Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tổ chức dạy học văn học nước ngoài cho học sinh trung học phổ thông theo hướng tiếp cận chuẩn đầu ra ( chương trình ngữ văn 11, ban nâng cao)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 143 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐỖ THỊ THÚY

TỔ CHỨC DẠY HỌC VĂN HỌC NƢỚC NGOÀI CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO HƢỚNG TIẾP CẬN
CHUẨN ĐẦU RA (CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11, BAN CƠ BẢN)

Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học
(Bộ môn Ngữ văn)
Mã số
: 60 14 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TÔN QUANG CƢỜNG
TS. LÊ THỜI TÂN

HÀ NỘI - 2011

1


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

DH

Dạy học

ĐH



Đại học

HS

Học sinh

GV

Giáo viên

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

VH

Văn học

VHNN

Văn học nước ngoài

3



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu ...................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................4
5. Mẫu khảo sát ............................................................................................5
6. Câu hỏi nghiên cứu ..................................................................................5
7. Giả thuyết nghiên cứu ..............................................................................5
8. Phương pháp chứng minh luận điểm ........................................................5
9. Cấu trúc luận văn .....................................................................................6
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................7
1.1. Một số học thuyết về quá trình học tập ..................................................7
1.1.1. Học tập và giáo dục ............................................................................7
1.1.2. Khái niệm dạy học..............................................................................10
1.1.3. Quá trình dạy học ...............................................................................11
1.1.4. Hoạt động dạy học..............................................................................12
1.2. Lí thuyết về chuẩn đầu ra ......................................................................13
1.2.1. Các khái niệm.....................................................................................13
1.2.2. Chuẩn đầu ra ......................................................................................16
1.2.3. Dạy học theo hướng tiếp cận chuẩn đầu ra .........................................30
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG DẠY HỌC VĂN HỌC NƢỚC NGOÀI
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG ..............................................44
2.1. Tổng quan về mơn Ngữ văn cấp trung học phổ thơng và phần văn học
nước ngồi trong chương trình sách giáo khoa trung học phổ thơng ....................44
2.1.1. Mục tiêu và những yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng môn
Ngữ văn cho học sinh trung học phổ thông ..................................................44
2.1.2. Tổng quan về phần văn học nước ngồi trong chương trình Sách
giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thơng .......................................................48

2.1.3. Vị trí, vai trị, đặc điểm của phần văn học nước ngoài trong
Sách giáo khoa Ngữ văn 11 ..........................................................................50

4


2.2. Những khó khăn khi giảng dạy tác phẩm văn học nước ngoài ở
trường THPT ................................................................................................53
2.2.1. Vấn đề bản dịch ..................................................................................53
2.2.2. Vấn đề ngôn ngữ ................................................................................54
2.2.3. Vấn đề phân phối chương trình ..........................................................54
2.2.4. Vấn đề quan niệm của người dạy và người học ..................................55
2.3. Thực trạng và tồn tại trong giảng dạy văn học nước ngoài ở trường THPT ................
55
2.3.1. Tồn tại trong giảng dạy văn học nước ngoài ở trường THPT ..............55
2.3.2. Thực trạng về dạy học tác phẩm văn học nước ngồi .........................56
Chƣơng 3: QUY TRÌNH DẠY HỌC THEO HƢỚNG TIẾP CẬN
CHUẨN ĐẦU RA VÀ XÂY DỰNG CHUẨN ĐẦU RA PHẦN
VĂN HỌC NƢỚC NGỒI CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11,
BAN CƠ BẢN.............................................................................................58
3.1. Quy trình dạy học theo hướng tiếp cận chuẩn đầu ra phần văn học
nước ngoài ...................................................................................................58
3.2. Xây dựng chuẩn đầu ra phần văn học nước ngoài chương trình
Ngữ Văn 11, ban cơ bản ...............................................................................62
3.3. Thiết kế dạy học một số bài văn học nước ngồi chương trình
Ngữ văn 11 ban Cơ bản theo hướng tiếp cận chuẩn đầu ra ...........................69
3.3.1. Đoạn trích Tình u và thù hận (trích vở kịch “ Rơ-mê-ơ và Giu-li-ét”
của U.Sếch-xpia) ..........................................................................................69
3.3.2.Bài thơ Tôi yêu em A.X.Pu-skin .........................................................74
3.3.3.Truyện ngắn Người trong bao ( A.P.Sê-khốp) .....................................78

3.3.4. Đoạn trích Người cầm quyền khơi phục uy quyền (Trích tiểu
thuyết “Những người khốn khổ” của V. Huy-gơ) .........................................83
3.3.5. Văn bản nghị luận Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác (Ph.Ăng-ghen) ..............88
Chƣơng 4: THỰC NGHIỆM TỔ CHỨC DẠY HỌC VĂN HỌC
NƢỚC NGỒI Ở TRƢỜNG PHỔ THƠNG THEO HƢỚNG
TIẾP CẬN CHUẨN ĐẦU RA ...................................................................94
4.1. Mục đích của thực nghiệm ....................................................................94
4.2. Đối tượng và nội dung thực nghiệm .....................................................94

5


4.3. Quy trình triển khai thực nghiệm ...........................................................95
4.3.1. Đoạn trích “Tình u và thù hận” trích vở kịch “Rơ-mê-ơ và Giu-li-ét”
của Sếch–xpia ..............................................................................................96
4.3.2. Bài thơ “Tôi yêu em” của Pu-skin ......................................................
103
4.4. Phương pháp và phương tiện dạy học ....................................................
108
4.5. Kết quả của quá trình thực nghiệm ........................................................
108
4.5.1. Thời gian thực nghiệm .......................................................................
108
4.5.2. Kết quả thực nghiệm giảng dạy đoạn trích “Tình u và thù
hận” trích vở kịch “Rơ-mê-ơ và Giu-li-ét” của Sếch-xpia và bài thơ
“Tôi yêu em” của Pu-skin theo hướng tiếp cận chuẩn đầu ra ........................
108
123
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.............................................................
1. Kết luận....................................................................................................

123
2. Khuyến nghị .............................................................................................
123
125
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................
PHỤ LỤC

6


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Q trình dạy học ngày nay nhấn mạnh vào việc phát huy tính tích cực,
chủ động và sáng tạo của người học. Người giáo viên trong q trình giảng
dạy khơng chỉ giúp học sinh lĩnh hội tri thức mà còn phải giúp các em rèn
luyện đạo đức, nhân cách và các kĩ năng (kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc
và tổ chức hoạt động…). Chính vì thế, trong q trình dạy học, người giáo
viên ln phải xác định cho mình mục tiêu của quá trình dạy học, lựa chọn
cho mình một hoặc một vài phương pháp tối ưu nhất, phù hợp nhất đối với bài
học để có thể cung cấp nhiều nhất kiến thức, kỹ năng cho học sinh. Quá trình
dạy học phải trả lời câu hỏi: sau khi học xong môn học này, học sinh sẽ có
những kiến thức gì, thực hiện được những thao tác và kĩ năng nào?
Trong thực tế, dạy học gắn với nhu cầu của xã hội là điều rất cần thiết
trong giai đoạn hiện nay. Thực tế của đời sống yêu cầu giáo dục phải đào tạo
những con người năng động, sáng tạo, phù hợp sự phát triển mạnh mẽ của
kinh tế và khoa học kĩ thuật. Chính vì thế, tại một số nước trên thế giới như
Anh, Mỹ… dạy học theo hướng tiếp cận chuẩn đầu ra đã được triển khai và
đạt được những hiệu quả tích cực.
Ở nước ta, dạy học chú trọng vào việc trả lời câu hỏi: “Học sinh sẽ làm
được gì sau khi học xong (ở cả ba cấp độ: cả chương trình ngữ văn; từng phân

mơn; từng chương bài)?” chưa được quan tâm đúng mức. Trong thực tế, ở
nhiều trường, nhiều giáo viên cịn dạy học nhằm đạt thành tích cao trong kiểm
tra, thi cử (chạy theo thành tích) mà xem nhẹ việc rèn luyện kỹ năng, đạo đức
cho học sinh. Chính vì thế, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng yêu cầu về
chuẩn kiến thức, kĩ năng mà học sinh phải đạt được sau khi học xong chương
trình học. Dạy hoc dựa trên chuẩn đầu ra đã được xác định cụ thể, không chỉ
giúp giáo viên và học sinh có kế hoạch hợp lí cho q trình dạy học có cơ hội
tự học, tự rèn luyện bằng nhiều cách thức, nhiều phương pháp để đạt được

1


những yêu cầu đã được đặt ra trước đó mà còn thực hiện được mục tiêu dạy
học đáp ứng nhu cầu cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Đặc biệt trong dạy học môn Ngữ văn, việc xác định chuẩn đầu ra càng
là một yêu cầu không thể thiếu. Bởi lẽ dạy học văn là không chỉ là dạy một
môn nghệ thuật mà cũng là dạy một môn khoa học. Văn chương là lĩnh vực
cảm thụ thẩm mĩ và sáng tạo của mỗi cá nhân. Quá trình tiếp nhận văn học là
quá trình người đọc được giao tiếp cùng với nhà văn thông qua tác phẩm. Nhà
văn gửi gắm thơng điệp của mình trong hình tượng nghệ thuật. Bạn đọc được
khám phá, được sống với hình tượng nghệ thuật bằng tồn bộ tâm hồn và trí
tuệ của mình, được bộc lộ những suy nghĩ nhận định đánh giá và thể hiện
cách cảm nhận riêng về tác phẩm. Vì vậy, dạy học văn ngày nay cần phải giúp
học sinh bộc lộ suy nghĩ và cách cảm thụ văn học riêng. Từ đó tâm hồn nhà
văn gặp gỡ tâm hồn học sinh. Chân lí nghệ thuật sẽ được tiếp nhận một cách
tự giác và tác động nghệ thuật sẽ lâu bền hơn trong lịng bạn đọc - học sinh.
Để từ đó, học văn thực sự mang lại hứng thú cho học sinh, bồi dưỡng tâm
hồn, nhân cách các em, mang lại nhiều lợi ích và kĩ năng sống cho học sinh.
Tuy nhiên, vì văn học là một mơn nghệ thuật nên việc xây dựng chuẩn
đầu ra với môn học này cũng có những đặc trưng riêng. Đó là những yêu cầu về

kiến thức, kĩ năng, thái độ cần đạt được sau khi học đối với môn văn học. Học
sinh học xong mơn học khơng chỉ có những kiến thức, kĩ năng sử dụng trong
cuộc sống mà còn biết trân trọng những giá trị tinh thần cao đẹp của đất nước và
nhân loại, tâm hồn các em được bồi dưỡng, nhân cách được hoàn thiện.
Việc dạy và học văn học nước ngoài ở trường THPT vẫn còn nhiều vấn
đề nan giải. Những tác phẩm văn học nước ngoài được lựa chọn đưa vào
trường THPT đều là những tác phẩm tiêu biểu, có giá trị của các nền văn học
lớn trên thế giới. Tuy nhiên, do hạn chế về thời lượng, về cách giảng dạy,
cũng như sự khác biệt nhất định về phông văn hoá giữa nước ta với các nước
khác nên việc giảng dạy văn học nước ngồi ở trường phổ thơng vẫn chỉ là

2


“cưỡi ngựa xem hoa”. Học sinh nhiều khi vẫn không hiểu, học tác phẩm này
để làm gì? Có ý nghĩa và ích lợi gì đối với bản thân mình?
Từ thực tế và lí luận ấy, ta thấy rằng xác định các kiến thức, kỹ năng
học sinh cần đạt được sau khi học xong mơn hoc, chương trình học là rất cần
thiết. Vì vậy, luận văn này sẽ nghiên cứu về đề tài “Tổ chức dạy học văn học
nước ngoài cho học sinh trung học phổ thông theo hướng tiếp cận chuẩn đầu
ra (chương trình Ngữ Văn 11, ban cơ bản)” với mục đích thiết kế các hình
thức tổ chức dạy học văn học nước ngoài cho học sinh THPT theo hướng tiếp
cận chuẩn đầu ra và dự đồ kết quả đạt được của học sinh sau khi học xong học
phần văn học nước ngồi, đóng góp về mặt lí luận cho lí luận dạy học.
2. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề dạy học theo chuẩn đầu ra đã và đang được đề cập nhiều trong
quá trình đào tạo hiện nay. Tại các nước trên thế giới như Anh, Pháp, Mỹ...
dạy học dựa trên chuẩn đầu ra đã được triển khai từ lâu. Quá trình dạy học,
đào tạo theo chuẩn đầu ra được xây dựng cho cả chương trình học hoặc cho
từng module. Các trường Đại học nổi tiếng trên thế giới như ĐH Birmingham,

ĐH Cambridge... đã áp dụng mơ hình này vào chương trình đào tạo của mình.
Tại Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chú trọng đến việc đào tạo theo
chuẩn đầu ra. Điều này thể hiện rõ trong việc ban hành văn bản hướng dẫn
xây dựng và công bố chuẩn đầu ra ngành đào tạo ngày 22/04/2010 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Theo đó, các trường Đại học, Cao đẳng đã xây dựng
chuẩn đầu ra cụ thể cho từng ngành đào tạo ở trường mình. Trong đó, nổi bật
nhất là xây dựng chuẩn đầu ra theo mơ hình CDIO (Conceive – hình thành ý
tưởng; Design – thiết kế ý tưởng; Implement – thực hiện; Operate – vận hành)
ở ĐH Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, ở THPT, việc dạy học
dựa trên hướng tiếp cận chuẩn đầu ra còn khá mới mẻ. Việc xây dựng chuẩn
đầu ra cho q trình học là khó khăn và chưa thật cụ thể. Vì vậy, tổ chức dạy

3


học theo hướng tiếp cận chuẩn đầu ra trong một môn học hay phân môn là
vấn đề cần được xem xét và nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tổ chức dạy học văn học nước ngoài cho học sinh THPT theo hướng
tiếp cận chuẩn đầu ra (chương trình Ngữ văn 11, ban cơ bản) nhằm nâng cao
hiệu quả dạy học môn Ngữ văn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về chuẩn đầu ra, quá trình dạy học, các hình
thức tổ chức dạy học.
- Tìm hiểu thực trạng việc dạy học văn học nước ngoài ở trường THPT.
- Thiết kế tổ chức dạy học văn học nước ngoài trong sách giáo khoa
Ngữ văn 11 theo hướng tiếp cận chuẩn đầu ra.
- Tiến hành thực nghiệm tổ chức dạy học văn học nước ngoài cho học
sinh THPT theo hướng tiếp cận chuẩn đầu ra.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Qui trình dạy học phần văn học nước ngồi theo hướng tiếp cận chuẩn
đầu ra (Chương trình Ngữ văn 11, Ban cơ bản).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tổ chức dạy học phần văn học nước ngoài cho học sinh THPT theo
chương trình Ngữ văn 11 ban Cơ bản, các tác phẩm văn học nước ngồi bao
gồm các đoạn trích và tác phẩm của những đại biểu lớn của các nền văn học
tiêu biểu như Anh, Pháp, Nga. Cụ thể đó là đoạn trích Tình u và thù hận
trích vở kịch Rô–mê–ô và Gi –li –ét của Sếch–xpia, bài thơ Tơi u em của
Pu-skin, đoạn trích Người cầm quyền khơi phục uy quyền trích tiểu thuyết
Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gơ, truyện ngắn Người trong bao của
Sê-khốp.

4


Nghiên cứu được triển khai cho đối tượng là 2 lớp học sinh 11 Ban cơ
bản của Trường THPT Nguyễn Du (Kiến Xương, Thái Bình).
5. Mẫu khảo sát
Các tiết học môn Ngữ văn, các bài kiểm tra của học sinh 2 lớp 11 ban
Cơ bản tại trường THPT Nguyễn Du (Kiến Xương, Thái Bình).
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Chuẩn đầu ra có ý nghĩa như thế nào trong việc định hướng tổ chức
dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT?
- Làm thế nào để tổ chức dạy học văn học nước ngoài cho học sinh
THPT theo hướng tiếp cận chuẩn đầu ra nhằm nâng cao hiệu quả quá trình
dạy học?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Tổ chức dạy học văn học nước ngoài cho học sinh THPT theo hướng

tiếp cận chuẩn đầu ra sẽ giúp giáo viên và học sinh xác định rõ kết quả cần đạt
được của quá trình học, từ đó sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc dạy học
môn Ngữ văn ở trường THPT.
8. Phƣơng pháp chứng minh luận điểm
8.1. Hệ thống phương pháp nghiên cứu lí luận
Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
+ Nghiên cứu lí thuyết về chuẩn đầu ra để tìm ra cơ sở lí luận cho khố luận.
+ Nghiên cứu lí thuyết về q trình học tập, các hình thức tổ chức dạy học.
8.2. Hệ thống phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: Quan sát việc giảng dạy môn Ngữ văn ở nhà
trường THPT, thái độ của giáo viên và học sinh trong giờ học môn Ngữ văn, các
phương pháp dạy học được sử dụng nhằm phát triển kỹ năng cho học sinh.
- Phương pháp phỏng vấn: tìm hiểu những khó khăn từ phía giáo viên
trong việc giảng dạy văn học nước ngoài và thái độ, hứng thú của học sinh đối

5


với môn học; những mong muốn mà giáo viên và học sinh đạt được sau khi
kết thúc quá trình học.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: nhằm điều tra thái độ và khả
năng nắm bắt kiến thức bài học của học sinh; những kết quả mà học sinh đạt
được sau khi kết thúc quá trình học dựa trên chuẩn đầu ra đã được xây dựng
trong quá trình thực nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức tiến hành thực nghiệm việc dạy
và học theo hướng tiếp cận chuẩn đầu ra đã xây dựng.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Khuyến nghị, Tài liệu tham khảo, Phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 4 chương:
+ Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu

+ Chương 2: Thực trạng dạy học văn học nước ngồi ở trường trung
học phổ thơng
+ Chương 3: Quy trình dạy học theo hướng tiếp cận chuẩn đầu ra và
xây dựng chuẩn đầu ra phần văn học nước ngồi trong chương trình Ngữ Văn
11, ban Cơ bản
+ Chương 4: Thực nghiệm tổ chức dạy học văn học nước ngồi ở
trường trung học phổ thơng theo hướng tiếp cận chuẩn đầu ra

6


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số học thuyết về quá trình học tập
1.1.1. Học tập và giáo dục
Từ xưa đến nay học vẫn là mối quan tâm của mọi người trong xã hội.
Học là tiếp thu tri thức và kinh nghiệm của người khác thơng qua trao đổi,
tương tác, bằng lời nói, chữ viết, hình ảnh. Qua quá trình học tập, tri thức của
người khác trở thành tri thức của từng các nhân và tri thức đó cộng với sáng
tạo của mình người ta có thể tìm kiếm, sáng tạo ra các kinh nghiệm, tri thức
khác. Việc chuyển giao lại những tri thức, những kinh nghiệm và những phát
minh của chính mình cho người khác là việc dạy. Ngừời thực hiện việc
chuyển giao tri thức là người thầy. Người lĩnh hội các tri thức là trị.
Ban đầu, học tập mang tính chất cá nhân, nhưng rồi trong xã hội dần
xuất hiện các hình thức tổ chức học tập chung cho mọi người. Gần như trong
toàn bộ các giai đoạn phát triển của lịch sử loài người, các cơ hội học tập cho
mọi trẻ em không diễn ra trong trường học. Trẻ em trong thời kì săn bắn, hái
lượm học cách quan sát và bắt chước người lớn. Ngay cả khi xã hội tiến sáng
thời đại nơng nghiệp thì cơ hội học tập đối với phần đông dân số vẫn là như
cũ: quan sát và bắt chước người khác. Tuy nhiên, việc học tập trong xã hội dù

chưa có chữ viết đã tồn tại ngay từ thời kì đầu của lồi người.
Khi mà xã hội cịn chưa có nhiều của cải, sản phẩm, chưa có nhiều
phương pháp, cách thức sản xuất, thì mối quan tâm học tập của người ta là
học về cách sống, học về cách làm người. Việc học tập này nảy sinh chính từ
chỗ sống cùng thầy, sinh hoạt cùng thầy và do đó học bằng cách truyền tâm,
học các kinh nghiệm trực tiếp cảm nhận từ thầy, từ cuộc sống của thầy mà
khơng cần thơng qua lời nói. Các trường phái thiền ở phương Đông như: Ấn
Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam đã đi theo xu hướng này với các bậc
thấy nổi tiếng như: Đức Phật, Bồ Đề, Đạt Ma, Mã Tổ, Đạo Nguyên…Việc

7


học này có ích cho những người truy tìm chân lí, có ích cho việc nâng cao tâm
thức và tinh thần xã hội, nhưng lại khơng tạo ra ích lợi trực tiếp cho xã hội vật
chất. Do đó, từ lâu nó vẫn là điều cao siêu và ít người đạt tới được.
Khi xã hội phức tạp lên, xuất hiện các trường phái trường học. Tại Hi
Lạp, xuất hiện các trường của Platon, Aristot,…mang tính hàn lâm, dạy về
các lí luận khoa học và triết học, chưa dành cho học sinh nhỏ tuổi, khơng có
bài tập và khơng có thi cử. Tại phương Đơng, các đạo tràng được hình thành
từ rất sớm để tạo môi trường phát triển tâm linh cho một số người đi vào tìm
hiểu ý nghĩa thực của cuộc sống, đa phần là người lớn. Còn với một số người
học phương Đơng thì có các trường học để dạy về văn học, lịch sử, thơ ca…
Hình thức các lớp học trị có thầy dạy ở từng địa phương đã phát triển. Ở tầm
quốc gia xuất hiện việc tổ chức khoa cử để tuyển chọn người vào bộ máy
quan lại.
Xã hội phong kiến sớm đưa việc dạy và học trở thành một chuẩn mực
với yêu cầu các sĩ tử phải nắm vững, thuộc lòng các điển tịch được đưa ra làm
mẫu cho việc học làm người, cho việc học để làm quan. Nhiều danh nhân nhà
giáo dục lớn như Khổng Tử, Mạnh Tử của Trung Hoa, Chu Văn An, Nguyễn

Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm của Việt Nam đã mở trường đào tạo nhiều thế hệ
học trò sĩ nhân. Bản thân nhà nước phong kiến cũng tổ chức một hệ thống
trường lớp mà cao nhất là Quốc Tử Giám để phục vụ cho việc giáo dục đào
tạo… Hệ thống thi cử quan trường xuất hiện để tuyển chọn quan lại cho bộ
máy hành chính, bên cạnh đó là việc xuất hiện nhiều lớp học phục vụ cho các
thí sinh tham gia các kì thi này. Xu hướng học văn học, thơ ca, lịch sử, đạo
đức con người, cách tề gia trị quốc… là xu hướng chính cho các hệ thống
trường lớp cũng như cho các cuộc thi cử trong thời phong kiến. Nhiều người
đã thành đạt trên con đường học tập và thi cử, trở thành quan lại trong bộ máy
hành chính.

8


Xã hội phát triển được đánh dấu bằng việc làm ra nhiều của cải vật
chất, triển khai nhiều yếu tố trí tuệ của con người cụ thể bằng hàng hóa và
phương pháp tạo ra hàng hoá. Lúc này xuất hiện nhu cầu học nghề mưu sinh,
kiếm sống dựa trên nhu cầu nhân lực của nền kinh tế và xã hội hàng hóa. Việc
học nghề trong xã hội chịu ảnh hưởng lớn lao từ lĩnh vực người ta chọn lựa.
Học trò trong xã hội này tới thầy để học về các kĩ năng, bí quyết nghề nghiệp
trong sản xuất. Họ học bằng cách làm việc cạnh thầy hàng tháng hay hàng
năm. Yếu tố học làm người, học để làm quan ít dần đi, trong khi đó yếu tố học
phương pháp, học nghề nghiệp tăng lên và trở thành nhu cầu phổ biến của xã
hội. Việc giáo dục cho học sinh thường là: qua thực hành, qua áp dụng các
kinh nghiệm của thầy để đạt được kết quả thông qua quan sát và tương tác với
chuyên gia. Họ thường học qua việc phạm phải sai lầm và quan sát chuyên
gia sửa những sai lầm cho mình (thử và sai). Việc tự học vẫn là chủ yếu.
Khi tính phức tạp của xã hội càng tăng thêm, nhu cầu của nền sản xuất
xã hội địi hỏi có những thế hệ mới lớn lên có những kĩ năng và hiểu biết nhất
định về lao động và công tác, người ta thừa nhận xã hội cần phải cung cấp các

cơ hội học tập cho số đông người lớn. Người ta thấy được nhu cầu là mọi
người trong xã hội cần biết đọc, biết viết, làm phép tốn số học, biết về quyền
cơng dân cũng như các giá trị đạo đức. Điều này phát sinh khái niệm trường
học công ở Mỹ và ở châu Âu, với việc nhà nước đứng ra đầu tư cho hệ thống
giáo dục và phát triển trường lớp. Từ đó xã hội chấp nhận giáo dục là một
thành tố quan trọng cần được các chính phủ trơng nom phát triển. Nhấn mạnh
chủ yếu của xã hội là áp đặt mốt số hiểu biết và tri thức nhất định cho học
sinh với thầy là người đại diện cho hệ thống cung cấp tri thức.
Xã hội bắt đầu hình thành cơ chế giáo dục chuyên môn để dạy các tri
thức nghề nghiệp, tri thức giao tiếp xã hội và các chuẩn mực đạo đức. Các xã
hội phát triển cao, bên cạnh hệ thống giáo dục dạy những vấn đề văn hoá căn
bản cho con người của xã hội, đã có thêm các cơ cấu đào tạo và giảng dạy về

9


các nghề nghiệp mà xã hội cần. Nhưng hơn nữa, trong nền kinh tế tri thức,
các công ti đã đầu tư làm ra nhiều sản phẩm tri thức, việc gìn giữ tri thức và
phổ biến tri thức cho đội ngũ nhân viên của họ trở thành quan trọng và thực tế
các cơng ti lớn đều hình thành bộ phận đào tạo, giảng dạy bí quyết, tri thức
của riêng mình cho nhân viên. Việc học tập trở thành yêu cầu tối quan trọng
của mọi tố chức để không bị lạc hậu và đạt được ưu thế cạnh tranh. Xã hội tri
thức mới mở ra trên nền tảng mọi tổ chức đều coi trọng việc học tập và sáng
tạo tri thức, không phải là học để có bằng cấp mà học để làm việc mình đang
làm tốt hơn, mang nhiều tính trí tuệ hơn.
1.1.2. Khái niệm dạy học
Trong lịch sử nghiên cứu và thực tiễn dạy học, có nhiều cách hiểu và lí
giải khác nhau về dạy học tuỳ thuộc góc độ tiếp cận của người nghiên cứu. Có
thể thấy có ba nhóm ý kiến chính sau [28, tr.16]:
- Nhóm số 1, xem xét dạy học từ góc độ người dạy, vì vậy họ quan

niệm dạy học là sự truyền đạt, cung cấp thơng tin cho học sinh (Lý thuyết xử
lí thơng tin). Người dạy có kiến thức gì thì cung cấp cho người học kiến thức
đó. Người dạy là trung tâm của q trình học.
- Nhóm số 2 lại quan niệm dạy học xuất phát từ góc độ người học. Dạy
là giúp người học lĩnh hội được những gì cần thiết theo nhu cầu của người
học (Phái nhà trường mới). Người học là nhân vật trung tâm của quá trình dạy
học. Người học cần gì thì người dạy thầy dạy cái đó. Người dạy có vai trị làm
bộc lộ khả năng, nhu cầu, năng lực nhận thức của người học và đáp ứng
những yêu cầu đó của học sinh.
- Nhóm số 3 có cách nhìn dung hồ hơn. Dạy học là công việc chuyên
biệt của người dạy nhằm giúp người học học được. Dạy học là dạy cho người
khác học không chỉ kiến thức khoa học mà cả những kĩ năng xã hội; dạy cho
người khác học có ý chí, có nhu cầu, động cơ, có cảm xúc và khát vọng; học
có chất lượng và hiệu quả cao; học có phương pháp, có mục đích; học thơng

10


qua sự trao đổi, chia sẻ và hợp tác; học để đáp ứng yêu cầu của xã hội và nhu
cầu phát triển của cá nhân người học.
Dạy học được tạo ra bởi sự tương tác trực tiếp giữa người dạy và người
học, giữa các người học với nhau, người dạy học với xã hội; là sự thống nhất
chặt chẽ giữa hoạt động dạy và hoạt động học. Người dạy và người học vừa là
chủ thể, vừa là đối tác trong dạy học. Hơn nữa, trong dạy học, ngoài sự tương
tác giữa các chủ thể hoạt động, bản thân nó cịn chịu sự tương tác của nhiều
tác nhân cùng lúc như tác nhân nhận thức, tác nhân văn hoá, tác nhân tâm lý,
tác nhân xã hội,… [28, tr.17]
1.1.3. Quá trình dạy học
Quá trình dạy học là một quá trình xã hội, q trình sư phạm đặc thù, là
một hệ thống tồn vẹn, gồm ba thành tố cơ bản: tri thức khoa học, học và dạy.

Tri thức khoa học là yếu tố khách quan quyết định logic của hoạt động dạy
học, là đối tượng của sự lĩnh hội bởi học trò. Hoạt động dạy học quy định về
mặt logic của quá trình dạy học về mặt lý luận, dạy phải xuất phát từ tính
khoa học của tri thức và sự lĩnh hội của học sinh để tổ chức hoạt động cộng
tác giữa giáo viên, học sinh giúp học sinh phát triển năng lực hoạt động trí
tuệ, hình thành và phát triển nhân cách.
Trong hoạt động dạy học có một q trình quan trọng là quá trình nhận
thức. Con đường nhận thức là từ cụ thể đến trừu tượng, từ đơn giản đến khái
quát và ngược lại. Quá trình nhận thức của học sinh là quá trình phản ánh thế
giới khách quan vào bộ óc của mình. Q trình nhận thức của học sinh là q
trình độc đáo. Đó là sự tái tạo nguồn tri thức của loài người trong mỗi học
sinh. Nhờ có sự hướng dẫn, giúp đỡ của người thầy mà học sinh không phải
trải qua con đường quanh co để nhận thức những tri thức mà nhân loại đã tích
lũy qua nhiều thế hệ. Sự độc đáo của quá trình nhận thức của học sinh cịn thể
hiện ở tính giáo dục của nó, nghĩa là trong q trình nhận thức, thông qua việc

11


nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, phát triển trí tuệ, học sinh hình thành dần cơ sở
thế giới quan khoa học và bồi dưỡng phẩm chất nhân văn của con người.
1.1.4. Hoạt động dạy học
Theo thuyết hoạt động, dạy học gồm hai hoạt động: Hoạt động dạy của
thầy và hoạt động học của trị. Hai hoạt động này ln gắn bó với nhau, tồn
tại trong một q trình thống nhất.
Hoạt động dạy: Là sự tổ chức, điều khiển quá trình lĩnh hội tri thức,
hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Vai trò chủ đạo của hoạt động
dạy được biểu hiện với ý nghĩa là tổ chức và điều khiển hoạt động học tập của
học sinh, giúp học sinh hình thành các kỹ năng, thái độ để tiếp nhận các kiến
thức có hiệu quả. Hoạt động dạy có chức năng kép là truyền đạt, tiếp nhận

thông tin ngược và điều khiển hoạt động học.
Hoạt động học: Là quá trình học sinh tự điều khiển tối ưu sự chiếm lĩnh
tri thức khoa học, hình thành cấu trúc tâm lý mới, phát triển nhân cách. Vai
trò tự điều khiển của hoạt động học thể hiện ở sự tự giác, tích cực, chủ động,
sang tạo dưới sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn của thầy. Khi chiếm lĩnh tri
thức, học sinh đồng thời đạt được ba mục đích, đó là: tiếp nhận tri thức khoa
học, phát triển năng lực trí tuệ và hình thành phẩm chất, nhân cách. Hoạt động
học có hai chức năng: lĩnh hội và điều khiển quá trình chiếm lĩnh tri thức, các
khái niệm dạy học một cách tự giác, tích cực. Nội dung hoạt động bao gồm hệ
thống khái niệm của môn học, phương pháp đặc trưng của bộ môn để biến tri
thức của nhân loại thành những kiến thức của bản than, hình thành và phát
triển năng lực của con người theo đúng mục tiêu giáo dục.
Như vậy, hoạt động dạy học là một trong những hoạt động giao tiếp sư
phạm mang ý nghĩa xã hội. Các chủ thể của hoạt động dạy học tiến hành các
hoạt động khác nhau, nhưng không đối lập nhau mà song song tồn tại và phát
triển trong một quá trình thống nhất, cùng hướng tới mục tiêu chung, đó là sự
biến đối của người học về nhận thức, kỹ năng và thái độ. Kết quả học tập của

12


học sinh được đánh giá không chỉ là kết quả hoạt động học mà còn là kết quả
của hoạt động dạy.
Tóm lại, dạy học là q trình hoạt động cộng đồng hợp tác giữa thầy
với học sinh, giữa học sinh với học sinh. Dạy tốt, học tốt là đảm bảo sự thống
nhất của điều khiển, bị điều khiển, tự điều khiển và mối liên hệ ngược thường
xuyên, bền vững.
Như vậy, dù là học thuyết về quá trình học tập như thế nào, ở thời đại
nào thì trên thực tế từ xưa đến nay, dạy học một cách tự giác hoặc không tự
giác đều bao hàm vấn đề chuẩn đầu ra. Đó là sự hình dung trước về sản phẩm

dạy – học. Hay nói cách khác, chuẩn đầu ra ở đây chính là mục đích dạy học,
là mục tiêu mà quá trình dạy học hướng tới. Trong xã hội phong kiến phương
Đơng, mục đích của q trình dạy học là đào tạo ra những người qn tử có
nhân, nghĩa, trí, dũng, tín có thể tu thân, trị quốc, tề gia, bình thiên hạ nhằm
phục vụ cho xã hội phong kiến. Mỗi thời đại, mỗi xã hội đều có cái đích để
hướng tới trong quá trình dạy học rất rõ ràng. Điều đó thể hiện rõ trong quan
điểm của người xưa về việc học tập: “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”,
“nhân bất học bất tri lí”, “trí giả trị lao giả”, “một người lo bằng kho người
làm”… Tuy nhiên, chỉ khi giáo dục bước vào giai đoạn hiện đại, nhất là trong
thời đại cơng nghệ hóa như hiện nay khi giáo dục trở thành khoa học thì vấn
đề “chuẩn đầu ra” mới được đặt ra cụ thể. Điều đó thể hiện ở chỗ, mục đích
và dự dồ về sản phẩm giáo dục được tính kĩ, chủ động. Việc xác định chuẩn
đầu ra một cách cụ thể, khoa học giúp cho việc kiểm tra, đánh giá, chuyển
giao công nghệ trong thời đại ngày nay được thuật lợi hơn.
1.2. Lí thuyết về chuẩn đầu ra
1.2.1. Các khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm chuẩn
Chuẩn theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt có nghĩa thứ nhất là “cái
được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó mà làm cho đúng”;

13


nghĩa khác là “cái được công nhận là đúng theo quy định hoặc theo thói quen
phổ biến trong xã hội”. [23, tr.37]
Chuẩn trong đánh giá là những yếu tố cơ sở tham chiếu, được hiểu là
yêu cầu cơ bản, tối thiểu cần đạt) để dẫn tới một sự đánh giá. Một chuẩn bao
giờ cũng gồm một số chỉ số cụ thể, giúp lượng hóa (đo đếm) được những gì
cần đánh giá ở đối tượng. Chuẩn là yếu tố có tính chất thông tin, cho phép
quyết định trong đối tượng được đánh giá đó có (hay khơng có) những phẩm

chất nào đó.
Trong giáo dục, chuẩn (cịn được gọi là chuẩn kiến thức, kĩ năng) chính
là mục tiêu và nội dung giáo dục đã được cụ thể hóa trên các phương diện
kiến thức, kĩ năng, thái độ sao cho có thể đo lường được kết quả học tập của
học sinh, hay nói khác đi, nó chính là những u cầu cơ bản, tối thiểu của
mục tiêu và nội dung giáo dục mà người học cần đạt được. Học sinh cần được
biết mình sẽ đạt được đến mức nào những yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ
năng, thái độ trong quá trình học tập. Người dạy căn cứ theo những yêu cầu
cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ (mục tiêu và nội dung học tập cố
định) để lựa chọn các phương pháp, hình thức và phương tiện dạy học, định ra
các tiêu chí và căn cứ theo các tiêu chí để đánh giá kết quả học tập của học
sinh. [23, tr.38]
1.2.1.2. Chuẩn kiến thức, kĩ năng
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chương trình giáo dục phổ thơng
trong đó Chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thơng được
thể hiện cụ thể trong các chương trình mơn học, hoạt động giáo dục (gọi
chung là mơn học) và các chương trình cấp học. Mục tiêu của mơn học, cấp
học được cụ thể hóa thành Chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình cấp
học, mơn học và từng đơn vị kiến thức.

14


Chuẩn kiến thức, kĩ năng của một đơn vị kiến thức là các yêu cầu cơ
bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng của đơn vị kiến thức mà học sinh cần phải
và có thể đạt được.
Chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình mơn học là các u cầu cơ
bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng của môn học mà học sinh cần phải và có
thể đạt được sau từng giai đoạn học tập. [7, tr. 5]
Chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình cấp học là các yêu cầu cơ

bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng của các mơn học mà học sinh cần phải và
có thể đạt được sau từng giai đoạn học tập trong cấp học. [7, tr.6]
Đây là cơ sở pháp lý thực hiện dạy học đảm bảo những yêu cầu cơ bản,
tối thiểu của chương trình, thực hiện dạy học và kiểm tra đánh giá phù hợp
với các đối tượng học sinh, giúp giáo viên chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong
áp dụng chương trình, từng bước đem lại chất lượng giáo dục thực sự và bình
đẳng trong phát triển năng lực cá nhân; góp phần thực hiện chuẩn hóa và thực
hiện dạy học phân hóa.
Chuẩn kiến thức, kĩ năng là căn cứ để biên soạn sách giáo khoa, quản lí
dạy học, thanh kiểm tra; là căn cứ để xác định mục tiêu của mỗi giờ học, mục
tiêu của kiểm tra và thi cử, đánh giá giờ dạy của giáo viên, đánh giá kết quả
giáo dục ở từng môn học.
Điều 6 Luật Giáo dục 2005 quy định: “Chương trình giáo dục thể hiện
mục tiêu giáo dục; quy định chuẩn kiến thức kĩ năng, phạm vi và cấu trúc nội
dung giáo dục phổ thơng, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo
dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đố với các môn học ở mỗi lớp và
mỗi cấp học của giáo dục”. Như vậy, chuẩn kiến thức, kĩ năng chỉ là một
thành tố trong chương trình giáo dục và cũng có tính cấp bậc. Tùy theo từng
nội dung học tập sẽ có các chuẩn khác nhau. Thí dụ có chuẩn của từng mơn
học (Tốn, Lí, Hóa, Ngữ văn, Địa lí…). Trong từng mơn học lại có chuẩn cho
từng cấp học (Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông…), chuẩn của

15


từng học phần (phần Văn học dân gian, phần Văn học trung đại…), chuẩn của
từng bài (bài Luyện tập tóm tắt một tác phẩm Nghị luận, bài Đọc hiểu văn bản
Bến quê…).
Hệ thống chuẩn kiến thức kĩ năng được xây dựng theo yêu cầu cần đạt
của học sinh sau khi học xong từng mạch nội dung trong chương trình. Các

mạch này có thể được thể hiện qua 1 (hoặc nhiều) đơn vị bài học.
1.2.2. Chuẩn đầu ra
1.2.2.1. Khái niệm chuẩn đầu ra
Đến nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về chuẩn đầu ra:
Theo Jenkins và Unwin : "Chuẩn đầu ra là sự khẳng định của những
điều kỳ vọng, mong muốn một người tốt nghiệp có khả năng LÀM được nhờ
kết quả của quá trình đào tạo" [42]
"Chuẩn đầu ra là lời khẳng định của những điều mà chúng ta muốn
sinh viên của chúng ta có khả năng làm, biết, hoặc hiểu nhờ hồn thành một
khóa đào tạo"(Univ. New South Wales, Australia) [42]
Theo GS. Nguyễn Thiện Nhân "Chuẩn đầu ra là sự khẳng định sinh
viên tốt nghiệp làm được những gì và kiến thức, kỹ năng, thái độ hành vi cần
đạt được của sinh viên" [42]
Theo định nghĩa của UNESCO thì: “Chuẩn đầu ra là những tuyên bố
về vấn đề mà người học mong muốn phải biết, hiểu và/hoặc có khả năng thể
hiện sau khi hồn thành một q trình học tập cũng như thực hiện các kĩ năng
tư duy và thực hành đặc trưng được hình thành bởi việc hồn thành một bài
học, khóa học, hoặc chương trình đào tạo… Chuẩn đầu ra khác với mục tiêu
dạy học ở chỗ nó nhấn mạnh đến thành tích đạt được của người học chứ
không phải là những dự định xuất phát từ phía giáo viên” [40]
Nói chung, chuẩn đầu ra có thể được xem như lời cam kết, lời khẳng
định của nhà trường đối với xã hội, với người sử dụng lao động, với gia đình
phụ huynh về những cơng việc cụ thể mà người học sẽ làm được; về những

16


kiến thức, kỹ năng, thái độ hành vi mà người học sẽ đạt được sau khi được
đào tạo tại nhà trường.
Nói cách khác. chuẩn đầu ra là những mục tiêu cụ thể của một chương

trình hoặc các mơ-đun, được viết dưới dạng một văn bản cụ thể. Chúng mô tả
những gì người học nên học, hiểu biết hoặc làm vào cuối chương trình hay
các mơ-đun [41]
Chuẩn đầu ra là những gì mà người học “nên học, hiểu biết hoặc làm
vào cuối chương trình hoặc mơ – đun” nên chuẩn đầu ra phải được công khai,
là yêu cầu bắt buộc mà người học phải đạt được sau khi kết thúc khóa học,
chương trình học hoặc mơ- đun. Đó khơng chỉ là mục tiêu của q trình học
mà cịn là “pháp lệnh” về kết quả và sản phẩm giáo dục cần phải đạt được.
Chuẩn đầu ra được viết ra từ ý tưởng, dựa trên mục tiêu dạy học, nhu
cầu xã hội và điều kiện của quá trình dạy học như điều kiện về phương tiện cơ
sở vật chất, về bản thân người học như sức khỏe, kiến thức….
Chuẩn đầu ra thể hiện mục tiêu đào tạo trong đó bao gồm các nội dung
và mức độ về kiến thức, kỹ năng, phẩm chất đạo đức; cơng việc mà người học
có thể đảm nhận sau khi tốt nghiệp và các yêu cầu đặc thù khác đối với từng
chương trình và ngành đào tạo. Chuẩn đầu ra được rà sốt, điều chỉnh, bổ
sung và hồn thiện hàng năm đảm bảo cam kết của đơn vị đào tạo với yêu cầu
của xã hội, của đơn vị sử dụng sinh viên tốt nghiệp [11]
1.2.2.2. Các khái niệm gần với chuẩn đầu ra
Liên quan đến những gì người học nên học, nên biết và đạt được trong
quá trình học tập có nhiều khái niệm khác nhau: kết quả học tập, thành tích
học tập, chất lượng học tập và hiệu quả học tập. Tuy nhiên với những cách
gọi này, kết quả học tập lại được xem xét trên những phương diện khác nhau.
Cụ thể là:
- Khi nói kết quả học tập (result) có nghĩa là nói về thành tích học tập
của học sinh nhưng ở hiện trạng những gì đạt được trong mối quan hệ với

17


mục tiêu đã xác định (hay nói khác đi là sự đạt được những yêu cầu cụ thể về

kiến thức, kĩ năng theo mục đích đánh giá xác định). Thí dụ như kết quả một
bài kiểm tra được bao nhiêu điểm, kết quả xếp loại từng môn học ở vào loại
nào. [23, tr.14]
Khi nói thành tích học tập (achievement) lại thiên về mức độ đạt được
những mục tiêu (đã cụ thể thành các yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, thái độ)
của học sinh này với học sinh cùng học khác nhau sau một quá trình tham gia
học tập so với những u cầu của mục tiêu mơn học. Thí dụ, một số học sinh
đạt thành tích xuất sắc trong học tập trong khi đa số học sinh khác chỉ đạt loại
khác hoặc trung bình. [23, tr.14]
Khi nói đến chất lượng học tập lại thiên về đánh giá cả định tính và
định lượng những gì đạt được của học sinh trong q trình hồn thiện và phát
triển về trí tuệ, nhân cách, thể chất so với những mục tiêu môn học đã đề ra.
[23,tr.14]
Khi nói hiệu quả học tập lại thiên về đánh giá kết quả đạt được những
mục tiêu môn học dựa trên cơ sở những đầu tư về nhân lực, vật lực, thời gian
và công sức bỏ ra sau một giai đoạn học tập. [23, tr.14]
1.2.2.3. Mối quan hệ giữa chuẩn đầu ra và mục tiêu giáo dục
Theo Từ điển Hán – Việt (Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 2004)
mục tiêu có nghĩa là “cái nêu đặt trước mắt để nhìn mà làm chứng” [23, tr.16]
Theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, NXB
Khoa học xã hội, HN, 1988) mục tiêu có 2 nghĩa: “đích để nhắm vào” và
“đích cần đạt tới để thực hiện nhiệm vụ”. [23, tr.16]
Theo Từ điển Giáo dục học (NXB Từ điển Bách khoa, 2001), mục tiêu
giáo dục có nghĩa là “mơ hình nhân cách có tính định chuẩn của cả hệ thống
giáo dục quốc dân hay từng phân hệ giáo dục được xác định trên cơ sở những
yêu cầu của xã hội về người công dân hay nguồn nhân lực” [23, tr.16]

18



Theo điều 2 Luật Giáo dục (2005), “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khỏe, thẩm
mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [23, tr.16]
Từ những định nghĩa trên, có thể hiệu mục tiêu giáo dục chính là cái
đích cần đạt được khi thực hiện nhiệm vụ giáo dục nhằm hình thành và phát
triển phẩm chất, năng lực, nhân cách cho các đối tượng giáo dục. Nó khơng
chỉ trang bị cho đối tượng được giáo dục những kiến thức, kĩ năng mà cịn
giúp họ nhưng phẩm chất trí tuệ, đạo đức, năng lực tư duy, thái độ và ý thức
công dân.
Mục tiêu giáo dục là một trong những thành tố quan trọng của chương
trình giáo dục (Curriculum/Program of Education). Các thành tố đó là: mục
tiêu, nội dung, chuẩn kiến thức kĩ năng, phương pháp, cách đánh giá kết quả
đào tạo (Theo Tyler, 1949). Tương ứng với chương trình, mục tiêu được xây
dựng theo nhiều cấp độ khác nhau. Có mục tiêu chung của toàn ngành Giáo
dục, mục tiêu chung của từng bậc học (Mầm non, Tiểu học, Trung học, Đại
học…), của từng cấp học THCS, THPT… Bên cạnh đó có những mục tiêu
đặc thù xuất phát từ sự chia nhỏ các mục tiêu chung thành những mục tiêu
nhỏ hon như mục tiêu của từng giai đoạn, mục tiêu của từng môn học. Mục
tiêu thường được xác lập bởi những yêu cầu cụ thể trong một thời điểm xác
định, nó mang tính chủ quan của nhà hoạch định chính sách, được diễn đạt
thành một đoạn văn rất tổng quát, mang tính pháp chế, nhưng chưa thể trực
tiếp quan sát, đo đếm được. Mục tiêu thường được xác định rõ với các
phương diện sau:
- Miêu tả nội dung định giảng dạy trong nhà trường.
- Miêu tả hoạt động của người học (những ứng xử có thể quan sát
được).

19



- Miêu tả điều kiện để những ứng xử mong muốn ở người học được thể
hiện.
- Miêu tả mức độ cần đạt thành những tiêu chí để người học nhắm tới.
Nói khác đi, mục tiêu giáo dục cũng có thể coi là “đầu ra” (out come)
của sản phẩm giáo dục. Tác dụng của nó là góp phần hướng dẫn hoạt động
của người dạy và người để họ tự xác định được điều cần đạt đến của mình so
với nhiệm vụ dạy và học trong nhà trường.
Như vậy, chuẩn định hướng cho việc xác định mục tiêu dạy học. Mục
tiêu là căn cứ để xác định các tiêu chí, chuẩn. Vì vậy, khi thiết kế chuẩn đầu
ra, phải xây dựng được hệ thống mục tiêu cần đạt của sản phẩm giáo dục (trên
các phương diện kiến thức, kĩ năng, thái độ - hay nói khác đi là các u cầu về
trí, đức, thể, mĩ…)
1.2.2.4. Mối quan hệ giữa chuẩn đầu ra và nội dung dạy học
Nội dung dạy học là sự cụ thể hóa những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng,
thái độ (đã nêu ở mục tiêu) thành những đơn vị học tập. Hay nói khác đi, học
sinh đạt được mục tiêu, chuẩn đầu ra của chương trình học bằng những nội
dung dạy học cụ thể trong nhà trường.
Theo Từ điển Giáo dục (NXB Từ điển Bách khoa 2001), nội dung giáo
dục có hai nghĩa [23, tr.21]:
1. Tập hợp những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo,
những quy phạm về thái độ, cảm xúc, giá trị.
2. Tập hợp những khái niệm tạo nên môn học, cần phải nắm vững trong
một đối tượng của việc học.
Nội dung và phương pháp giáo dục phải được thể hiện thành chương
trình giáo dục, chương trình giáo dục phải được cụ thể hóa thành sách giáo
khoa, giáo trình.
Theo Điều 5, Luật Giáo dục 2005 “nội dung dạy học phải đảm bảo tính
cơ bản, tồn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống, coi trọng giáo dục tư


20


×