Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

(Luận văn thạc sĩ) hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại việt nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 128 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NHẬN

7

VÀ CHO THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ
CỦA TÒA ÁN NƢỚC NGOÀI VÀ KINH NGHIỆM
CỦA MỘT SỐ NƢỚC

1.1.

Một số vấn đề lý luận cơ bản về công nhận và cho thi hành
bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài

7

1.1.1.

Khái niệm, bản chất, ý nghĩa của việc công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi

7


1.1.1.1

Khái niệm bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi

7

1.1.1.2. Khái niệm công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự
của tịa án nước ngồi

11

1.1.1.3. Bản chất việc cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của tịa án nước ngồi

14

1.1.1.4. Ý nghĩa của việc cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của tịa án nước ngồi

15

Cơ sơ lý luận, cơ sở pháp lý của việc công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi

17

1.1.2.1. Cơ sở lý luận của việc công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của tòa án nước ngồi

17


1.1.2.2. Cơ sở pháp lý của việc cơng nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của tòa án nước ngồi

21

Điều kiện, trình tự, thủ tục cơng nhận và cho thi hành bản
án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi

25

1.1.2.

1.1.3.

4


1.1.3.1. Về điều kiện công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của tịa án nước ngồi

26

1.1.3.2. Về trình tự, thủ tục cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của tòa án nước ngồi

28

1.2.


Kinh nghiệm của một số nước về cơng nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngồi

30

1.2.1.

Kinh nghiệm của Cộng hịa Liên bang Đức

30

1.2.2.

Kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp

32

1.2.3.

Kinh nghiệm của Hoa Kỳ

35

1.2.4.

Kinh nghiệm của Nhật bản

36

1.2.5.


Kinh nghiệm của Vương quốc Thái Lan

37

Chương 2:

42

THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH
BẢN ÁN QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TỊA ÁN
NƢỚC NGỒI

2.1.

Các điều ước quốc tế của Việt Nam về công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi

42

2.1.1.

Phạm vi cơng nhận

44

2.1.2.

Điều kiện cơng nhận và cho thi hành


45

2.1.3.

Trình tự, thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành

46

2.1.4.

Thi hành quyết định công nhận và cho thi hành

48

2.2.

Các quy định của pháp luật quốc gia về công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tịa án
nước ngồi

54

2.2.1.

Các quy định chung về công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của tịa án nước ngồi

57


2.2.1.1. Về khái niệm bản án, quyết định dân sự của của tịa án
nước ngồi

57

5


2.2.1.2. Về nguyên tắc công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của của Tòa án nước ngồi

57

2.2.1.3. Về quyền u cầu cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của Tòa án nước ngồi

61

2.2.2.

Thẩm quyền nhận và xét đơn u cầu cơng nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi

61

2.2.3.

Trình tự, thủ tục cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của tòa án nước ngồi


63

2.2.4.

Điều kiện cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân
sự của tịa án nước ngồi

68

Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

77

LUẬT VIỆT NAM VỀ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH
BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TỊA ÁN NƢỚC
NGỒI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

3.1.

Thực tiễn thi hành các quy định về công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi tại
Việt Nam hiện nay

77

3.2.

Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về
công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của
tịa án nước ngồi tại Việt Nam


91

3.2.1.

Phương hướng

91

3.2.2.

Các giải pháp

95

3.2.2.1. Các giải pháp về xây dựng pháp luật về công nhận và cho
thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi
tại Việt Nam

95

3.2.2.2. Các giải pháp về thi hành pháp luật về công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi tại
Việt Nam

114

KẾT LUẬN

120


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

122

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật Tố tụng dân sự được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 5 thơng qua ngày 05/6/2004, có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/2005. Phần thứ sáu Bộ luật quy định về thủ tục công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của tịa án nước ngồi,
quyết định của trọng tài nước ngồi. Có thể thấy, việc ban hành các quy định về
thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của tòa án
nước ngồi đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân. Bảo đảm trình tự và thủ tục tố tụng dân
sự dân chủ, công khai, đơn giản, thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình; đề cao vai trị, trách nhiệm của các cơ quan,
cá nhân trong hoạt động tố tụng dân sự. Bảo đảm cho việc giải quyết các vụ
việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, cơng minh và đúng pháp luật.
Mặc dù năm 2011 Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung,
nhưng các quy định tại phần thứ sáu Bộ luật vẫn được giữ nguyên. Qua nhiều
năm thi hành, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định của tịa án nước ngồi đã bộc lộ những
hạn chế, bất cập; có những quy định chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng nên có nhiều
cách hiểu khác nhau; có những quy định chưa đảm bảo được quyền và lợi ích
của các bên đương sự; có quy định chưa phù hợp với cam kết quốc tế...

Trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc tiếp tục đẩy nhanh quá trình cải
cách kinh tế và cải cách nền hành chính quốc gia, cơng cuộc cải cách tư pháp
cũng đang được Đảng và Nhà nước tích cực triển khai, coi đây như là khâu đột
phá quan trọng, thúc đẩy q trình xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc
tế. Điều này được thể hiện rõ nét trong các nghị quyết của Đảng như: Nghị

7


quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 là: "Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp các điều ước
quốc tế liên quan tới việc công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của
tòa án, quyết định của trọng tài thương mại" [13]; Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02 tháng 6 năm 2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là
"Tiếp tục hoàn thiện Bộ luật Tố tụng dân sự... Đổi mới thủ tục dân sự trong các
cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý;
người dân chỉ nộp đơn đến tịa án, tịa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn" [14].
Mặt khác, cơ chế pháp lý khi giải quyết các yêu cầu công nhận và thi
hành bản án quyết định của tịa án nước ngồi là lĩnh vực có nhiều phức tạp,
bởi vì nó liên quan đến chủ quyền quốc gia, liên quan đến quyền và lợi ích
của các bên trong quan hệ dân sự.
Trước những yêu cầu của thực tiễn, việc tiếp tục nghiên cứu các quy
định của pháp luật về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định của tòa án nước ngồi nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm về lý luận cũng
như thực tiễn, tìm ra những hạn chế, vướng mắc trong quy định pháp luật và
thực tiễn thi hành, từ đó đề xuất các giải pháp hồn thiện pháp luật nhằm nâng
cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ, việc dân sự theo tinh thần cải cách tư
pháp là hết sức cần thiết và vẫn có tính thời sự, rất được quan tâm trong khoa

học pháp lý ở Việt Nam hiện nay.
Do vậy, tôi đã chọn đề tài "Hồn thiện pháp luật về cơng nhận và
cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập quốc tế" để làm luận văn thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý đã có nhiều cơng trình, bài viết nghiên
cứu về vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án
nước nước ngồi tại Việt Nam theo những khía cạnh khác nhau như:

8


Giáo trình Tư pháp quốc tế, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2001;
Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2010.... Các
bài tạp chí chuyên ngành luật học như: Tăng cường quan hệ hợp tác giữa các
nước ASEAN về công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định dân sự và
thương mại của tịa án nước ngồi (Đặng Trung Hà, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, số 1/2007); Về việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự
của tịa án nước ngồi (Thu Hương, Tập san Pháp luật, chuyên đề số 1, tháng
4/2004); Vấn đề công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
dân sự của tịa án nước ngồi, quyết định của trọng tài nước ngồi (Hồng
Ngọc Thành, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 5/2001); Về công nhận và thi hành
tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, phán quyết
của trọng tài nước ngoài (Nguyễn Trung Tín, Tạp chí Luật học, số 12/2006);
Hồn thiện pháp luật về công nhận và thi hành bản án quyết định dân sự của
tịa án nước ngồi (Bành Quốc Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2011)...
Các đề tài khoa học như đề tài "Cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành quy định
về công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tịa án
nước ngồi, quyết định của trọng tài nước ngồi" (Lê Thế Phúc - chủ nhiệm
đề tài - Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao). Các luận án tiến sĩ

như luận án luận án tiến sĩ "Công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của tịa án nước ngồi", của tác giả Nguyễn Hoài Phương và một
số luận văn thạc sĩ về vấn đề công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án,
quyết định dân sự của tòa án nước ngồi.
Các cơng trình trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam về vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của tịa án nước ngồi trong thời gian qua. Tuy nhiên, các cơng
trình nghiên cứu trên đều chưa tập trung đưa ra các giải pháp để hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của toà án nước ngoài tại Việt Nam. Đây là vấn đề cấp thiết
đặt ra trong tiến trình hồn thiện hệ thống pháp luật nói chung của Việt Nam.

9


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ các nội dung, nghiên cứu các quy định
của pháp luật Việt Nam về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân
sự của tịa án nước ngồi. Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề về lý luận và xem
xét thực trạng vận dụng, thực hiện pháp luật trong hoạt động công nhận và
cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi tại Việt Nam,
làm rõ các vướng mắc, bất cập trong các văn bản pháp luật và đưa các giải
pháp, kiến nghị nhằm mục đích hồn thiện pháp luật Việt Nam, nâng cao hiệu
quả hoạt động công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án
nước ngồi tại Việt Nam trong bối cảnh hội quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ
Đề tài nghiên cứu có nhiệm vụ làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
- Những vấn đề lý luận về công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của tịa án nước ngồi.

- Đánh giá thực trạng pháp luật, đánh giá việc thực hiện pháp luật Việt
Nam, xác định các vướng mắc, bất cập, hạn chế, khó khăn trong hoạt động
cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật Việt Nam về hoạt động công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân
sự của tịa án nước ngồi.
4. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Là các quy phạm pháp luật của
Việt Nam và của một số nước trên thế giới, các điều ước quốc tế và thực tiễn
của Việt Nam trong lĩnh vực này, các mối quan hệ trong hoạt động công

10


nhận công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước
ngồi tại Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về phát triển kinh tế xã
hội, về xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Các phương pháp được sử dụng chủ yếu để nghiên cứu đề tài bao gồm
các phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung và phương pháp nghiên cứu
khoa học pháp lý nói riêng như phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu,
so sánh, hệ thống hóa pháp luật...
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện về cả lý luận và thực tiễn vấn
đề, xác định những hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam về việc công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước

ngồi, đồng thời phân tích kinh nghiệm pháp luật một số quốc gia trên thế
giới về vấn đề này. Từ đó góp phần xây dựng luận cứ khoa học nhằm mục
đích hồn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả trong hoạt động công nhận và
cho thi hành bản án, quyết định của tịa án án nước ngồi tại Việt Nam trong
bối cảnh cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Với những kết quả nghiên cứu, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho các cơ quan lập pháp trong quá trình xây dựng và hồn thiện
pháp luật Việt Nam về vấn đề cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định
của tòa án án nước ngồi. Đề tài có thể có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho các cơ quan tư pháp trong q trình giải quyết các u cầu cơng nhận và
cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tồ án nước ngồi. Đề tài cũng có
cho được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người học tập, làm công
tác nghiên cứu, giảng dạy pháp luật và quan tâm đến vấn đề này.

11


6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài và kinh nghiệm của
một số nước.
Chương 2: Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hồn thiện pháp luật Việt Nam
về cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi
trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

12



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NHẬN
VÀ CHO THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ
CỦA TỊA ÁN NƯỚC NGỒI VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI
HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TỊA ÁN NƢỚC NGỒI

1.1.1. Khái niệm, bản chất, ý nghĩa của việc công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nƣớc ngoài
1.1.1.1. Khái niệm bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi
Xuất phát từ ngun tắc chủ quyền quốc gia trong phạm vi lãnh thổ
của mình, mà các phán quyết dân sự của tòa án một nước tuyên chỉ có hiệu
lực pháp luật trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đó và khơng đương nhiên có
hiệu lực thi hành trên lãnh thổ nước ngoài. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập
quốc tế sâu rộng hiện nay, các quốc gia đã hợp tác, cùng phát triển trên nhiều
lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật, pháp luật...
Các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh trong các lĩnh vực dân sự,
kinh tế, thương mại, lao động, hôn nhân gia đình…giữa các cá nhân và pháp
nhân của các nước ngày càng nhiều, điều đó đồng nghĩa với việc các tranh
chấp phát sinh trong các quan hệ càng nhiều. Các tranh chấp này khi được tòa
án giải quyết đã đặt ra nhiều trường hợp các bản án, quyết định của tòa án
quốc gia này cần phải được công nhận và thi hành tại một quốc gia khác,
nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các bên
trong quan hệ.
Vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa
án nước ngồi được coi là một trong các nội dung quan trọng của tư pháp
quốc tế bên cạnh việc giải quyết xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền,

đây cũng là một nội dung trong phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự được

13


nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm và khơng ngừng hồn thiện các
quy định của pháp luật về vấn đề này. Việc có tiến hành cơng nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi hay khơng là quyền,
chủ quyền của mỗi quốc gia. Công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự
của tịa án nước ngồi chỉ là nghĩa vụ của quốc gia khi quốc gia đó ký kết
hoặc tham gia vào các điều ước quốc tế về vấn đề này. Tuy nhiên, việc công
nhận và thi hành bản án, quyết định của tịa án nước ngồi là cần thiết khách
quan và có nhiều ý nghĩa quan trọng, do vậy hầu hết pháp luật các quốc gia
trên thế giới đều có quy định về vấn đề này hoặc các quốc gia đều ràng buộc
trách nhiệm của mình bằng việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế.
Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án
nước ngồi là một hành vi pháp lý đặc biệt của quốc gia, vì nó vừa mang bản
chất của hoạt động tố tụng dân sự trong pháp luật quốc gia vừa mang bản chất
của hoạt động tương trợ tư pháp trong tư pháp quốc tế nên cần phải tuân theo
một trình tự, thủ tục đặc biệt.
Để đi sâu vào tìm hiểu vấn đề cơng nhận và thi hành bản án, quyết định
dân sự của tòa án nước ngoài, trước tiên, cần phải hiểu về khái niệm "Tịa án
nước ngồi" và khái niệm "Bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi".
Tịa án là cơ quan tài phán của nhà nước, là cơ quan đại diện cho nhà
nước, có chức năng và thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. "Tịa
án nước ngồi" là cơ quan tài phán được thành lập và hoạt động theo pháp
luật nước ngồi.
Bản án, quyết định của tịa án là kết quả của hoạt động tố tụng tòa án,
trong việc giải quyết các vụ việc, án kiện dân sự theo các trình tự, thủ tục tố
tụng và pháp luật mỗi nước, thể hiện tính quyền lựa của Nhà nước, khi có

hiệu lực pháp luật cần phải được tơn trọng và thi hành. Về nguyên tắc bản án,
quyết định của tòa án chỉ phát sinh hiệu lực pháp luật trong phạm vi lãnh thổ
quốc gia có tịa án đã tuyên ra phán quyết đó, muốn được thi hành tại quốc gia
khác thì phải được quốc gia sở tại cơng nhận và cho thi hành.

14


Bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngồi là kết quả của q
trình tịa án nước ngồi áp dụng các trình tự, thủ tục tố tụng dân sự để giải
quyết các vụ việc, án kiện dân sự theo pháp luật của nước mình. Việc xác
định phán quyết nào của tịa án nước ngồi là bản án, quyết định dân sự cần
phải tuân theo pháp luật của quốc gia nơi tiến hành hoạt động cơng nhận, có
như vậy mới đảm bảo nguyên tắc chủ quyền quốc gia và không trái với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia.
Về bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài hiện nay trong tư
pháp quốc tế cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau.
Theo quy định tại một số điều ước quốc tế: Trong một số điều ước
quốc tế về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự, thương mại
của tòa án nước ngoài đã đưa ra nhiều khái niệm về bản án, quyết định dân sự
của tịa án nước ngồi.
Tại Điều 25 Công ước La Hay năm 1968 về công nhận và cho thi
hành các phán quyết về những vấn đề dân sự và thương mại thì nội hàm khái
niệm bản án, quyết định dân sự của tòa án được xác định như sau: "Trong
cơng ước này các phán quyết có nghĩa là các phán quyết của tòa án hoặc trọng
tài của bất kỳ một quốc gia liên quan nào, bao gồm bản án, quyết định dân sự
hoặc lệnh thi hành, cũng như các quyết định của tịa án về án phí, chi phí" [9].
Tại Điều 2 Cơng ước La Hay ngày 01/02/1971 về cơng nhận và thi
hành bản án nước ngồi trong các lĩnh vực dân sự và thương mại quy định:
"Công ước này áp dụng đối với tất cả các quyết định được đưa ra bởi tòa án

của một quốc gia thành viên, bất kể tên được đưa ra bởi quốc gia đó đối với
vụ kiện đã đưa ra quyết định hoặc tên được đưa ra đối với quyết định được coi
là một bản án như phán quyết của tòa án, lệnh hoặc lệnh thi hành" [9]
Theo quy định của pháp luật các quốc gia: Pháp luật các quốc gia
cũng quy định khác nhau về nội hàm khái niệm này.
Pháp luật Việt Nam quy định về phán quyết của tòa án nước ngoài tại
khoản 1 Điều 342 Bộ luật Tố tụng dân sự, cụ thể như sau:

15


Bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngồi là bản án,
quyết định về dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh thương mại,
lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự,
hành chính của tịa án nước ngồi và bản án, quyết định khác của
tịa án nước ngồi mà theo pháp luật của Việt Nam được coi là bản
án, quyết định dân sự [27]
Pháp luật Liên bang Nga quy định về phán quyết của tịa án nước
ngồi tại Điều 409 Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga như sau:
1. Bản án, quyết định của tịa án nước ngồi bao gồm cả
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự được công
nhận và cho thi hành tại Liên bang Nga trong trường hợp hiệp định
quốc tế của Liên bang Nga có quy định.
2. Bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi là bản
án, quyết định dân sự về vụ việc dân sự, trừ tranh chấp kinh tế và
những vụ việc khác liên quan đến hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động kinh tế khác và phần quyết định trong bản án kết tội về bồi
thường thiệt hại gây ra do hành vi phạm tội [45].
Qua các phân tích trên, có thể thấy hiện nay trong pháp luật các nước
cũng như trong một số điều ước quốc tế nội hàm khái niệm bản án, quyết định

dân sự của tòa án nước ngồi cịn nhiều cách hiểu khác nhau. Điều đó có
nghĩa là hiện nay chưa có một sự thống nhất về khái niệm bản án, quyết định
dân sự của tịa án nước ngồi trong tư pháp quốc tế. Xuất phát từ chế độ chính
trị - xã hội, trình độ phát triển, phong tục, tập quán… mà cách hiểu về nội
hàm khái niệm trên ở mỗi nước là khác nhau. Trên cơ sở nguyên tắc chủ
quyền quốc gia và dựa trên tiêu chí "lãnh thổ" nơi phán quyết được ban hành
chúng ta có thể định nghĩa về bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi
như sau: Bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi là bản án, quyết
định dân sự được tuyên ở ngoài lãnh thổ nước công nhận.

16


1.1.1.2. Khái niệm công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự
của tịa án nước ngồi
Theo Từ điển tiếng Việt thì thuật ngữ cơng nhận nghĩa là "sự thừa
nhận trước mọi người một việc gì đó là phù hợp với sự thật, với lẽ phải hoặc
với thể lệ pháp luật" và thi hành là "việc làm cho điều gì đó trở thành có hiệu
lực điều đã được chính thức quyết định" [49]. Trong lĩnh vực pháp luật thì
khái niệm này đã có sự thay đổi.
Theo định nghĩa trong Từ điển Luật học thì cơng nhận và cho thi hành
bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là "việc thừa nhận và cho
phép thi hành bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản
án, quyết định dân sự về hình sự, hành chính của tịa án nước ngồi theo
những ngun tắc và trình tự pháp lý nhất định" [47].
Như vậy, có thể hiểu một cách đơn giản nghĩa của thuật ngữ "công
nhận", "thi hành" trong cụm từ "công nhận và thi hành bản án, quyết định dân
sự của tòa án nước ngồi" như sau: "cơng nhận" là hành vi của cơ quan nhà
nước có thẩm thừa nhận bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi có
hiệu lực pháp luật. Còn "thi hành" là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền

làm cho bản án, quyết định đó được cưỡng chế thực hiện trên thực tế. Mặc dù
có sự khác nhau nhưng giữa "công nhận" và "thi hành" vẫn gắn bó, phụ thuộc
nhau trong đó việc cơng nhận là tiền đề cho việc thi hành.
Từ các nghiên cứu trên, có thể đưa ra khái niệm cơng nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngồi như sau: Cơng nhận và
cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi là hành vi
pháp lý của quốc gia thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền của mình
chính thức thừa nhận sự tồn tại, giá trị pháp lý của bản án, quyết định dân sự
của tòa án một quốc gia khác và làm cho bản án, quyết định dân sự đó có
hiệu lực bắt buộc thi hành trên lãnh thổ nước mình.
Cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước
ngồi là hai vấn đề khác nhau, song trên thực tế chúng thường được sử dụng

17


cùng nhau hoặc có thể được tách riêng nhưng vẫn có ý nghĩa thực tiễn. Trên
thực tế, có trường hợp một bản án, quyết định dân sự của tòa án có nhu cầu
cần được cơng nhận và thi hành nhưng cũng có trường hợp bản án, quyết định
chỉ có nhu cầu cơng nhận tại nước ngồi. Một phán quyết dân sự của tịa án
muốn được thi hành ở nước ngồi, thì bắt buộc phán quyết đó phải được cơng
nhận, tức là phải làm cho nó phát sinh giá trị hiệu lực quốc tế sau đó mới có
phát sinh hiệu lực thi hành.
Trên cơ sở định nghĩa trên có thể thấy công nhận và cho thi hành bản
án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa
án nước ngồi thể hiện ý chí của quốc gia cơng nhận và cho thi hành.
Các phán quyết dân sự của tòa án một quốc gia không đương nhiên
phát sinh hiệu lực tại quốc gia khác. Nếu muốn phát sinh hiệu lực tại quốc gia
khác thì bắt buộc phải được quốc gia sở tại cơng nhận và cho thi hành. Việc

có cơng nhận và cho thi hành hay không là quyền thuộc chủ quyền của các
quốc gia nếu như quốc gia đó khơng tham gia vào một điều ước quốc tế ràng
buộc trách nhiệm của mình về vấn đề này. Các quốc gia đều bình đẳng về chủ
quyền, khơng một quốc gia, một tổ chức quốc tế nào có thể ép buộc một quốc
gia có chủ quyền phải cơng nhận và cho thi hành một phán quyết dân sự của
tịa án nước ngồi trên lãnh thổ của mình. Đây là một nguyên tắc được luật
quốc tế ghi nhận và các quốc gia tôn trọng. Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế
giới thấy việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tịa án nước
ngồi có nhiều ý nghĩa thiết thực, vì vậy đã quy định rất cụ thể trong pháp luật
quốc nội cũng như ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế về vấn đề trên.
Thứ hai, công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa
án nước ngồi được thực hiện thơng qua cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước
ngồi là hoạt động thể hiện ý chí, quyền lực của Nhà nước, do vậy bắt buộc
phải được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước. Thông thường hoạt động này

18


được thực hiện bởi các cơ quan tư pháp mà cụ thể là tòa án của quốc gia. Sau
khi xem xét đầy đủ các điều kiện, thực hiện các thủ tục cần thiết, tòa án sẽ ra
quyết định cuối cùng. Ở Việt Nam, hoạt động này được tiến hành trực tiếp
thông qua hai cơ quan là Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố
trung ương và Tịa án nhân dân tối cao.
Thứ ba, cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa
án nước ngồi là một q trình của tố tụng dân sự quốc tế, thể hiện sự hợp tác
giữa các quốc gia trong hoạt động tương trợ tư pháp.
Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án
nước ngồi có mối quan hệ biện chứng, ràng buộc chặt chẽ với các vấn đề của tố
tụng dân sự quốc tế, bắt đầu từ việc xác định và giải quyết xung đột pháp luật,

sau đó là giải quyết xung đột thẩm quyền và tiếp theo là việc công nhận và cho
thi hành nếu đương sự không tự nguyện thi hành. Quá trình tố tụng dân sự quốc
tế không thể thiếu đi một trong các hoạt động trên, đặc biệt là giai đoạn thi
hành, giai đoạn cuối cùng khép lại tồn bộ q trình tố tụng dân sự quốc tế.
Công nhận và cho thi hành là vấn đề thuộc quyền, chủ quyền của các
quốc gia, quốc gia có thể thực hiện việc cơng nhận hoặc khơng cơng nhận.
Tuy nhiên, các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác cùng phát triển về mọi mặt trên
cơ sở sự hợp tác hữu nghị giữa quốc gia, bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của
con người. Một quốc gia thực hiện việc công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của tịa án nước ngồi là thể hiện sự hợp tác quốc tế của
mình, sự hợp tác này là một phần hoạt động tương trợ tư pháp.
Hiện nay, các quốc gia có một xu hướng chung là tăng cường hợp tác
trong hoạt động tương trợ tư pháp bằng việc ký kết, gia nhập các điều ước
quốc tế về hoạt động tương trợ tư pháp, trong đó có hoạt động cơng nhận và
cho thi hành phán quyết của tịa án nước ngồi hoặc thơng qua con đường
ngoại giao để hợp tác trong lĩnh vực trên.
Thứ tư, chỉ công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định dân sự
của tịa án nước ngồi đã phát sinh hiệu lực pháp luật theo quy định tại nước

19


tuyên ra bản án, quyết định đó trừ một số trường hợp bản án, quyết định cần
thi hành ngay.
Pháp luật nhiều nước đều quy định về điều kiện trên nhằm mục đích
đảm bảo sự thống nhất các nguyên tắc cơ bản pháp luật nước mình, tơn trọng
pháp luật nước ngồi và tuân thủ các nguyên tắc Luật quốc tế.
Ví dụ: Nội dung khoản 1 Điều 356 Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam
quy định: Bản án, quyết dân sự chưa có hiệu lực pháp luật theo quy định pháp
luật của nước có tịa án đã ra bản án, quyết định đó thì khơng được cơng nhận

và cho thi hành tại Việt Nam.
Thứ năm, công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa
án nước ngồi là thủ tục xem xét và quyết định trao hiệu lực tại nước sở tại cho
bản án, quyết định được yêu cầu. Bởi vì, trong lĩnh vực tố tụng dân sự, các quốc
gia thường áp dụng nguyên tắc không áp dụng nước ngoài, điều này khác với
lĩnh vực áp dụng pháp luật về nội dung (lĩnh vực cho phép áp dụng pháp luật
nước ngoài trong một số trường hợp cần thiết). Do vậy, thủ tục, nội dung, điều
kiện xem xét sẽ phải tuân theo các quy định tại các điều ước quốc tế và pháp
luật quốc gia, cơ quan có thẩm quyền của nước được yêu cầu sẽ kiểm tra, đối
chiếu theo những tiêu chí và nội dung nhất định để đưa ra quyết định cuối cùng.
1.1.1.3. Bản chất việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của tịa án nước ngồi
Cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước
ngồi là hành vi pháp lý của quốc gia thơng qua cơ quan nhà nước có thẩm
quyền của mình chính thức thừa nhận sự tồn tại, giá trị pháp lý của bản án,
quyết định dân sự của tòa án một quốc gia khác và làm cho bản án, quyết định
dân sự đó có hiệu lực bắt buộc thi hành trên lãnh thổ nước mình.
Trên cơ sở định nghĩa trên, có thể nhận thấy bản chất của việc công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngồi chính là
việc quốc gia sở tại thừa nhận giá trị hiệu lực pháp lý của các bản án, quyết
định dân sự của tịa án nước ngồi và cho phép thi hành tại quốc gia mình.

20


Để thực hiện việc trên, cơ quan có thẩm quyền của quốc gia sở tại
phải tiến hành các thủ tục để xem xét, quyết định trao hiệu lực thi hành cho
bản án, quyết định được yêu cầu, do đó nội dung, điều kiện, thủ tục xem xét
yêu cầu sẽ được tiến hành trên cơ sở các điều ước quốc tế và pháp luật quốc
gia. Bản án, quyết định dân sự sẽ được cơng nhận và cho thi hành nếu có đủ

các điều kiện theo các điều ước quốc tế cũng như pháp luật quốc gia.
1.1.1.4. Ý nghĩa của việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của tịa án nước ngồi
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, bên cạnh sự hợp tác quốc tế giữa các
quốc gia là sự phát triển các quan hệ và các tranh chấp dân sự có yếu tố nước
ngồi. Các tranh chấp đó được tịa án các nước giải quyết ngày càng nhiều,
điều đó đã đặt ra nhiều trường hợp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên trong chấp thì cần thiết phải tiến hành cơng nhận và cho thi hành bản
án, quyết định dân sự của toà án nước ngồi. Việc cơng nhận và cho thi hành
ánn án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi là cần thiết khách quan và có
ý nghĩa to lớn trên các phương diện sau:
Thứ nhất, về phương diện chính trị, công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của tịa án nước ngồi góp phần thúc đẩy sự phát triển quan
hệ hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia. Sự công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của tịa án ngồi đã khẳng định chủ quyền tài phán của các
quốc gia, thể hiện ý chí của quốc gia đối với các quốc gia khác đồng thời cũng
khẳng định vị trí của quốc gia đó trong đời sống quốc tế. Khơng một quốc gia,
tổ chức quốc tế nào có quyền ép buộc quốc gia phải công nhận và cho thi
hành phán quyết dân sự của tịa án nước ngồi hay phải tham gia vào các điều
ước quốc tế về vấn đề này.
Thực tế cho thấy, mặc dù pháp luật quốc gia đã quy định khá cụ thể
nhưng các nước vẫn ký kết, gia nhập và thực hiện các cam kết quốc tế song
phương, đa phương của mình về vấn đề này. Điều đó đã góp phần thúc đẩy sự
phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia.

21


Thứ hai, về phương diện kinh tế, công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của tòa án nước ngồi góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác

kinh tế giữa các quốc gia và làm nền kinh tế mỗi nước phát triển. Việc công
nhận và cho thi hành bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngồi thể hiện
vai trị của Nhà nước trong việc quản lý, điều tiết nền kinh tế là một phần của
chính sách mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thúc đẩy sự phát triển quan hệ
hợp đồng thương mại quốc tế, tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư.
Thứ ba, về phương diện xã hội, công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của tịa án nước ngồi góp phần duy trì trật tự, ổn định các
quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi nói
riêng, là cơng cụ hữu hiệu để buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ
của mình, tạo tâm lý yên tâm cho bên có quyền lợi được bảo vệ. Việc một bản
án, quyết định dân sự của tòa án nước ngồi khơng được cơng nhận và cho thi
hành ở một quốc gia nơi cần phải thi hành sẽ vi phạm các quyền và lợi ích
chính đáng của các bên trong quan hệ dân sự, vi phạm các quyền về dân sự,
chính trị, kinh tế, xã hội của cá nhân, tạo tâm lý lo ngại, hạn chế đầu tư, kinh
doanh của thương nhân.
Thứ tư, về phương diện pháp luật, công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của tịa án nước ngồi khẳng định vấn đề chủ quyền về tài
phán của quốc gia. Một tòa án chấp nhận việc cơng nhận bản án của tịa án nước
ngồi thì có nghĩa là tịa án đó khơng có thẩm quyền riêng biệt đối với vụ việc
dân sự. Việc công nhận bản án dân sự của tịa án nước ngồi sẽ tránh được hiện
tượng một vụ việc được giải quyết hai lần tại các quốc gia khác nhau, đảm bảo
nguyên tắc thẩm quyền xét xử quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
con người. Ngược lại, nếu một quốc gia không chấp nhận hoặc không thực
hiện việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước
ngồi thì bên được thi hành muốn các quyền và lợi ích của mình được thi hành
sẽ phải khởi kiện lại ở quốc gia đó, như vậy đã tạo ra hiện tượng cùng một vụ
việc mà có hai bản án, quyết định của hai tịa án ở hai nước khác nhau.

22



Mặt khác, việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự
của tịa án nước ngồi cịn đảm bảo tính có hệ thống của pháp luật, khắc phục
các khiếm khuyết của pháp luật, làm cho pháp luật quốc gia, pháp luật quốc tế
hồn thiện hơn, tạo mơi trường pháp lý thuận lợi cho cơ chế giải quyết các vụ
việc dân sự, nhất là giải quyết các quan hệ kinh tế, kinh doanh thương mại có
yếu tố nước ngồi tại tịa án.
1.1.2. Cơ sơ lý luận, cơ sở pháp lý của việc công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nƣớc ngồi
1.1.2.1. Cơ sở lý luận của việc công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của tòa án nước ngồi
Cơ sở lý luận của việc cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của tòa án nước ngoài bao gồm:
* Các nguyên tắc cơ bản trong luật quốc tế hiện đại
Do tính chất đặc biệt của hoạt động công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của tịa án nước ngồi liên quan đến nhiều quốc gia, vì vậy
hoạt động này chịu sự ảnh hưởng bởi một số nguyên tắc cơ bản của luật quốc
tế hiện đại. Các nguyên tắc này là những tư tưởng pháp lý mang tính chỉ đạo,
bắt buộc chung cho các quốc gia, bao gồm:
Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, mỗi quốc gia đều có chủ
quyền trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mình, có tồn quyền quyết định các
vấn đề về đối nội và đối ngoại. Một phán quyết của tịa án nước ngồi muốn
có hiệu lực trên phạm vi lãnh thổ nước khác cần phải được quốc gia sở tại
công nhận và cho thi hành. Ngược lại, nếu quốc gia sở tại từ chối cơng nhận
thì phán quyết của tịa án nước ngồi sẽ khơng có hiệu lực và khơng được thi
hành tại quốc gia đó.
Cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án ngồi
là quyền, xuất phát từ quyền chủ quyền và thể hiện ý chí của quốc gia đối với
các quốc gia khác. Không một quốc gia, tổ chức quốc tế nào có quyền ép buộc


23


một quốc gia phải công nhận và cho thi hành phán quyết của tịa án nước ngồi
hay phải tham gia vào các điều ước quốc tế về vấn đề này. Công nhận và cho
thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án ngồi chỉ là nghĩa vụ của quốc
gia khi quốc gia đó tham gia vào một điều ước quốc tế về vấn đề này.
Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau, việc cơng nhận
và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi là cần thiết
khách quan và có nhiều ý nghĩa quan trọng, nên ngày càng có nhiều quốc gia
ràng buộc trách nhiệm của mình bằng việc ký kết hoặc ra nhập các điều ước
quốc tế về vấn đề này. Khi quốc gia đã là thành viên của một điều ước quốc tế
thì quốc gia đó phải có nghĩa vụ hợp tác với các thành viên khác để đảm bảo
thực hiện điều ước, đồng thời đảm bảo quyền, lợi ích của các bên trong điều ước.
Nguyên tắc tận tâm, tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế (Pacta
Sunt Servanda), tất cả các cam kết quốc tế của quốc gia cần phải được quốc
gia thực hiện một cách có thiện chí và đầy đủ. Các cam kết quốc tế của quốc
gia về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước
ngồi rất cần các quốc gia thực hiện có thiện chí, có hiệu quả. Thơng thường
các quốc gia thực hiện cam kết quốc tế của mình bằng cách chuyển hóa các
quy phạm điều ước quốc tế vào các quy phạm pháp luật quốc gia về vấn đề
này. Ngay cả khi có sự khác nhau giữa pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế
thì các quốc gia cũng thừa nhận giá trị hiệu lực và ưu tiên áp dụng quy phạm
điều ước quốc tế. Các hoạt động trên đã thể hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế
của quốc gia trước các quốc gia kết khác, đảm bảo quyền và lợi ích của mỗi
quốc gia trong quan hệ quốc tế đồng thời cũng đảm bảo quyền và lợi ích của
cá nhân, pháp nhân.
* Các nguyên tắc cơ bản trong tư pháp quốc tế
Vì cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án
nước ngồi là một nội dung quan trọng của tư pháp quốc tế hiện đại nên cũng

chịu sự chi phối trực tiếp bởi một số nguyên tắc cơ bản của tư pháp quốc tế,
bao gồm:

24


Nguyên tắc có đi có lại, đây là một nguyên tắc cơ bản của tư pháp
quốc tế trực tiếp điều chỉnh vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của tịa án nước ngồi và được pháp luật nhiều nước quy định.
Theo nguyên tắc này, một quốc gia sẽ dành một chế độ pháp lý nhất định, hay
một số quyền lợi nào đó cho thể nhân, pháp nhân nước ngoài đúng như chế độ
pháp lý, những quyền lợi hoặc ưu đãi mà thể nhân và pháp nhân nước này đã
và đang được hưởng ở nước ngồi đó [12, tr. 17-18]. Nếu một nước đơn
phương khơng áp dụng chế độ có đi có lại hoặc hạn chế quyền của cơng dân,
pháp nhân nước ngồi trong lĩnh vực trên thì nước có cơng dân, pháp nhân bị
hạn chế quyền đó sẽ áp dụng biện pháp trả đũa bằng cách hạn chế các quyền
tương tự đối với công dân, pháp nhận nước kia. Như vậy, có thể hiểu quốc gia
sở tại có thể cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án
nước ngồi khi nước đó đã cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân
sự của nước mình mà khơng địi hỏi giữa các nước phải là thành viên của một
điều ước quốc tế về vấn đề này.
Ở Việt Nam, nguyên tắc có đi có lại được quy định tại Điều 343 Bộ
luật Tố tụng dân sự, theo đó: "Bản án, quyết định dân sự của tịa án nước
ngồi… có thể được Tịa án Việt Nam xem xét cơng nhận và cho thi hành tại
Việt Nam trên cơ sở có đi có lại mà khơng địi hỏi Việt Nam và nước đó phải
ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề đó" [27].
Ngun tắc cơng nhận quyền miễn trừ của quốc gia, quốc gia là một
thực thể độc lập, có chủ quyền trong cộng đồng quốc tế. "Khi tham gia vào
các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài các quốc gia vẫn giữ chủ quyền
của mình, do đó được hưởng quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối" [20, tr. 185].

"Quốc gia được quyền miễn trừ xét xử, miễn trừ về đảm bảo sơ bộ cho vụ
kiện đặc biệt là miễn trừ thi hành án, nếu khơng có sự đồng ý của quốc gia thì
khơng thể cưỡng chế thi hành bản án quyết định tư pháp nhằm chống lại quốc
gia đó" [25, tr. 131]. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cần thiết, quốc gia
có quyền tự nguyện từ bỏ quyền miễn trừ của mình vì lợi ích của quốc gia

25


trong việc phát triển giao lưu dân sự quốc tế. Vì vậy, khi giải quyết các u
cầu cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước
ngồi mà quốc gia là bị đơn thì nguyên tắc này cần được xem xét, áp dụng.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa công dân nước sở tại với
cơng dân nước ngồi, đây là một ngun tắc cơ bản của tư pháp quốc tế có
ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự
của tịa án nước ngồi. Trên cơ sở các quyền cơ bản của con người đã được
luật quốc tế ghi nhận, trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mình, quốc gia khơng
chỉ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cơng dân nước mình mà cịn bảo
vệ tất cả các quyền và lợi ích chính đáng của người nước ngoài.
* Bảo vệ quyền con người
Con người là điều kiện quyết định chính, quan trọng nhất cho sự tồn
tại bền vững, phát triển đi lên của mỗi quốc gia và cả thế giới. Bảo vệ quyền
con người là vấn đề quan trọng và được cả thế giới quan tâm. Công nhận và
cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi chính là một
biểu hiện của việc bảo vệ quyền con người ở khía cạnh dân sự, chính trị cũng
như kinh tế, xã hội.
Bản án, quyết định dân sự của tòa án là kết quả của quá trình tố tụng
dân sự do tòa án tuyên nhân danh nhà nước để giải quyết các vụ việc dân sự
nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của con người và bản án, quyết
định đó cần được thi hành. Việc thi hành có thể được thực hiện tại quốc gia

tuyên bản án, quyết định hoặc tại một quốc gia khác, do vậy đã đặt ra vấn đề
công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi.
* Xu thế hội nhập quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, các quốc gia đều có xu
hướng xích lại gần nhau, chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác với nhau
trên nhiều lĩnh vực, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và
cùng có lợi nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ
thuật…ở quốc gia và trên phạm vi toàn thế giới.

26


Sự hội nhập quốc tế của các quốc gia hiện nay rất đa dạng: Hội nhập
với khu vực, liên khu vực hoặc hội nhập tồn cầu; hội nhập về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, an ninh, pháp luật…, việc công nhận
và cho thi hành bản án, quyết định của tịa án nước ngồi là một biểu hiện của
hoạt động đó. Nếu một quốc gia thực hiện hội nhập quốc tế nhưng lại không
hoặc hạn chế việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của
tịa án nước ngồi thì sự hội nhập đó chỉ là phiến diện thậm chí cịn gây ra
nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Ngược lại, nếu một quốc gia quan tâm và có đầy đủ
cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế về vấn đề này thì
sẽ có tác dụng thúc đẩy sự phát triển sự hội nhập quốc tế.
Tại Việt Nam, vấn đề này đã được xác định tại Nghị quyết số 48-QN/TW
ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hồn
thiện pháp luật về hội nhập quốc tế tại Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020. Theo Nghị quyết số 48-QN/TW, trong thời gian tới Việt Nam
cần: "Tham gia các điều ước quốc tế đa phương về tương trợ tư pháp, nhất là
các điều ước liên quan tới việc công nhận và cho thi hành các bản án, quyết
định của tịa án, quyết định trọng tài thương mại nước ngồi" [13].
1.1.2.2. Cơ sở pháp lý của việc công nhận và cho thi hành bản án,

quyết định dân sự của tòa án nước ngồi
Cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước
ngồi là một nội dung cơ bản của tư pháp quốc tế. Do đó, pháp luật mỗi quốc
gia cũng như pháp luật quốc tế đều đề cập đến vấn đề này.
* Các điều ước quốc tế
Trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, nhằm mục đích bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của con người, tạo dựng môi trường pháp lý thuận lợi
cho việc giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, thúc đẩy sự hợp
tác hữu nghị giữa các nước, các quốc gia luôn cố gắng xúc tiến các hoạt động
để ký kết, gia nhập ngày càng nhiều vào các điều ước quốc tế đa phương và

27


song phương về tương trợ tư pháp. Đây không chỉ là nhu cầu nội tại thiết thực
của quốc gia mà cịn là nghĩa vụ của quốc gia xét dưới góc độ luật quốc tế.
Trong các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp về dân sự thường có
một phần nội dung quy định khá cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục cơng
nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tịa án nước ngồi. Có thể
kể đến một số điều ước quan trọng, đáng chú ý sau:
Thứ nhất, Công ước New York ngày 20/6/1956 về trích tiền cấp dưỡng
người ở nước ngồi. Cơng ước không quy định việc công nhận và thi hành án
dân sự nước ngoài đối với các vụ việc về cấp dưỡng, nhưng có quy định cụ
thể về thể thức giải quyết vụ kiện nhằm đơn giản hóa thủ tục trích tiền cấp
dưỡng ra nước ngồi;
Thứ hai, Cơng ước La Hay ngày 15/4/1958 về công nhận và thi hành
các quyết định về cấp dưỡng (đa số các nước Châu Âu tham gia). Theo Cơng
ước, quyết định của tịa án nước tham gia công ước này sẽ được công nhận và
thi hành tại nước tham gia công ước kia mà không phải xem xét lại thực chất
vụ việc. Để công nhận bản án dân sự nước ngoài loại này, ngoài những yêu

cầu về tính hợp thức, cần thiết phải đảm bảo tuân theo quy tắc thẩm quyền xét
xử quốc tế và không vi phạm trật tự công cộng;
Thứ ba, Công ước La Hay ngày 20/4/1966 về công nhận và thi hành
các án dân sự và thương mại nước ngoài và Nghị định thư bổ sung cơng ước đó.
Theo Cơng ước và Nghị định thư bổ sung, việc công nhận và thi hành
sẽ được tiến hành, nếu:
+ Án do tịa án có thẩm quyền tuyên (theo quan điểm thẩm quyền
quốc tế);
+ Án có hiệu lực thi hành và cần được thi hành;
+ Việc thi hành không trái với trật tự công cộng;
+ Trước đó tại nước phải thi hành hoặc tại một nước thứ ba đã không
tuyên án hoặc không khiếu nại về vụ tranh chấp cụ thể này;

28


×