tiềm ẩn trong tiềm thức của các em từng bước
được hé mở. Nhưng trong hành trình giúp các em khơi nguồn ngơn ngữ tiềm ẩn
bên trong ấy, không chỉ đơn thuần là áp dụng các phương pháp truyền thống mà
phải không ngừng đổi mới. Và tơi biết rằng; trong dạy học khơng có phương
pháp nào là vạn năng. Các phương pháp sẽ phát huy hiệu quả khi người GV biết
vận dụng linh hoạt các phương pháp ấy với nhau trên cơ sở phát huy điểm tốt,

khắc phục điểm yếu. Làm được như vậy, mỗi GV có thể giúp HS phát huy tính
tích cực học tập và tạo ra hứng thú tìm ẩn trong trái tim của các em. Và phương
pháp trò chơi sẽ là lựa chọn tốt nhất cho HS. Trò chơi học tập sẽ là người bạn
đồng hành hỗ trợ đắc lực cho hoạt động dạy của người GV. Bởi lẽ, đối với học
sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 1 nói riêng; vui chơi cũng là một nhu cầu
không thể thiếu được. Vừa học vừa chơi sẽ mang lại hiệu quả gấp đôi. Một mặt
tạo hứng thú, mặt khác giúp các em ghi nhớ lâu hơn. Vì vậy việc sử dụng các
trị chơi học tập trong phân mơn Học vần là hết sức cần thiết và bổ ích. Trị chơi
học tập là hoạt động được tổ chức có tính chất vui chơi, giải trí nhưng có nội
dung gắn với bài học. Trò chơi học tập sẽ giúp học sinh: thay đổi cách thức học
tập, chống mệt mỏi, tăng cường khả năng thực hành, biết vận dụng các kiến
thức đã học vào thực tế. Ngồi ra, trị chơi học tập cịn phát triển hứng thú, từng
bước hình thành thói quen tập trung, tính độc lập, ham hiểu biết và khả năng suy
luận. Khi chơi, trẻ tưởng tượng, suy ngẫm, thử nghiệm, lập luận để đạt kết quả
mà lại khơng nghĩ là mình đang học. Sự “ khô khan” của giờ học do đó sẽ được
giảm nhẹ, q trình học tập diễn ra một cách tự nhiên hơn, hấp dẫn và sinh động
hơn.


Thiết nghĩ; mỗi người GV lớp một, ai cũng mong muốn giúp cho học sinh học
tốt được phân môn Học vần. Để biến ước mơ thành hiện thực thì bản thân mỗi
người GV không chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn một cách
rập khn, máy móc mà cần phải khơng ngừng đào sâu suy nghĩ, tìm tịi
phương pháp dạy học tích cực để góp phần đào tạo các em thành những con
người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những diễn ra hằng
ngày.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy:
“ Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan”.
Các em như những mầm non cần được dưỡng ni và chăm sóc qua bàn tay của

người lớn. Nhiệm vụ của các em đang từng ngày từng giờ được hồn thiện dưới
bàn tay chăm sóc của thầy giáo, cơ giáo. Điều đó chỉ có thể trở thành hiện thực
khi và chỉ khi hoạt động học tập của học sinh được phát huy theo hướng tích
cực. Và mỗi giáo viên sẽ là người bắc những nhịp cầu để đưa học sinh đi đến
bến bờ tương lai. Có thể những kinh nghiệm của tôi đúc kết được từ thực tiễn
cơng tác giảng dạy vẫn cịn phần nào hạn chế. Nhưng với tấm lòng say mê,
nhiệt huyết với nghề và mong muốn tìm ra những hướng đi mới trong quá trình
giảng dạy đã tạo cho tơi động lực và niềm tin thúc đẩy bản thân tơi tìm hiểu và
tâm huyết với đề tài: “Vận dụng phương pháp trò chơi vào phân mơn Học vần
để kích thích hứng thú học tập cho HS lớp 1”.
1.

2.

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:

Thiết kế một số trị chơi mới, vui tươi, bổ ích, dễ làm, dễ hiểu để có thể giúp
HS nhanh chóng nhận biết mặt chữ; nâng cao hiệu quả dạy và học phân môn
Học vần lớp 1; giúp các em hứng thú hơn trong học tập.

1.

3. NHIỆM VỤ - PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA
ĐỀ TÀI:

1.1. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:


Phân môn Học vần lớp 1 là một bộ phận của môn Tiếng Việt, được nghiên cứu
và đúc kết từ những thành tựu của các nhà khoa học, đã đáp ứng những yêu cầu

cơ bản của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn cơng nghiệp hố và hiện đại hố
đất nước. Với mong muốn góp phần đổi mới phương pháp dạy học mơn Học
vần theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng
cường hoạt động cá nhân phối hợp với học tập giao lưu trên nền tảng kiến thức
và phương pháp truyền thống để giúp các em hình thành và rèn luyện kỹ năng,
vận dụng kiến thức vào thực tế.
Mặt khác, nhằm tạo thêm động lực và gây hứng thú trong quá trình học tập
phân mơn Học vần cho học sinh - một mơn học tuy khơng gọi là khó khăn hay
hóc búa nhưng lại khá mới mẻ đối với trẻ lớp 1 thì việc đưa ra trị chơi lồng
ghép trong các bài học để tạo cho các em cảm giác vừa học vừa chơi là tối quan
trọng. Hơn thế nữa, các trị chơi trong mơn Học vần khơng những chỉ giúp các
em lĩnh hội được tri thức mà còn giúp các em củng cố và khắc sâu các tri thức
đó, khám phá những chân trời tri thức mới, khơi dậy sự tị mà và ham thích
khám phá; tất cả đều hướng đến mục tiêu cao đẹp:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Để thực hiện được những điều mà tôi đã, đang ấp ủ; tôi tự vạch ra cho mình
một con đường đi để thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu: Thứ nhất; phải hệ
thống hoá những vấn đề có liên quan đến nội dung nghiên cứu như mục tiêu,
nội dung của phân môn Học vần; nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lí của HS lớp
1. Thứ hai; phải có khả năng thiết kế một số trò chơi dạy học Học vần và vận
dụng các trò chơi ấy vào thực tiễn giảng dạy một cách hiệu quả. Thứ ba, trên cơ
sở những kết quả đạt được, đề xuất các biện pháp và quy trình tổ chức trò chơi
dạy học Học vần thật sự hữu hiệu.
1.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đề tài : “Vận dụng phương pháp trị chơi vào phân mơn Học vần để kích thích
hứng thú học tập cho HS lớp 1” được thực hiện trong năm học 2013 - 2014 tại
trường Tiểu học An Bình B dựa trên kinh nghiệm được đúc kết từ các năm học
trước theo các phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học và phương pháp dạy
học Học vần ở lớp 1.



1.3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đó là hệ thống các trị chơi, biện pháp và quy trình tổ chức trị chơi thơng qua
q trình đọc của HS lớp 1.5 ở phân môn Học vần.
1.

4.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:

Để thực hiện việc nghiên cứu cho đề tài này, tôi đã tiến hành sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp trực quan.
4.2. Phương pháp thực hành - luyện tập.
4.3. Phương pháp gợi mở vấn đáp.
4.4. Phương pháp giảng giải, minh họa.
4.5. Phương pháp thực nghiệm.
4.6. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
4.7. Phương pháp quan sát, điều tra.
1.

TÍNH MỚI CỦA ĐỀ TÀI :

Đối với những người làm cơng tác giáo dục thì trị chơi hoc tập là một vấn đề
khơng cịn q xa lạ trong dạy học. Vai trị, vị trí và tác dụng mà trị chơi học
tập mang lại là rất lớn lao. Điều đấy đã được minh chứng thông qua kết quả học
tập và vận dụng những kiến thức đã được tiếp thu vào các hoạt động thực tiễn
của các em. Cùng với sự đa dạng về hình thức tổ chức cũng như những ý nghĩa,
tác dụng to lớn mà trò chơi đem lại, trò chơi được nghiên cứu theo nhiều

khuynh hướng khác nhau; chẳng hạn như:
Theo quan điểm của các nhà sư phạm nghiên cứu trị chơi và sử dụng nó với
mục đích giáo dục - phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ thì họ cho rằng: trị
chơi có vai trị quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của
trẻ. “Trò chơi học tập đẩy mạnh sự phát triển chung của trẻ, nó giúp trẻ xích lại
gần nhau, phát huy tính độc lập của chúng”. Quả thật vậy, nhờ có các trị chơi
học tập được đan xen, lồng ghép trong các tiết dạy mà tâm hồn trẻ thơ trở nên


hồn nhiên đúng nghĩa, các em yêu đời và thấy thích thú xiết bao khi được đến
trường.
Điều đó cho thấy nếu phương pháp trò chơi được vận dụng trong quá trình dạy
học và đi theo chiều hướng tích cực thì quá trình dạy và học sẽ gặt hái được
những “ trái ngon, quả ngọt”. Chính vì trị chơi học tập mang lại những hiệu quả
to lớn như vậy nên đây là một đề tài tuy khơng cịn khá mới mẻ và xa lạ với các
giáo viên tuy nhiên nó cũng chưa bao giờ là cũ vì mỗi thế hệ học sinh có những
đặc thù riêng địi hỏi người giáo viên phải tìm tịi, khám phá và khơi nguồn
những điều cịn tiềm ẩn trong bản thân mỗi em. Bản thân tôi thiết nghĩ, nếu mỗi
người giáo viên chịu khó đầu tư cho giáo án, khơng ngừng tìm tịi để thiết kế ra
những trị chơi mới vui tươi và bổ ích thì sẽ góp phần thay đổi bộ mặt nền giáo
dục theo hướng mơ hình trường học mới để có thể phát huy tối đa tính tích cực
học tập của học sinh. Những trị chơi mà tơi sưu tầm và thiết kế đều là những trị
chơi mới, có thể áp dụng cho hoạt động dạy truyền thống hoặc ứng dụng công
nghệ thông tin.

NỘI DUNG:
1.

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP TRỊ CHƠI :


Đối với một nhà nơng, nếu vì lợi nhuận mà ta ép cho quả đang non phải chín
đúng dịp thì trái khi chín sẽ khơng thật sự ngon ngọt. Đối với một nhà giáo cũng
vậy, nếu vì trách nhiệm mà ta ép các em phải học thì kết quả cũng khơng thể
cao. Sự học chỉ có thể đạt được những điều mĩ mãn trên cơ sở tự nguyện và tự
giác. Trên tinh thần đổi mới giáo dục với phương châm: “học mà chơi - chơi
mà học”, “chơi vui học càng vui”; học sinh sẽ tự khám phá tri thức dưới sự dẫn
dắt của người thầy. Khi đó; trị chơi học tập thực sự là một phương tiện hữu
hiệu để tạo ra sự hài hồ, thoải mái, khơng rập khn, cứng nhắc, đảm bảo tính
tự nhiên cho cuộc sống cũng như học tập của học sinh tiểu học một cách hứng
thú và bổ ích. Điều ấy càng trở nên có ý nghĩa hơn đối với những em HS lớp 1 lần đầu tiên được khám phá những con chữ ngộ nghĩnh, những dịng thơ, câu
văn gần gũi qua phân mơn Học vần.
1.

1.

Vị trí - mục tiêu - nhiệm vụ của phân môn Học vần:


1.1.

Vị trí :

Học vần là mơn học khởi đầu giúp cho HS chiếm lĩnh một công cụ mới để sử
dụng trong học tập và giao tiếp. Đó là chữ viết. Điều đó cho thấy: cùng với
những mơn học khác, phân môn học vần vô cùng quan trọng. Tầm quan trọng
của nó chịu sự quy định bởi tầm quan trọng của chữ viết trong hệ thống ngôn
ngữ. Nếu chữ viết được coi là phương tiện ưu thế nhất trong giao tiếp thì Học
vần có một vị trí quan trọng khơng thiếu được trong chương trình mơn Tiếng
Việt ở bậc tiểu học nói chung, học sinh lớp 1 nói riêng.
1.2.


Mục tiêu:

Mục tiêu cao nhất cần vươn tới của việc dạy học Tiếng Việt là rèn cho HS bốn
kĩ năng sử dụng tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết. Riêng đối với HS lớp 1, Học
vần là phân môn khởi đầu giúp HS chiếm lĩnh và làm chủ một công cụ mới để
sử dụng trong học tập và giao tiếp. Đó chính là chữ viết - phương tiện có ưu thế
nhất trong giao tiếp của loài người.
Đối với các em trong những tháng đầu chập chững bước vào lớp 1 thì kĩ năng
đọc và viết như là một chân trời hoàn toàn mới mẻ và lạ lẫm đối với các em.
Bởi lẽ, không phải HS nào cũng được làm quen với mặt chữ trước khi bước vào
lớp 1. Vì thế; theo quan điểm hiện hành, mục tiêu đặc biệt cần vươn tới của
phân môn Học vần là dạy chữ; có nghĩa là phải làm thế nào để HS biết đọc, biết
viết một cách nhanh nhất, chính xác nhất. Chính vì thế, mục tiêu dạy chữ rất
được chú trọng, thể hiện ở một số quan điểm cụ thể sau:
Thứ nhất, sách giáo khoa phải cung cấp vừa đủ lượng con chữ để thể hiện
các đơn vị âm thanh và ghép các con chữ này thành các tiếng có thực trong
tiếng Việt, tránh tình trạng q tải; nhồi nhét kiến thức.
Thứ hai, hệ thống chữ được đưa vào bài học theo đặc điểm chữ viết và theo
nguyên tắc đi từ chữ cái cấu tạo đơn giản đến chữ cái có cấu tạo phức tạp dần.
Thứ ba, những điểm khác biệt thể hiện trên chữ viết đều được lấy làm căn
cứ để xây dựng bài học.
Đối chiếu với SGK Tiếng Việt dành cho lớp 1 đang phát hành hiện nay đã đáp
ứng tốt các mục tiêu này. Mỗi đơn vị chữ trong sách giáo khoa đều giới thiệu
một tiếng thực làm tiếng khố cho nó. Thơng qua việc nhận diện tiếng, HS hiểu


được các âm mà chữ thể hiện đồng thời biết được các âm, các tiếng đó được đọc
như thế nào. Điều này đảm bảo cho quá trình dạy chữ và dạy âm được tiến hành
song song với nhau; tăng thêm hiệu quả.

1.3.

Nhiệm vụ:

Trong môn Tiếng Việt; cùng với tập viết, học vần có nhiệm vụ lớn lao là trao
cho các em chiếc chìa khố để vận dụng chữ viết khi học tập. Khi biết đọc, biết
viết các em sẽ có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, biết cách sử dụng SGK,
sách tham khảo… từ đó có cơ sở học tập tốt các mơn học khác có trong chương
trình.
1.

2.

Nội dung, chương trình phân mơn Học vần:

Theo phân phối chương trình mơn Tiếng Việt 1; phân mơn Học vần được giảng
dạy trong vòng 21 tuần, mỗi tuần dạy 5 bài được dạy trong 10 tiết. Nội dung
chương trình sử dụng các từ ngữ gần gũi quen thuộc với cuộc sống thực của HS;
các tranh, ảnh để dạy từ ngữ, câu ứng dụng, phần luyện nói phong phú đa dạng.
HS dễ hiểu.
Chương trình học vần lớp 1 gồm 103 bài ( 83 bài thuộc tập I và 20 bài thuộc
tập II ).
Cấu trúc về nội dung của phân môn Học vần gồm hai phần:
* Ở phần một: GV sẽ dạy về hệ thống âm, chữ ghi âm và thanh điệu bao gồm 28
bài đầu.
* Ở phần hai: GV sẽ dạy về hệ thống vần, gồm 75 bài tiếp theo.
Giáo dục là một q trình lâu dài và phức tạp, địi hỏi có sự chung tay góp sức
và phối hợp từ nhiều phía. Để có thể thực hiện tốt các bài dạy trên cơ sở vận
dụng linh hoạt các phương pháp dạy học thì việc tiên quyết đó là nắm bắt đặc
điểm tâm sinh lí của các em. Trên cơ sở nắm bắt được những đặc điểm cơ bản

về tâm sinh lí, người GV có thể thiết kế được những trị chơi hợp với thị hiếu
của các em.
1.

3.

Đặc điểm tâm sinh lí của HS lớp 1:


Đặc điểm tâm sinh lí của các em ở giai đoạn HS tiểu học nói chung và HS lớp 1
nói riêng có rất nhiều biến động phức tạp về các lĩnh vực tri giác, chú ý, trí nhớ,
tưởng tượng, nhu cầu, ngơn ngữ…. Ngơn ngữ của các em cịn nhiều hạn chế,
đặc biệt là ngôn ngữ viết. Giai đoạn HS lớp 1, các em bắt đầu hình thành hoạt
động quan sát, nhờ đó mà tri giác của các em có mục đích. Tuy nhiên, sự chú ý
của các em chủ yếu vẫn là chú ý không chủ định. HS lớp 1 thường chỉ chú ý đến
những cái mà các em thấy thích thú, nổi bật và cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau như nhịp độ bài học, tính khó dễ của bài, mơi trường xung quanh, ....

Mặt khác,các em có khuynh hướng ghi nhớ máy móc thơng qua các hoạt động
được lặp đi lặp lại nhiều lần. Hơn thế nữa, lớp 1 là lớp chuyển giao giữa mẫu
giáo và tiểu học. Do vậy, HS lớp 1 vẫn còn nhiều đặc điểm của lứa tuổi mẫu
giáo - nhu cầu thích vui chơi cao. Để cuốn HS vào hoạt động học tập một cách
tự nhiên, hiệu quả, GV cần sử dụng các trò chơi phù hợp. Trò chơi là một dạng
hoạt động thực hành thú vị, hấp dẫn, nó có thể kích thích tri giác của HS. Trị
chơi học tập là một hoạt động hấp dẫn và qua hoạt động này, HS sẽ ghi nhớ dễ
dàng hơn, bền vững hơn nội dung của bài học đồng thời tăng cường giao lưu
giữa các HS và chú ý tạo cơ hội để HS phát triển ngơn ngữ viết. Khi tham gia
trị chơi, HS sẽ khám phá ra những chân trời tri thức mới thơng qua các tình
huống thú vị, gắn liền với cuộc sống của trẻ để trẻ bằng trí tưởng tượng.
1.


B.

THỰC TRẠNG ( CƠ SỞ THỰC TIỄN)

Hiện tại, tôi đang giảng dạy tại Trường Tiểu học An Bình B. Ngơi trường của tơi
dạy thuộc phường An Bình, thị xã Dĩ An - nơi tiếp giáp với các cửa ngõ giao
thương của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Trong q trình giảng dạy tôi
cũng đã gặp rất nhiều thuận lợi như “ địa lợi”, “ nhân hịa” nhưng cũng khơng ít
khó khăn.
1.

1.

Thuận lợi:

Trường chúng tôi mới xây dựng và đi vào hoạt động được 3 năm nên nhìn
chung cơ sở vật chất, phương tiện dạy học đều đáp ứng tốt nhu cầu cho hoạt
động dạy và học của GV và HS. Trường có đầy đủ trang thiết bị, các em đều
học 2 buổi/ ngày. Hầu hết thời gian của các em đều gắn với trường lớp. Do vậy,
khi đến trường trong sâu thẳm trái tim của các em đều hồi hộp mong chờ những
điều mới mẻ, bất ngờ từ ngôi trường mà các em xem là ngôi nhà thứ hai này.


Chính vì trong lịng các em có tinh thần hăng hái và chờ đợi như vậy nên vai trò
và trách nhiệm của người giáo viên càng trở nên vô cùng quan trọng. Với mong
muốn tạo cho các em những “ bữa ăn tinh thần” bằng kiến thực thật ý nghĩa, tơi
ln cập nhật những thơng tin và tìm cách thiết kế một số trò chơi để phục vụ
cho giờ dạy. Tơi xem đó như là một món q ý nghĩa nhất dành tặng các em mỗi
ngày đến lớp.

Bên cạnh đó, chương trình sách giáo khoa được biên soạn trên cơ sở của việc
đổi mới phương pháp dạy học: các bài học được sắp xếp theo nguyên tắc đi từ
mạch kiến thức và kĩ năng được thực hiện đơn giản đến phức tạp; có lặp lại
nhưng đáp ứng yêu cầu phát triển, nâng cao.Việc tăng cường kênh hình của
sách, cách trình bày hấp dẫn, sinh động, nhiều hình ảnh, hình vẽ phù hợp với
lứa tuổi học sinh lớp 1 tạo điều kiện cho các em tiếp thu kiến thức một cách tự
nhiên hơn.
Ngồi ra; để có được những trị chơi hấp dẫn và cuốn hút, tôi đã nhận được sự
ủng hộ và giúp đỡ rất nhiệt tình của BGH nhà trường và các bạn đồng nghiệp
trẻ, giàu nhiệt huyết, tạo thêm nguồn động lực cho tôi an tâm sáng tạo ra những
sản phẩm mới phục vụ cho hoạt động giảng dạy.
1.

2.

Khó khăn:

Dù được sự hỗ trợ và giúp đỡ từ nhiều phía nhưng trong q trình giảng dạy,
bản thân tơi cũng gặp phải một vài khó khăn:
Một là; vì trường tơi thuộc địa bàn giáp ranh nên đa số học sinh là con em của
những người dân lao động nhập cư. Vì cuộc sống mưu sinh, bố mẹ của các em “
đầu tắt mặt tối” cả ngày ở công ty nên việc chăm lo đời sống tinh thần cho các
em chưa thật sự được chú trọng.
Hai là; trước tình hình chung của xã hội, người người, nhà nhà đều cho con em
mình học trước chương trình lớp 1 nên trong lớp học xuất hiện tình trạng trình
độ học sinh chưa đồng đều, một vài em tiếp thu kiến thức trong giờ học cịn thụ
động, khơng có hứng thú.
Ba là; do tâm lý lứa tuổi nhi đồng, các em vừa chuyển từ hoạt động vui chơi ở
mẫu giáo sang hoạt động học nên học sinh cảm thấy bị gò ép khi bước sang học
lớp 1, dẫn đến tâm lí hoang mang, lo lắng, thiếu tập trung.



Bốn là, học sinh lớp 1 ý thức chưa nhiều, khả năng về tiếp thu mệnh lệnh ở các
em còn nhiều hạn chế nên giáo viên mất rất nhiều thời gian hướng dẫn.
Năm là do quá trình soạn và thiết kế một trò chơi mất quá nhiều thời gian
và phải đầu tư theo chiều sâu cũng như các đồ dùng phục vụ cho vấn đề này nên
phương pháp trò chơi ít khi được phát huy tác dụng theo đúng nghĩa của nó.
Nhưng dù có khó khăn, gian khổ đến đâu thì mỗi người giáo viên khi đã
chọn cho mình cái nghiệp trồng người vẫn sẽ cố gắng nỗ lực hết sức mình. Bởi
lẽ, “khơng có con đường nào tới đỉnh vinh quang là trải đầy hoa hồng”. Đối với
những nhà giáo chân chính, tri thức và nhân cách tốt đẹp và niềm vui khi đến
lớp của các em chính là con đường hoa hồng. Trên con đường cung cấp tri thức
cho các em, tôi và các bạn ắt hẳn sẽ gặp khơng ít khó khăn vì nhiều lí do khách
quan và chủ quan. Nhưng tôi tin rằng, với trái tim giàu lịng nhiệt huyết, gắn bó
với sự nghiệp giáo dục, lớp lớp các thế hệ nhà giáo sẽ góp phần đưa nền giáo
dục nước nhà vươn tới những đỉnh cao mới, sánh vai cùng các cường quốc năm
châu.

1.

C.
1.

1.

NỘI DUNG:
LÍ LUẬN VỀ HỨNG THÚ HỌC TẬP:

Trên thế giới có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về hứng thú trong tâm lí học.
Vậy hứng thú là gì? Tại sao lại phải kích thích hứng thú học tập của HS. Trong

đề tài nghiên cứu của tôi, tôi xin được phép sử dụng khái niệm hứng thú của
Trần Thị Minh Đức làm công cụ:
1.1.

Hứng thú là gì?

Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý
nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng đem lại khối cảm cho cá nhân trong
q trình hoạt động.
Theo các nhà tâm lý học, hứng thú là thuộc tính có sẵn của con người. Nó gắn
liền với cơ sở sinh học; quá trình lớn lên của cá nhân. Đồng thời cũng là quá
trình bộc lộ dần thiên hướng, hứng thú của họ. Vì thế, hứng thú càng trở nên


quan trọng trong việc học tập phân môn Học vần ở lớp 1. Chỉ khi có hứng thú
thật sự đối với việc học tập này, học sinh mới thấy được sự hấp dẫn của nội
dung tri thức, sự phong phú của ngôn ngữ Tiếng Việt cũng như sự đa dạng của
các phương pháp được sử dụng để khám phá ra nội dung đó. Đồng thời các em
cũng cảm nhận được vai trị của ngơn ngữ mẹ đẻ đối với đời sống và các ngành
khoa học khác.
1.2.

Vì sao phải kích thích hứng thú học tập của HS:

Tôi rất tâm đắc với câu nói của đại văn hào Macxim Goocki: “Tài năng, nói cho
cùng là tình u đối với cơng việc”. Tình u trong cơng việc chỉ được hình
thành khi và chỉ khi có sự thay mê và hứng thú xuất phát từ trái tim. Như vậy,
hứng thú có vai trị rất to lớn đối với hoạt động của con người nói chung và hoạt
động nhận thức nói riêng. Nó góp phần làm tăng hiệu quả của quá trình nhận
thức, làm nảy sinh khát vọng hành động và hành động một cách say mê, sáng

tạo, làm tăng sức làm việc,...ở mỗi người. Trong họat động học tập cũng vậy,
hứng thú là yếu tố quan trọng thôi thúc học sinh nắm bắt tri thức một cách
nhanh hơn, sâu sắc hơn. Khi có hứng thú học một mơn nào đó, học sinh sẽ tập
trung chú ý vào đối tượng nhận thức, nhờ đó quan sát của các em trở nên nhạy
bén và chính xác, hoạt động chú ý trở nên bền vững, việc ghi nhớ dễ dàng và
sâu sắc hơn, do đó q trình tư duy cũng sẽ tích cực hơn, sự tưởng tượng trở
nên phong phú ... Khi đã có được hứng thú, các em sẽ tự giác, sáng tạo, say sưa
với việc học, cảm thấy khơng biết mệt mỏi trong q trình lĩnh hội nhờ đó kết
quả học tập của HS sẽ ngày càng nâng cao, phát triển một cách tích cực.

1.

2.
TẬP:

LÍ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP TRỊ CHƠI TRONG HỌC

Trị chơi học tập là gì? Vì sao phải vận dụng phương pháp trị chơi trong dạy
học? Các trị chơi đó được tiến hành như thế nào? Đề tài mà tôi nghiên cứu sẽ
đưa ra một vài câu trả lời cho các câu hỏi trên. Trước tiên, ta sẽ cùng nhau tìm
hiểu khái niệm trò chơi học tập.


2.1.

Thế nào là trò chơi học tập?

Quan điểm của các nhà tâm lí học và giáo dục học cho rằng:
Trị chơi học tập là trị chơi có luật và nội dung cho trước, là trò chơi của sự
nhận thức, hướng đến sự mở rộng, chính xác hố, hệ thống hố các biểu tượng

đã có, nhằm phát triển các năng lực trí tuệ, giáo dục lịng ham hiểu biết cho trẻ
- trong đó có nội dung học tập được kết hợp với hình thức chơi. Thơng qua hoạt
động chơi, học sinh được củng cố, vận dụng các kiến thức, nội dung đã học vào
các tình huống của trị chơi và do đó trẻ được học.
2.2.

Tác dụng của trị chơi học tập:

* Đối với hoạt động học trong tất cả các môn học:
Trị chơi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với học sinh. Nó vừa thoả mãn nhu cầu
được chơi, được giải trí của các em, vừa góp phần phát triển các chức năng tâm
lí và hình thành nhân cách bản thân các em.
Khi được tổ chức đúng cách, hợp lí, trị chơi sẽ kích thích sự phát triển trí tuệ
của trẻ. Thông qua hoạt động chơi, nhiều kĩ năng cần thiết cho trẻ được hình
thành và rèn luyện.
Ngồi ra, thơng qua những trị chơi này sẽ góp phần hình thành tính kỉ luật, tính
mục đích, tình cảm, ngơn ngữ của HS.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng: trị chơi là một hoạt động rất bổ ích, có
tác dụng phát triển HS tồn diện. Học trong q trình vui chơi là quá trình lĩnh
hội tri thức, vốn kinh nghiệm xã hội nhẹ nhàng, tự nhiên, khơng bị gị bó, phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lí ở HS. Học bằng chơi sẽ khơi dậy hứng thú tự
nguyện, làm giảm sự căng thẳng thần kinh ở các em, giữ được nét hồn nhiên trẻ
thơ.
* Đối với hoạt động học trong phân mơn học vần:
Trong phân mơn Học vần, trị chơi học tập thường được sử dụng trong phần giới
thiệu bài, hoạt động giải nghĩa từ, thực hành luyện nói hoặc phần củng cố bài
học. Ở mỗi hoạt động khác nhau, trò chơi học tập mang lại những tác dụng
riêng. Nhưng nhìn chung, trò chơi học tập được thết kế nhằm các mục đích sau
đây:



* Phát triển các giác quan của HS như : sự tinh nhạy của đôi mắt, đôi tai,
....thông qua một số trị chơi: Đuổi hình bắt chữ, nốt nhạc vui.
* Phát triển các thao tác tư duy: HS nhìn nhận, phân tích, so sánh, khái quát về
sự vật, hiện tượng theo một dấu hiệu bề ngồi.
* Phát triển óc tưởng tượng: Đây là loại trò chơi mà HS sử dụng vốn sống,
những biểu tượng đã có ở trong đầu để thực hiện các thao tác chơi, nội dung
chơi. Nhờ óc tưởng tượng, các em thực hiện được thao tác chơi, nội dung chơi
và nhập vai thực sự vào cuộc chơi. Hiệu quả sẽ tăng cao nếu GV thiết kế một số
trị chơi như đóng vai theo chủ đề luyện nói.
* Phát triển trí nhớ: Đây là loại trị chơi rèn luyện và phát triển trí nhớ của HS
về những tri thức, khái niệm, biểu tượng mà các em đã lĩnh hội trước đó. Gv có
thể xây dựng các trị chơi ở phần củng cố theo hướng tìm tiếng ngồi bài có
chứa vần vừa học.
* Phát triển chú ý, ngơn ngữ của HS: Khả năng sử dụng ngơn ngữ nói và viết
của học sinh sẽ được tăng cao nhờ các hoạt động tham gia trị chơi, thảo luận
nhóm. Qua trị chơi học tập, HS lĩnh hội, tiếp thu và khắc sâu được nhiều tri
thức, nhiều khái niệm và hình thành được những biểu tượng rõ rệt về các sự vật,
hiện tượng xung quanh. Trên cơ sở đó, các phẩm chất trí tuệ của các em được
hình thành như: sự nhanh trí, tính linh hoạt, sáng tạo, tính kiên trì, ...
2.3.

Những điều cần lưu ý khi tổ chức trò chơi học tập:

Trò chơi học tập mang lại nhiều tác dụng ưu việt như thế song trong q trình tổ
chức trị chơi, giáo viên cần lưu ý tránh cho học sinh những phản ứng khơng
tích cực và cần lưu tâm các vấn đề sau:
Thứ nhất; nội dung trò chơi phải gắn với mục tiêu của bài học.
Thứ hai; luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện.
Thứ ba; hình thức, điều kiện và phương tiện tổ chức trò chơi phong phú,

hấp dẫn.
Thứ tư; sử dụng trò chơi đúng lúc, đúng chỗ.


Thứ năm; chọn quản trị chơi có năng lực phù hợp với u cầu của trị chơi,
kích thích sự thi đua giành phần thắng cho học sinh khi tham gia.
Thứ sáu, tổ chức chơi vào thời gian thích hợp của bài học để vừa làm cho học
sinh hứng thú học tập vừa hướng cho học sinh tiếp tục tập trung các nội dung
khác của bài học.
2.4.

Biện pháp tổ chức trò chơi dạy học học vần:

Để tiến hành trò chơi một cách thuận lợi và hiệu quả nhất thì điều kiện tiên
quyết là Gv phải chuẩn bị và lên kế hoạch cũng như đưa ra những biện pháp
thích hợp cho từng loại bài, dạng bài, chẳng hạn như:
2.4.1.

Biện pháp lựa chọn trị chơi

Để tránh sự nhàm chán trong q trình học, GV phải xây dựng được một ngân
hàng trò chơi Học vần phong phú, đa dạng và phù hợp. Để có được ngân hàng
trị chơi đó; GV phải khơng ngừng tìm tòi tư liệu; sưu tầm ở các sách giáo viên,
sách tham khảo, các tờ báo hoặc GV cũng có thể tự mình thiết kế xây dựng trị
chơi.

2.4.2.

Biện pháp tổ chức trị chơi


* Biện pháp tạo và duy trì sự hứng thú chơi của HS : GV nên dùng những câu
hỏi mang tính gợi mở, phải mở đầu thật hấp đẫn ấn tượng bằng nhiều cách khác
nhau. GV nên sử dụng những bài thơ vui, câu đố, những bài hát, những câu
chuyện... để làm lời dẫn của trò chơi. Trong quá trình thực hiện, GV cần tích
hợp nhiều mơn học vào trị chơi dạy Học vần để kích thích các em đến với trị
chơi. Biện pháp phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của HS: Tuỳ thuộc
vào trình độ của HS, GV cần lựa chọn cách tổ chức với các mức độ tham gia
của HS từ thấp đến cao bằng cách tạo ra những tình huống chơi mang tính có
vấn đề, tính tìm kiếm và cuốn hút HS vào các tình huống ấy.
* Biện pháp phát triển kĩ năng chơi: Gv có thể làm mẫu, giải thích những trị
chơi có cách thức mới để HS nắm được cách chơi. Sau khi các em chơi trò
chơi, GV sẽ sữa chữa những sai sót cho các em một cách kịp thời.


* Biện pháp nâng cao thái độ của HS trong q trình chơi : Thơng qua trị
chơi, GV giúp HS thiết lập mối quan hệ bạn bè thân ái, biết phối hợp cùng nhau
trong trò chơi, kịp thời nhắc nhở khi HS có thái độ khơng tốt với bạn chơi và cố
gắng tạo điều kiện cho trẻ tự nhận xét, đánh giá sau buổi chơi.

* Biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Học vần: Khi tổ chức trò chơi dạy học
Học vần trong giờ lên lớp, người GV có thể tổ chức trong tiết dạy học âm vần
mới hoặc có thể sử dụng trong các tiết ơn tập âm vần để củng cố những kiến
thức vừa mới học hoặc ôn lại những kiến thức đã học trong tiết trước. Thực
nghiệm cho thấy, một trong những cách làm hiệu quả nhất thường thấy là lồng
ghép bài tập cần luyện tập vào trong một trò chơi đã biết.
Nếu thực hiện theo những biện pháp trên thì trị chơi học tập trong phân môn
Học vần sẽ đi vào chiều sâu và phát huy tác dụng một cách hữu hiệu nhất. Tuy
nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kỹ
năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài
học mới. Tùy theo tình hình thực tế của mỗi lớp mà người GV có thể thiết kế

nên những trò chơi cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Nhưng dù là
trị chơi nào đi chăng nữa thì khi tổ chức các trị chơi cũng nên tiến hành theo
quy trình sau đây:
2.5.

Quy trình thực hiện một trò chơi học tập:

Giai đoạn 1: Lựa chọn trò chơi
*
trị chơi.

Bước 1: Phân tích u cầu, mục tiêu của hoạt động định tổ chức

*
Bước 2: Chọn thử một trò chơi và tiến hành lồng ghép, thay đổi
nhiệm vụ nhận thức, luật chơi cho phù hợp. Phân tích nội dung và khả năng
giáo dục của nó.
*
Bước 3: Đối chiếu nội dung và khả năng giáo dục của trò chơi vừa
chọn với yêu cầu, mục đích của hoạt động.

Giai đoạn 2: Chuẩn bị tổ chức trò chơi


*

Bước 4: Thiết kế “giáo án” trò chơi

- Tên trò chơi.
- Mục đích giáo dục.

- Chuẩn bị: Tuỳ thuộc từng trò chơi nêu các phương tiện vật chất cần thiết như
đồ chơi, phần thưởng.
- Cách tiến hành: Nội dung trò chơi, luật chơi, cách đánh giá.
*

Bước 5: Chuẩn bị thực hiện “giáo án”

- Chuẩn bị đầy đủ và có chất lượng các phương tiện.
- GV phải nắm rõ luật chơi, cách đánh giá để phổ biến cho HS.
Giai đoạn 3: Tổ chức trò chơi
*

Bước 6: Đặt vấn đề

- Giới thiệu tên trò chơi.
- Nêu yêu cầu của trò chơi.
*

Bước 7: Hướng dẫn trị chơi

- GV giải thích rõ ràng, mạch lạc nội dung chơi, luật chơi và chơi thử (nếu cần).
*

Bước 8: Tiến hành chơi

- GV cho HS thực hiện trò chơi theo các hoạt động đã nêu. GV phải theo sát
quá trình chơi của HS; theo dõi khả năng tư duy, ngơn ngữ của HS; động viên,
khuyến khích HS tham gia chơi; theo dõi tiến độ chơi và đánh giá kết quả bộ
phận.


Giai đoạn 4: Nhận xét đánh giá sau khi chơi
* Bước 9: Giúp HS nhận xét về:


- Mức độ thực hiện và nắm vững luật chơi.
- Thành tích của HS trong khi chơi.
- Những quan hệ của HS trong nhóm chơi.
* Bước 10: GV nhận xét lại (sửa chữa, bổ sung các ý kiến nhận xét chưa chính
xác), nhận xét chung, phát thưởng (Nếu có).

Giai đoạn 5: Rút ra bài học, nhấn mạnh các kiến thức Học vần
* Bước 11: Củng cố, giáo dục tư tưởng qua trò chơi.
- GV tổ chức cho HS nhắc lại các kiến thức âm, vần cần ơn tập trong trị chơi;
giúp HS rút ra bài học về một số cách thức học vần (cách ghép nhanh, cách tìm
nhanh, cách điền nhanh, ...) mà HS học được thơng qua trị chơi.
Như vậy, có thể thấy quy trình lựa chọn và tổ chức trò chơi Học vần cho HS
lớp 1 được thực hiện qua các bước một cách cụ thể, rõ ràng. Tuy nhiên, đây là
một quy trình mềm dẻo, linh hoạt, sự phân chia các giai đoạn, các bước tiến
hành chỉ mang tính chất tương đối. Khi tổ chức trong thực tế, các bước này có
thể đan xen với nhau và cần vận dụng một cách linh hoạt tùy theo tình hình thực
tiễn của lớp học.
1.

3.
THIẾT KẾ MỘT SỐ TRỊ CHƠI TRONG PHÂN MƠN
HỌC VẦN:

Khi tổ chức trị chơi học tập để dạy môn Học vần, mỗi người GV phải dựa vào
nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để đưa ra các trò
chơi cho phù hợp. Song muốn tổ chức được trò chơi trong dạy Học vần có hiệu

quả cao thì địi hỏi mỗi giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn
kẽ dựa trên cấu trúc của SGK và chương trình học. Sau đây, tơi xin giới thiệu
một số trị chơi có thể phục vụ cho hoạt động dạy học Học vần.

1.
1.1.

1.

Hệ thống trò chơi dạy âm mới:
Trò chơi Tiếp sức đồng đội:


* Mục đích: Giúp HS nhận dạng được tiếng chứa chữ ghi âm, ghi vần mới, biết
đọc tiếng có âm(vần) mới.
* Chuẩn bị : Các thẻ từ ghi các từ ứng dụng có tiếng chứa âm vừa học; bút lơng
dầu( hoặc phấn màu); thước kẻ.
* Luật chơi: GV chia lớp thành 2 đội, mỗi đội 4 thành viên xếp thành hàng ngay
ngắn. Khi cả lớp cùng đếm ngược từ 3 về 1, các thành viên của mỗi đội sẽ dùng
bút lông dầu( đối với dạy ƯDCNTT) hoặc phấn màu( đối với dạy học truyền
thống) và dùng thước kẻ gạch chân tiếng chứa âm vừa học. Đội nào gạch đúng
và nhanh nhất sẽ đội thắng cuộc.
*

Lưu ý:
- Thời điểm tiến hành: Ở hoạt động Hướng dẫn đọc từ ứng dụng của tiết 1

( Thời gian chơi: 2 phút).
- Trò chơi này cũng thể áp dụng cho các dạng bài dạy vần mới.
Ví dụ minh họa: Hoạt động Hướng dẫn đọc từ ứng dụng của bài 17: u – ư


1.2.

Trò chơi Tập làm họa sĩ:


* Mục đích: Giúp HS nhận dạng được chữ ghi âm, ghi vần mới, đọc tiếng có
âm(vần) mới.
* Chuẩn bị : Hình ảnh một số con vật, đồ vật, người...có tên gọi là tiếng, từ chứa
âm (vần) mới cùng một vài hình ảnh của người, vật mà tên gọi khơng có âm
(vần) mới để học sinh lựa chọn. Ghi tên gọi dưới mỗi hình, kẻ khung cho từng
chữ ghi mỗi tên gọi..
* Luật chơi: Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội 4 thành viên. Khi có hiệu lệnh “ Bắt
đầu” , các thành viên của mỗi nhóm sẽ dùng bút chì màu tơ vào chữ có âm hoặc
vần mới học. Sau khi tơ, học sinh phải nói rõ ơ chữ ở hình vẽ nào (gọi tên con
vật, đồ vật, người trong hình vẽ ) có chữ ghi âm (vần) mới đó là gì. Nhóm nào
tơ đúng và nhanh nhất sẽ thắng cuộc.
*

Lưu ý:

- Thời điểm tiến hành: Ở hoạt động củng cố của tiết 2( Thời gian chơi: 3
phút).
Trò chơi ở hoạt động củng cố của tiết 2 bài 12: i – a tơi thiết kế như sau:

1.3.

Trị chơi Nhanh tay, nhạy mắt:

* Mục đích: Giúp HS nhận dạng được chữ ghi âm, ghi vần mới.

* Chuẩn bị : Bộ chữ ghép âm, vần trong bộ thực hành Toán – Tiếng Việt.
* Luật chơi: Chia lớp thành 2 đội. Khi có hiệu lệnh “ Bắt đầu” , các thành viên
của mỗi đội sẽ lựa chọn các chữ cái trong bộ thực hành và ghép thành 1 tiếng
chứa âm vừa học, sau đó dơ bảng cho GV nhận xét. Một HS của đội ghép đúng


sẽ được 1 bông hoa. Kết thúc thời gian quy định, đội nào được nhiều bông hoa
nhất sẽ là đội thắng cuộc.
*

Lưu ý:

- Thời điểm tiến hành: Ở hoạt động củng cố của tiết 2( Thời gian chơi: 3
phút)Chẳng hạn như ở bài 19: s – r: Sau khi có hệu lệnh của giáo viên, đội A
có 5 bạn tìm được 5 tiếng (tương ứng 5 bông hoa điểm 10) và đội B có 4 bạn
tìm được 4 tiếng chứa âm s, r (tương ứng 4 bông hoa điểm 10). Như vậy đội A
là đội thắng cuộc.

Đội A

Đội B

1.
2.1.
*

2.

Hệ thống trị chơi ơn tập âm:
Trị chơi Những con chữ biết hát:


Mục đích: Giúp HS:
- Củng cố và rèn luyện khả năng nhận diện các chữ cái.
- Phát triển trí nhớ cho trẻ.

*

Chuẩn bị:

- GV sưu tầm một số bài thơ, bài hát về đặc điểm của các chữ cái. GV có thể
đọc hoặc hát và u cầu HS đốn thử.


- Chữ cái làm đáp án.
*

Cách tiến hành:

- GV chia lớp thành 2 đội, cùng ngồi ở dưới lớp. Phía trên bảng, GV sẽ hát
hoặc đọc thơ, khi Gv vừa kết thúc đội nào dơ tay nhanh nhất, đúng tư thế và
không phạm quy sẽ dành được quyền trả lời. Trả lời đúng ghi được 1 điểm, trả
lời sai thì quyền trả lời thuộc về đội còn lại. Kết thúc 3 phút, đội nào cao điểm
nhất sẽ là đội thắng cuộc.
- HS tiến hành chơi.
- GV và HS cùng kiểm tra kết quả, khen thưởng đội thắng cuộc.
*

Lưu ý:
- Thời điểm sử dụng: Trong thời gian 3 phút của hoạt động củng cố ở tiết 2.


Thông qua bài 16, 21: Ơn tập, tơi sẽ tiến hành trị chơi như sau:
Để giúp HS có thể ghi nhớ được các nguyên âm, phụ âm; GV sẽ tổ chức cho HS
chơi trò chơi này bằng cách Gv đọc một câu thơ:
.... tròn như quả trứng gà; ..... thì đội mũ; .... thì thêm râu.
Hoặc GV dùng hành động và yêu cầu HS đoán chữ, chẳng hạn như: Giơ 1 bàn
tay nắm chặt các ngón lại thẳng ngang vai và đố HS đó là chữ gì ( chữ i). Giơ
hai bàn tay nắm chặt các ngón lại thẳng ngang vai và đố HS đó là chữ gì ( chữ
u).... cứ như thế HS sẽ ghi nhớ rất lâu. Sau đó củng cố lại trị chơi bằng cách GV
vừa hát vừa đưa hành động và yêu cầu HS làm theo.

2.2.
*

Trò chơi: Cờ chớp( lấy cờ nhanh).
Mục đích: Giúp HS:

- Luyện khả năng nhận biết nhanh các chữ cái đã học
- Rèn luyện khả năng nhanh nhẹn, tính kỷ luật.


*

Chuẩn bị:

- 6 lá cờ, mỗi lá cờ có gắn 1 chữ cái khác nhau.
- 1 ống cắm cờ.
*

Cách tiến hành:
- GV chia lớp thành 2 đội, mỗi đội 4 thành viên cùng tham gia trò chơi.


- GV nêu luật chơi: có 4 bức hình được đánh số thứ tự từ 1 đến 4; mỗi bức
hình chứa 1câu hỏi hoặc câu đố, đoạn phim, đoạn nhạc có câu trả lời là từ có
tiếng ngồi bài chứa vần vừa học. Mỗi đội chơi sẽ có 2 lượt lựa chọn bức hình,
chọn bức nào sẽ trả lời câu hỏi ở sau bức ấy; mỗi câu trả lời đúng được 10 điểm.
Sau khi đã mở hết các bức hình nhỏ, đội nào trả lời được hình nền theo câu hỏi
gợi ý sẽ dành được 20 điểm. Kết thúc trò chơi, đội nào nhiều điểm hơn là đội
thắng cuộc.
*

Lưu ý:
- Thời điểm sử dụng: Hoạt động củng cố ở tiết 2.
- Trò chơi này có thể sử dụng cho các loại bài dạy khác.

Thiết kế trò chơi phục vụ cho bài 57: ang – anh

1.

1.

Mùa

rợp
bóng
Mùa
đơng
gió
Khẳng khiu cành trụi, lá rơi cây bu

sân


trường
bấc

em
đầy

chơi
trời



×