Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

(Luận văn thạc sĩ) pháp luật tiền lương ở nước ta thực trạng và phương hướng hoàn thiện luận văn ths luật kinh tế 6 01 05

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (937.42 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-------------------

NGUYỄN THỊ NGHĨA

PHÁP LUẬT TIỀN LƢƠNG Ở NƢỚC TA THỰC TRẠNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số
: 60105
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. Nguyễn Hữu Viện

HÀ NỘI - NĂM 2003

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
Chƣơng 1 ........................................................................................................................9
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƢƠNG VÀ.....................................................9
PHÁP LUẬT TIỀN LƢƠNG Ở NƢỚC TA ...................................................................9
1.1. Những vấn đề lý luận về tiền lƣơng ....................................................................9
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển các học thuyết về tiền lương .....................9
1.1.2. Khái niệm tiền lương ........................................................................................ 12
1.1.3. Một số nguyên tắc cơ bản của tiền lương .....................................................17
1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật tiền lƣơng .................................................20


1.2.1. Khái niệm ..........................................................................................................20
1.2.2. Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của pháp luật tiền lương ............................. 22
1.2.3. Ý nghĩa của pháp luật tiền lương trong hệ thống pháp luật của nước ta .....23
Chƣơng 2 NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƢƠNG ÁP DỤNG
ĐỐI VỚI KHU VỰC SẢN XUẤT KINH DOANH Ở ....................................................24
NƢỚC TA HIỆN NAY .................................................................................................24
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật tiền lƣơng nƣớc ta ........24
2.1.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8/1945 đến ngày hồ bình lập lại tháng
7/1954 .......................................................................................................................... 24
2.1.2. Giai đoạn từ hồ bình lập lại 20/7/1954 đến trước năm 1960 ............................... 25
2.1.3. Giai đoạn từ năm 1960 đến tháng 8/1985 .....................................................27
2.1.4. Giai đoạn từ 9/1985 đến 5/1993 .....................................................................29
2.1.5. Giai đoạn từ 1993 đến nay ..............................................................................31
2.2. Phân loại tiền lƣơng ............................................................................................ 33
2.2.1. Phân loại tiền lương theo nội dung ................................................................ 33
2.2.2. Phân loại tiền lương theo hình thức .....................................................................34
2.3. Những quy định của pháp luật về tiền lƣơng áp dụng đối với khu vực sản
xuất, kinh doanh ở nƣớc ta hiện nay ........................................................................36
2.3.1. Quy định về tiền lương tối thiểu .....................................................................36
2.3.2. Quy định về thang lương, bảng lương ........................................................... 44
2.3.3. Quy định về việc trả lương làm thêm giờ.......................................................46
2.3.4. Quy định về các chế độ phụ cấp lương ......................................................... 46
2.3.5. Quy định về chế độ thưởng .............................................................................55
2.3.6. Quy định về chế độ nâng bậc .........................................................................57
2.3.7. Quy định về tạm ứng tiền lương .....................................................................59


2.3.8. Quy định về trả lương khi ngừng việc ............................................................ 60
2.3.9. Quy định về khấu trừ tiền lương .....................................................................61
Chƣơng 3 ĐÁNH GIÁ PHÁP LUẬT TIỀN LƢƠNG ÁP DỤNG ĐỐI VỚI KHU VỰC

SẢN XUẤT KINH DOANH Ở NƢỚC TA- ..................................................................63
Ý KIẾN ĐĨNG GĨP HỒN THIỆN ...........................................................................63
3.1. Đánh giá pháp luật tiền lƣơng áp dụng đối khối sản xuất kinh doanh ở nƣớc
ta ...................................................................................................................................63
3.1.1. Đối với doanh nghiệp Nhà nước .....................................................................63
3.1.2. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi ..........................................66
3.1.3. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh .......................................................71
3.2. Một số ý kiến đóng góp hồn thiện pháp luật tiền lƣơng áp dụng đối với khu
vực sản xuất kinh doanh ............................................................................................ 77
3.2.1. Về cải cách tiền lương .....................................................................................77
3.2.2. Một số vấn đề cần tiến hành song song với cuộc cải cách tiền lương ..................82
KẾT LUẬN .....................................................................................................................85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................87


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta có lực lượng lao động làm công hưởng lương rất lớn (7,4
triệu người/82 triệu dân số cả nước), trong đó bao gồm 5,8 triệu lao động
làm việc trong hơn 5.000 doanh nghiệp nhà nước, 1.500 doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài; 3.200 cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc quốc tế
tại Việt Nam có thuê mướn lao động là người Việt Nam, 45.000 doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và hơn 1,6 triệu lao động làm
việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp [24].
Với lực lượng lao động làm công hưởng lương đông đảo như vậy
đã đặt ra cho nước ta một thử thách lớn đó là làm thế nào để đáp ứng
được vấn đề tiền lương, ổn định cuộc sống cho họ? bằng cách nào để
khuyến khích họ làm việc, đóng góp cơng sức xây dựng đất nước? Đây là
một vấn đề hết sức nan giải và phức tạp. Trước nhu cầu ngày càng trở
nên cấp bách này, Đại hội lần IX của Đảng nhấn mạnh chủ trương: "...

điều chỉnh tiền lương tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội;
hệ thống thang bậc lương bảo đảm tương quan hợp lý, khuyến khích
người tài giỏi... ".
Thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước, thời gian qua một hệ
thống văn bản về tiền lương đã được Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội ban hành theo thẩm quyền hoặc phối hợp với các Bộ, ngành liên quan
như: Thông tư số 09/2002/TT-BLĐTBXH ngày 11/06/2002 hướng dẫn
thực hiện cơ chế quản lý lao động, tiền lương và thu nhập đối với công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ;
Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tiền lương;
Thông tư số 12/2003/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện một số điều
của Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 của Chính phủ về
tiền lương đối với lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước;
Thông tư số 16/2003/TT-BTC ngày 14/03/2003 hướng dẫn nguồn thực

2


hiện điều chỉnh tiền lương, trợ cấp xã hội năm 2003...
Ngoài ra các Bộ, ngành hữu quan như: Nội vụ, Tài chính, Ngân
hàng... cũng đã ban hành các văn bản pháp luật về chế độ chi ngân sách
nhà nước, về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao... đã góp phần
vào việc hồn thiện hệ thống pháp luật về tiền lương ở nước ta.
Tuy vấn đề tiền lương được Đảng, nhà nước cũng như mọi tầng lớp
lao động làm cơng ăn lương quan tâm, được Quốc hội, Chính phủ cho
sửa đổi, bổ sung qua nhiều lần và đã đạt được nhiều kết quả đáng kể
song với một nền kinh tế thị trường đa dạng các hình thức sở hữu của
nước ta giai đoạn hiện nay thì pháp luật tiền lương ngày càng bộc lộ
nhiều hạn chế cả về quy mơ, nội dung và hình thức, địi hỏi phải sớm

được nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Trước tình hình cấp
bách này, ngày 14/11/2001 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số
179/2001/QĐ-TTg về việc thành lập Ban chỉ đạo nghiên cứu cải cách
chính sách tiền lương nhà nước, tuy nhiên cải cách tiền lương là cả một
quá trình phức tạp nên đến thời điểm hiện nay nó vẫn đang trong giai
đoạn dự thảo và sẽ được hồn chỉnh vào năm 2010.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về tiền lương ở nước ta có lịch sử phát triển lâu đời, từ
văn bản đầu tiên quy định về tiền lương năm 1946 đến nay, pháp luật
tiền lương đã có lịch sử gần 60 năm, đã trải qua 3 lần cải cách tiền lương
và hàng trăm lần thay đổi, điều chỉnh những quy định, những quy tắc về
thang lương, bậc lương. Trước đây, đã có nhiều bài viết, nhiều cơng trình
nghiên cứu về tiền lương nhưng chỉ dưới góc độ kinh tế và chủ yếu đi
sâu phân tích về hoạt động quản lý kinh tế nhà nước về tiền lương và một
vài đề tài nghiên cứu về hệ thống pháp luật về tiền lương nhưng ở
quy mô nhỏ.
Pháp luật về tiền lương ở nước ta là một hệ thống pháp luật tương
đối phức tạp, khó hiểu, cịn nhiều hạn chế, chưa thực sự phát huy vai trò
tối ưu và tầm quan trọng của nó trong hệ thống pháp luật hiện hành của

3


nước ta.
Xuất phát từ cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề này, với góc độ là
người trực tiếp vận dụng những quy phạm pháp luật về tiền lương trong
công việc, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: Pháp luật tiền lương ở nước
ta - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện làm đề tài nghiên cứu với
hy vọng sẽ đóng góp được một phần nhỏ vào việc hồn thiện hệ thống
pháp luật về tiền lương ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

3. Phạm vi nghiên cứu, mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa của đề tài
- Phạm vi: Trong phạm vi một luận văn thạc sỹ luật, chuyên ngành
Luật Lao động, đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung pháp lý cơ
bản nhất về vấn đề tiền lương ở nước ta được áp dụng đối với người lao
động, tổ chức, cá nhân sử dụng, thuê mướn lao động theo hợp đồng lao
động thuộc tất cả các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu khác nhau
(gọi chung là tiền lương khu vực sản xuất, kinh doanh).
Những quy định về tiền lương áp dụng cho cán bộ công chức nhà
nước, người giữ các chức vụ bầu cử hoặc bổ nhiệm, người thuộc lực
lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân... không tham gia ký kết hợp
đồng lao động theo Điều 4 của Bộ luật Lao động nói chung khơng nằm
trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tuy nhiên trong nội dung quá trình
hình thành và phát triển của pháp luật tiền lương nước ta và một số nội
dung khác trong đề tài tác giả cũng có đề cập đến tiền lương của khu vực
này để đối chiếu, so sánh.
- Mục đích: Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm: Một mặt làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận về tiền lương, mặt khác đi sâu phân tích,
đánh giá, tìm hiểu những quy định của pháp luật tiền lương áp dụng đối
với người lao động, tổ chức, cá nhân sử dụng lao động theo hợp đồng lao
động ở nước ta, qua đó làm sáng tỏ sự hình thành, nội dung, thực tiễn,
những bất cập, những tồn tại, hạn chế, những nguyên nhân cơ bản của
những bất cập, hạn chế của pháp luật tiền lương hiện hành áp dụng cho
người lao động, tổ chức, cá nhân sử dụng lao động theo hợp đồng lao

4


động để qua đó đóng góp ý kiến, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật
tiền lương nói riêng, hệ thống pháp luật của nước ta nói chung.
- Nhiệm vụ: Để đạt được những múc đích nghiên cứu nói trên, tác

giả đã đặt ra những nhiệm vụ sau đây:
+ Nghiên cứu nguồn gốc tiền lương, ý nghĩa kinh tế, xã hội của
tiền lương.
+ Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật về tiền
lương ở nước ta.
+ Phân tích khái niệm, đặc điểm của tiền lương.
+ Tìm hiểu những nội dung cơ bản của pháp luật tiền lương.
+ Xem xét thực tiễn pháp luật tiền lương và việc áp dụng pháp luật
tiền lương đối với người lao động, tổ chức cá nhân sử dụng lao động theo
hợp đồng lao động ở nước ta.
+ Phân tích cơ sở khách quan và yêu cầu đổi mới, hoàn thiện pháp
luật về tiền lương, qua đó đóng góp ý kiến nhằm đổi mới, hồn thiện
pháp luật về tiền lương nói riêng, pháp luật lao động nói chung.
- Ý nghĩa: Kết quả nghiên cứu đề tài luận văn là tài liệu tham khảo
hữu ích đối với hoạt động nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo
luật; giúp các cán bộ làm công tác lao động - tiền lương tại các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh nắm được những quy định của nhà nước về
chế độ tiền lương hiện hành để vận dụng vào cơng việc chun mơn đồng
thời nó cũng có ích đối với các cơ quan hữu quan trong quá trình nghiên
cứu đổi mới, hồn thiện hệ thống pháp luật về tiền lương.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu, trong đó có các phương pháp cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp chủ đạo được sử
dụng để làm sáng tỏ và đánh giá tính hiệu quả cũng như chỉ rõ những bất
cập còn tồn tại trong quy định của pháp luật hiện hành về tiền lương.
Việc phân tích, đánh giá hiệu quả các quy định này được gắn liền với

5



thực tiễn áp dụng luật và có tính đến sự phù hợp với xu hướng phát triển
của xã hội trong thời gian tới.
- Phương pháp so sánh: Tác giả đã so sánh các yếu tố đặc thù của
pháp luật tiền lương với các lĩnh vực pháp luật khác, so sánh các quy
định hiện hành của pháp luật tiền lương nước ta với một số nước trong
khu vực và trên thế giới, từ đó rút ra những nhận xét khách quan cho
việc xây dựng, áp dụng pháp luật tiền lương.
- Phương pháp trao đổi: Được sử dụng khi gặp gỡ các nhà doanh
nghiệp, các cán bộ chuyên trách, các cán bộ quản lý - những người trực
tiếp vận dụng quy phạm pháp luật về tiền lương trong hoạt động quản lý
doanh nghiệp; các chuyên viên được giao nhiệm vụ xây dựng đề án cải
cách tiền lương... để tìm hiểu quá trình xây dựng, áp dụng pháp luật và
tiếp thu những kinh nghiệm cũng những bài học thực tiễn.
- Ngoài các phương pháp nói trên, trong q trình nghiên cứu tác
giả cịn sử dụng phương pháp lịch sử, tổng hợp, thống kê...
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, luận văn có kết cấu gồm 3 chương và
phần phụ lục, tài liệu tham khảo.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tiền lương và pháp luật tiền
lương ở nước ta
Chương 2: Những quy định của pháp luật tiền lương áp dụng đối
với người lao động, tổ chức, cá nhân sử dụng lao động theo hợp đồng lao
động ở nước ta hiện nay.
Chương 3: Đánh giá pháp luật tiền lương áp dụng đối với người
lao động, tổ chức, cá nhân sử dụng lao động theo hợp đồng lao động ở
nước ta hiện nay - Ý kiến đóng góp hồn thiện.

6



Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƢƠNG VÀ
PHÁP LUẬT TIỀN LƢƠNG Ở NƢỚC TA
1.1. Những vấn đề lý luận về tiền lƣơng
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển các học thuyết về tiền lương
Tiền lương là một phạm trù kinh tế, xã hội, xuất hiện khi có sự sử
dụng sức lao động của một bộ phận dân cư trong xã hội bởi một bộ phận
dân cư khác. Một bộ phận dân cư trong xã hội có vốn để sản xuất, kinh
doanh, còn một bộ phận dân cư khác, do khơng có vốn, chỉ có sức lao
động phải đi làm thuê cho những người có vốn và đổi lại, họ được nhận
một khoản tiền, gọi là tiền lương. Như vậy, khái niệm "tiền lương" xuất
hiện khi có sự sử dụng sức lao động của một bộ phận dân cư trong xã hội
một cách có tổ chức và đều đặn bởi một bộ phận dân cư khác.
Tiền lương theo tiếng Anh (salary), tiếng Pháp (salaire) đều bắt
nguồn từ "muối" (salt), là một phần lương thực, thực phẩm dành cho
người lính khi đi chiến đấu. Khái niệm tiền lương khi mới ra đời đơn
thuần là sử dụng sức lao động (sức lính) chứ chưa mang ý nghĩa kinh tế.
Cùng với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản, với sự xuất
hiện của thị trường sức lao động và giai cấp vơ sản, khái niệm tiền lương
đã có đầy đủ ý nghĩa kinh tế, xã hội.
Để có được một khái niệm tiền lương với đầy đủ ý nghĩa kinh tế,
xã hội như ngày nay là cả một quá trình nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm
của các nhà hoạt động khoa học mà cụ thể là qua các học thuyết của họ
về tiền lương.
1.1.1.1. Thuyết tiền lương đủ sống
Đây là học thuyết cổ nhất về tiền lương được các nhà kinh tế Anh,
Pháp đề xuất trước cả Ađamsmít, sau này trở thành tiền đề của lý thuyết
về tiền lương tối thiểu. Theo thuyết này, tiền lương của người lao động
phổ thông trong xã hội chỉ cần đủ lớn để trang trải các chi phí duy trì

cuộc sống cho bản thân người lao động và gia đình họ. Nếu các mức tiền

7


lương cao hơn hay thấp hơn mức tiền lương đủ sống sẽ kéo theo sự tăng
hay giảm cung lao động, làm thay đổi cán cân cung - cầu và kết quả làm
giảm hoặc tăng các mức tiền lương đủ sống. Hạn chế của học thuyết này
là tách rời tiền lương ra khỏi các biến động kinh tế - xã hội, cũng như
các nhân tố quyết định sự co giãn cung - cầu lao động. Thuyết này bác
bỏ các yếu tố phân biệt tiền lương theo vùng, năng suất lao động, hiệu
quả kinh tế... đồng thời cũng bác bỏ vị trí kinh tế của người lao động
trong quá trình sản xuất vật chất mà chỉ nhằm lý giải quan hệ giữa tiền
lương với số lượng lao động một cách trực tiếp.
1.1.1.2. Thuyết tổng quỹ lương
Học thuyết do các nhà kinh tế cổ điển Anh đề xuất, với nội dung
cơ bản coi quỹ lương là một phần vốn ứng trước của sản xuất, vì vậy có
tính cố định, tiền lương chỉ có thể tăng lên khi giảm số cầu về lao động
(với số vốn không đổi) hoặc tăng vốn đầu tư trên một lao động, nếu tăng
quỹ lương vượt quá khả năng sẽ nảy sinh nạn thất nghiệp hoặc giảm tích
luỹ của nhà tư bản dẫn đến giảm quỹ tiền lương trong tương lai. Nhược
điểm của học thuyết này là coi tiền lương là yếu tố sản xuất chứ không
phải là yếu tố của phân phối.
1.1.1.3. Thuyết năng suất giới hạn
Được ra đời từ cuối thế kỷ 19, học thuyết này được coi là lý giải
tiền lương một cách thuyết phục nhất. Nguyên lý chung của học thuyết
này là tiền lương phụ thuộc vào năng suất giới hạn tạo ra sản phẩm của
người lao động. Học thuyết này cho ta thấy:
+ Trong điều kiện vốn là cố định, nếu lượng lao động tăng lên thì
tiền lương sẽ giảm đi.

+ Trong điều kiện số lao động cố định, nếu số vốn tăng lên sẽ làm
tăng mức năng suất giới hạn, tức là tăng tiền lương hoặc sẽ làm tăng
lượng cầu lao động nếu giữ nguyên mức tiền lương;
+ Mức tăng (giảm) cung - cầu lao động sẽ quyết định mức giảm
(tăng) của tiền lương trên cơ sở của sản phẩm giới hạn.

8


Lý thuyết về năng suất giới hạn được áp dụng rộng rãi trong một
thời gian dài, sau đó người ta nhận ra đây là thuyết tiền lương chênh
lệch, vì nó chỉ xem xét cầu về lao động mà không xem xét về cung lao
động.
1.1.1.4. Thuyết của Alfred Marsall
Học thuyết của nhà kinh tế học người Anh, học thuyết này ảnh
hưởng lớn đến lý luận kinh tế hiện đại. Alfred Marsall coi thuyết năng
suất giới hạn là học thuyết lý giải nhu cầu lao động và khơng thừa nhận
đó là học thuyết tiền lương đầy đủ. Ông khẳng định cả cung và cầu lao
động đều ảnh hưởng đến tiền lương vì thực tế cả cung hoặc cầu lao động
thay đổi đều ảnh hưởng đến mức lương cuối cùng chứ không phải chỉ sản
phẩm giới hạn được coi là duy nhất quyết định mức lương. Alfred
Marsall không thừa nhận thuyết tổng quỹ lương mà cho rằng mức lương
có thể ảnh hưởng đến mức lãi trên vốn và vì thế ảnh hưởng đến mức tích
luỹ và vốn trong tương lai.
1.1.1.5. Thuyết thoả ước tập thể
Coi tiền lương có thể biến đổi trong phạm vi nhất định mà không
làm nảy sinh những hậu quả trái ngược với cơ hội việc làm hoặc giảm số
cung lao động và việc xác định tiền lương đó phụ thuộc vào khả năng
mặc cả tương đối của hai bên trong quá trình thoả thuận.
1.1.1.6. Thuyết tiền lương thể hiện quy luật phân phối theo lao động

Trước đây, trong các nước xã hội chủ nghĩa, do không thừa nhận
sức lao động là hàng hố, nên tiền lương khơng được coi là giá cả của
hàng hoá sức lao động. Khái niệm tiền lương đã bị giới hạn trong phạm
vi của phạm trù phân phối và được hiểu như là một phần của thu nhập
quốc dân sử dụng mà nhà nước xã hội chủ nghĩa với tư cách là chủ tư
liệu sản xuất phân phối cho người lao động trên cở sở số lượng và chất
lượng lao động làm ra.
Nhờ có những học thuyết về tiền lương của các nhà khoa học mà
chúng ta đã có được những hiểu biết đa dạng về tiền lương. Trên cơ sở

9


kế thừa những tiền bộ của các học thuyết, chúng ta đã vận dụng vào nền
kinh tế của nước ta và đã có được khái niệm tiền lương tương đối đầy đủ,
khoa học như ngày nay.
1.1.2. Khái niệm tiền lương
1.1.2.1. Định nghĩa tiền lương
Tiền lương không chỉ là phạm trù kinh tế mà còn là yếu tố hàng
đầu của các chính sách xã hội liên quan trực tiếp đến đời sống của người
lao động. Khái niệm tiền lương được nhiều ngành khoa học: Kinh tế học,
luật học nghiên cứu dưới những giác độ khác nhau.
Việc chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã làm thay đổi
nhận thức về lý luận trong xây dựng chính sách tiền lương. Theo cơ chế
mới, người lao động được quyền ký kết hợp đồng lao động, được tự do di
chuyển giữa các thành phần kinh tế, giữa các cơ sở sản xuất... Nhà nước
thực sự công nhận sự tồn tại khách quan của phạm trù sức lao động và
như vậy tiền lương không chỉ thuộc phạm trù phân phối mà còn là phạm
trù trao đổi, phạm trù giá trị. Chế độ tiền lương do nhà nước quy định,

ban hành phải xuất phát từ yêu cầu là quan tâm tồn diện tới mục đích,
động cơ làm việc, các nhu cầu cũng như lợi ích kinh tế của người lao
động, có như vậy mới khơi dậy được khả năng tiềm ẩn của người lao
động để phát triển sản xuất, phát triển xã hội.
Như vậy, tiền lương được hiểu là số lượng tiền tệ mà người sử
dụng lao động trả cho người lao động khi họ hồn thành cơng việc theo
chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định hoặc được hai bên đã thoả
thuận trong hợp đồng lao động dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu
quả công việc nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu do nhà nước
quy định.
Qua khái niệm trên cho ta thấy, tiền lương là thành quả thu được
của người lao động sau khi đã bỏ sức lao động để làm ra sản phẩm hoặc
đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội cho nhà nước hay cho người sử

10


dụng lao động. Sức lao động của con người là một trong những yếu tố
quan trọng và giữ vai trò quyết định trong quá trình sản xuất, được biểu
hiện ở cường độ lao động, khả năng tư duy sáng tạo của người lao động.
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển và trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp thì ở bất kỳ xã hội nào, nhà nước nào càng thu h út, sử dụng
tốt lao động sáng tạo, lao động có trình độ chun mơn cao càng thúc
đẩy kinh tế phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương là biểu hiện bằng tiền giá
trị sức lao động, là giá cả sức lao động. Cũng như các thị trường khác,
thị trường sức lao động hoạt động theo quy luật cung cầu, mọi cơng dân
có quyền th mướn, sử dụng lao động và trả công phù hợp với giá trị
sức lao động. Việc trả lương không chỉ dựa trên cơ sở giá trị, giá cả sức
lao động của người lao động đã bỏ ra mà còn phải dựa trên cơ sở những

quy định về tiền lương của pháp luật hiện hành đặc biệt là không được
trả lương thấp hơn mức lương tối thiểu nhà nước quy định vì mức lương
tối thiểu là mức lương thấp nhất trả cho người lao động, chỉ áp dụng đối
với những lao động làm công việc giản đơn nhất. Người sử dụng lao
động, trong bất kỳ điều kiện, hồn cảnh nào cũng khơng được trả lương
thấp hơn mức lương tối thiểu. Nhà nước ta rất tôn trọng sự thoả thuận
giữa người sử dụng lao động và người lao động về vấn đề tiền lương, tuy
nhiên nếu sự thoả thuận của hai bên vượt ra ngồi khn khổ pháp luật
cho phép là trái pháp luật và sẽ bị xử lý.
1.1.2.2. Bản chất của tiền lương
Từ khái niệm tiền lương cho ta thấy bản chất của tiền lương là giá
cả sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động thông qua
sự thoả thuận giữa người có sức lao động và người thuê mướn, sử dụng
sức lao động, tiền lương phải bao gồm đầy đủ các yếu tố cấu thành để
đảm bảo nguồn thu nhập, nguồn sống chủ yếu của bản thân và gia đình
người lao động, là điều kiện để người hưởng lương hoà nhập vào thị
trường xã hội.

11


Như chúng ta đã biết, lao động là hoạt động kiếm sống của đa số
thành viên trong xã hội. Đa số mọi người trong xã hội tham gia vào quá
trình lao động để thoả mãn các nhu cầu về vật chất và tinh th ần của bản
thân mình và gia đình mình. Lao động được đem ra trao đổi và do vậy
tiền lương là phạm trù trao đổi. Độ lớn của tiền lương cần đủ để người
lao động có thể mua đủ khối lượng nhu yếu phẩm với chất lượng và một
mức giá nhất định để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất giản đơn và mở rộng
cho bản thân và gia đình.
Do lao động là yếu tố đầu vào của sản xuất nên tiền lương là vốn

đầu tư ứng trước quan trọng nhất trong tổng chi phí của sản xuất và là
tiền đề để tăng năng suất lao động thông qua việc tăng cường hiệu quả sử
dụng các yếu tố còn lại của sản xuất. Hiểu theo cách này, tiền lương là
yếu tố thuộc phạm trù sản xuất và bị tri phối bởi các quy luật sản xuất
như quy luật tăng năng suất lao động, hiệu quả vốn đầu tư...
Chi phí lao động là một trong những yếu tố cấu thành của sản xuất.
Tiền lương là một bộ phận của tổng sản phẩm đầu ra được phân phối lại
cho người lao động trên cơ sở số lượng và chất lượng dịch vụ lao động
cung ứng. Nếu phần phân phối này lớn sẽ có tác dụng kích thích tiêu
dùng thời kỳ hiện tại, tuy nhiên nó có thể ảnh hưởng đến tiêu dùng trong
tương lai do tích luỹ kém. Do vậy tiền lương là yếu tố thuộc phạm trù
phân phối, chịu sự chi phối của quy luật phân phối theo lao động và theo
hiệu quả sản xuất; giữa quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng.
Sức lao động phải được tái sản xuất thông qua việc sử dụng các tư
liệu sinh hoạt cần thiết, thông qua quỹ tiền lương cá nhân, và do đó tiền
lương là một phạm trù của tiêu dùng, bị chi phối bởi quy luật khác như:
Quy luật giá trị, quy luật nhu cầu và mức sống không ngừng nâng cao.
1.1.2.3. Vai trò của tiền lương đối với đời sống xã hội
Tiền lương có một vai trị rất lớn không chỉ đối với riêng bản thân
người lao động mà còn đối với cả đời sống xã hội. Vai trị đó được thể
hiện ở những điểm sau:

12


- Tiền lương luôn gắn liền với người lao động, là nguồn sống chủ
yếu của bản thân người lao động và gia đình họ. Tiền lương là yếu tố
quan trọng nhất có tác dụng kích thích người lao động nâng cao năng lực
làm việc của mình, phát huy mọi khả năng vốn có để tạo ra năng suất,
chất lượng lao động. Tiền lương là động lực để người lao động vươn tới

tầm cao hơn của tài năng, sức lực và sáng tạo, góp phần thúc đẩy kinh tế
phát triển.
- Tiền lương tác động tích cực đến việc quản lý kinh tế, tài chính,
quản lý lao động, kích thích sản xuất.
- Tiền lương ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội.
Chính từ vai trị đặc biệt quan trọng của tiền lương, để tiền lương
thực sự là thước đo cho mỗi hoạt động của từng cơ sở kinh tế, từng
người lao động và là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế phát triển, đòi hỏi tiền
lương phải thực hiện được chức năng cơ bản của nó để đảm bảo cho
người lao động khơng những duy trì được cuộc sống thường ngày trong
suốt quá trình làm việc, bảo đảm tái sản xuất sức lao động một cách tốt
nhất mà còn đủ khả năng để dự phòng cho cuộc sống lâu dài khi khơng
cịn khả năng lao động.
1.1.2.4. Chức năng của tiền lương
 Chức năng thước đo giá trị
Tiền lương biểu thị giá cả sức lao động, là thước đo để xác định
mức tiền công của các loại lao động, là căn cứ để thuê mướn lao động, là
cơ sở để xác định đơn giá sản phẩm.
 Chức năng tái sản xuất sức lao động
Thu nhập của người lao động dưới hình thức tiền lương được sử
dụng một phần đáng kể vào việc tái sản xuất giản đơn sức lao động mà
chính bản thân họ đã bỏ ra cho q trình lao động nhằm mục đích duy trì
năng lực làm việc lâu dài, hiệu quả, phần còn lại sử dụng cho các nhu
cầu thiết yếu của các thành viên trong gia đình người lao động. Sự thay

13


đổi các điều kiện kinh tế, sự biến động các lĩnh vực hàng hố, giá cả có

ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người lao động vì vậy tiền lương trả
cho người lao động phải bù đắp những hao phí lao động tính cả trước,
trong và sau q trình lao động cũng như những biến động về giá cả sinh
hoạt, những rủi ro hoặc các chi phí khác phục vụ cho việc nâng cao trình
độ ngành nghề...
 Chức năng kính thích lao động
Các mức tiền lương và cơ cấu tiền lương là các đòn bẩy kinh tế rất
quan trọng để định hướng quan tâm và động cơ lao động của người lao
động. Để động viên, khuyến kích người lao động làm việc có năng suất
cao, đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt thì chủ sử dụng lao động cần quan
tâm tới việc tăng lương cao hơn so với giá trị sức lao động để kích thích
người lao động nâng cao năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Các mức tiền lương tăng không ngừng sẽ có tác động nâng cao
khả năng tái sản xuất sức lao động, tạo điều kiện nâng cao chất lượng lao
động và các giá trị khác của người lao động.
Ngoài việc tăng lương, chủ sử dụng lao động cần áp dụng biện
pháp thưởng. Số tiền này bổ sung cho tiền lương, mang tính chất nhất
thời, khơng ổn định nhưng lại có tác động mạnh mẽ tới năng suất, chất
lượng và hiệu quả lao động.
 Chức năng tích luỹ
Tiền lương trả cho người lao động phải đảm bảo duy trì được cuộc
sống hàng ngày trong thời gian làm việc và còn dự phòng cho cuộc sống
sau này, khi họ hết khả năng lao động hay gặp rủi ro.
 Chức năng phân phối của cải vật chất do quá trình lao động làm ra
Do lao động là yếu tố đầu vào của sản xuất và được đền bù thông
qua số lượng vật phẩm hàng hoá sản xuất ra nhằm thoả mãn nhu cầu của
người lao động và gia đình họ. Qua chức năng này cho ta thấy tiền lương
còn tham gia vào quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội.
 Chức năng kích thích nền kinh tế phát triển và thúc đẩy sự phân


14


cơng lao động trên tồn bộ nền kinh tế
Trên lĩnh vực vĩ mô, tổng mức tiền lương quyết định tổng nhu cầu
về hàng hoá và dịch vục cần thiết phải sản xuất. Do vậy, việc tăng các
mức tiền lương có tác dụng kích thích tăng sản xuất, qua đó tăng nhu cầu
về lao động. Bên cạnh đó, sự chênh lệch tiền lương giữa các ngành, các
nghề thúc đẩy sự phân cơng và bố trí lao động cũng như các biện pháp
nâng cao chất lượng lao động.
Do tiền lương là một phạm trù kinh tế tổng hợp, và là một đòn bẩy
kinh tế quan trọng đến sản xuất, đời sống và các mặt khác của nền kinh
tế xã hội, tiền lương được trả đúng đắn qua các chế độ và hình thức phù
hợp sẽ trở thành một động lực mạnh mẽ, có tác dụng:
+ Đảm bảo tái sản xuất sức lao động và không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá của người lao động.
+ Là một yếu tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động.
+ Tạo điều kiện để phân bố hợp lý sức lao động giữa các ngành
nghề, các vùng, các lĩnh vực trong cả nước.
1.1.3. Một số nguyên tắc cơ bản của tiền lương
1.1.3.1. Tiền lương được trả trên cơ sở sự thoả thuận giữa người sử
dụng lao động và người lao động
Nguyên tắc này đã được quy định cụ thể trong Điều 55 Bộ luật Lao
động: "Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp
đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu
quả công việc".
Như chúng ta đã biết, trong bất kỳ một nền kinh tế thị trường nào
cũng tồn tại quy luật cạnh tranh, đặc biệt trong khu vực sản xuất kinh
doanh, quy luật cạnh tranh là rõ rệt nhất. Các đơn vị sản xuất kinh doanh,
bằng quy luật cạnh tranh của mình ln coi sức lao động là hàng hố và

ln tìm mọi biện pháp để kiếm lợi nhuận dựa trên nguồn hàng hố đó,
do vậy để bảo vệ người lao động Bộ luật Lao động nước ta phải quy định
rõ rằng người sử dụng lao động và người lao động được tự do thoả thuận

15


mức lương dựa vào năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc của
người lao động, trên cơ sở hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị
nhưng mức lương phải được ghi rõ trong hợp đồng lao động và đặc biệt
hai bên không được thương lượng, thoả thuận với mức lương thấp hơn
mức lương tối thiểu mà nhà nước đã quy định. Nhà nước chỉ khống chế
mức lương tối thiểu mà không khống chế mức lương tối đa cũng là nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích cho người lao động.
1.1.3.2. Trả lương không thấp hơn mức lương tối thiểu do nhà nước quy
định
Nguyên tắc này đã được quy định tại Sắc lệnh số 29-SL "Bất luận
trường hợp nào, chủ cũng khơng được trả lương cơng nhân ít hơn lương
tối thiểu" và nay nguyên tắc này một lần nữa được quy định cụ thể trong
Điều 55 Bộ luật Lao động: "...mức lương của người lao động không được
thấp hơn mức lương tối thiểu do nhà nước quy định" . Đây là nguyên tắc
quan trọng nhất của tiền lương nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người
lao động, nhất là trong nền kinh tế thị trường và trong điều kiện sức lao
động cung lớn hơn cầu như hiện nay. Mức lương tối thiểu được xây dựng
trước hết căn cứ vào mức sống tối thiểu của từng quốc gia, là mức độ
thoả mãn nhu cầu tối thiểu của người lao động trong một thời kỳ nhất
định. Mức lương tối thiểu do nhà nước ban hành, bắt buộc người sử dụng
lao động phải tuân thủ, đảm bảo mức sống cho người lao động. Mức
lương tối thiểu được nhà nước thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp với
nền kinh tế đất nước và đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho người lao động.

1.1.3.3. Chống chủ nghĩa bình quân trong tiền lương
Chủ nghĩa bình quân thời kỳ bao cấp đến nay đã trở nên lạc hậu,
khơng cịn đáp ứng nhu cầu xã hội. Chủ nghĩa bình qn khơng có tác
dụng khuyến khích người lao động tích cực lao động, sản xuất, khơng
đáp ứng được nguyện vọng của người lao động nhất là những người tài
giỏi, có năng lực.
Giai đoạn hiện nay chủ nghĩa bình qn hầu như khơng cịn, sự

16


chênh lệch giữa các bậc trong thang, bảng lương đã khuyến khích được
người có trình độ cao, tiêu hao năng lượng lớn, trách nhiệm nặng; kích
thích mọi người ln phấn đấu nâng cao kiến thức và nghề nghiệp, đạt
hiệu quả và chất lượng cao.
1.1.3.4. Tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động
Việc đảm bảo tái sản xuất sức lao động được thể hiện thông qua
tiền lương nhận được của người lao động. Tiền lương bao gồm trong nó
là mặt hiện vật và mặt giá trị: Về mặt hiện vật, nó thể hiện qua cơ cấu,
chủng loại các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ sinh hoạt cần thiết để tái sản
xuất giản đơn sức lao động như ăn, mặc, ở, đi lại, trang bị đồ dùng sinh
hoạt, giao tiếp xã hội, bảo vệ sức khoẻ (y tế, văn hố, học tập, bảo hiểm
tuổi già, ni con...). Về mặt giá trị, nó thể hiện qua giá trị của các tư
liệu sinh hoạt và của các dịch vụ sinh hoạt cần thiết như ăn, ở, mặc, an
toàn, dịch vụ hạ tầng... đối với người lao động.
1.1.3.5. Trả lương phải bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho
cơng việc có giá trị ngang nhau.
Ở nước ta, hiện tượng phân biệt đối xử về tiền lương giữa nam và
nữ hiếm xảy ra, tuy nhiên Bộ luật Lao động, Điều 111, khoản 1 vẫn quy
định rõ: "Người sử dụng lao động phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng

nam nữ về tuyển dụng, sử dụng, nâng bậc lương và trả công lao động" .
Ở một số nước, hiện tượng phân biệt, đối xử trong trả lương giữa nam và
nữ cùng làm một cơng việc hoặc làm cơng việc có giá trị ngang nhau bị
pháp luật nghiêm cấm, ILO có cơng ước số 100 (1951) và công ước số
156 (1981) về nguyên tắc này, tuy nhiên trên thế giới vẫn còn một số
nước vẫn trả lương phân biệt giữa nam và nữ. Ví dụ: Ấn độ cho phép trả
lương nữ thấp hơn nam khi họ cùng làm một công việc mang tính chất
như nhau.
1.1.3.6 Phân phối theo lao động
Nguyên tắc phân phối theo lao động có liên quan đến nguyên tắc
trả lương bình đẳng giữa lao động nam và nữ. Cốt lõi của nguyên tắc

17


phân phối theo lao động là công việc như nhau thì phải trả lương ngang
nhau, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng.
Phân phối theo lao động khơng có nghĩa là lao động tạo ra bao nhiêu giá
trị thì hưởng bấy nhiêu và cũng khơng đồng nghĩa với quan điểm cho
rằng mọi người đều là chủ của quá trình sản xuất, mức hưởng thụ của họ
tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất đưa lại, không cần tính đến giá trị sức lao
động bỏ ra, khơng tính đến sự tham gia của các yếu tố vốn và các yếu tố
khách quan tác động vào.
Phân phối theo lao động là căn cứ vào lượng lao động tiêu hao để
phân phối lượng giá trị mới sáng tạo ra tương ứng với giá trị sức lao
động đã hao phí. Để thực hiện nguyên tắc này, các quy định của nhà
nước về tiền lương phải phản ánh đúng giá trị của sức lao động, phù hợp
với sự biến động của giá cả, với khả năng đảm bảo hàng hoá và giá trị
của đồng tiền và tiền lương phải được coi là giá cả sức lao động.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, nguyên tắc này vẫn giữ nguyên

giá trị, các nước tư bản phát triển cũng đề cao nguyên tắc này. Tuy
nhiên, trong cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp
khơng giống nhau, có doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận, có doanh
nghiệp thu được ít hơn. Vì vậy, ngun tắc phân phối theo lao động có
thể chỉ thích hợp trong phạm vi một doanh nghiệp, một đơn vị cụ thể khó
thích hợp và áp dụng trong phạm vi rộng hơn do tiền lương trong nền
kinh tế thị trường không chỉ tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động
mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác.
Phân phối theo lao động được xác định theo hiệu quả của công
nhân và hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Chỉ với sự tuân thủ chính xác
nguyên tắc phân phối theo lao động thì nhiệt tình của cơng nhân mới
tăng lên, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cũng được tăng lên theo
và quản lý doanh nghiệp mới được cải thiện.
1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật tiền lƣơng
1.2.1. Khái niệm

18


Bất kỳ một quốc gia nào cũng đều sử dụng pháp luật để điều chỉnh
các quan hệ xã hội, nhờ có pháp luật đất nước sẽ giữ được kỷ cương, trật
tự an ninh xã hội được bảo đảm. Nước ta, ngay từ khi mới ra đời đã bắt
tay vào việc xây dựng một hệ thống luật pháp để điều chỉnh các quan hệ
trong xã hội. Hệ thống pháp luật nước ta bao gồm nhiều ngành luật, mỗi
một ngành luật điều chỉnh một lĩnh vực riêng, tuy nhiên các giữa các
ngành luật đều có mối quan hệ qua lại, ràng buộc với nhau tạo thành một
hệ thống khăng khít.
Ngành luật Lao động tuy chỉ là một trong rất nhiều ngành luật của
nước ta song đối tượng điều chỉnh của nó tương đối rộng vì nó liên quan
trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao

động, các tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao
động và đặc biệt là quy định về vấn đề tiền lương - một vấn đề quan
trọng liên quan đến đời sống của hàng triệu lao động trong xã hội do vậy
nó ln được nhà nước và người lao động quan tâm, trú trọng hàng đầu.
Nước ta chưa có một khái niệm đầy đủ về pháp luật tiền lương, tuy
nhiên ta có thể hiểu: Pháp luật về tiền lương là một hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực tiền lương.
Kể từ khi ra đời đến nay, pháp luật tiền lương nước ta đã trải qua
gần 60 năm, với hàng trăm các văn bản luật, văn bản dưới luật điều chỉnh
các chế độ tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp... Pháp luật tiền lương buộc
người sử dụng lao động và người lao động thoả thuận tiền lương trong
khn khổ của nó, là cơ sở pháp lý quan trọng và cần thiết để người sử
dụng lao động và người lao động căn cứ vào đó để áp dụng.
Pháp luật tiền lương nước ta được quy định thành một hệ thống.
Từ văn bản pháp luật có giá trị cao nhất là Hiến pháp đến Bộ luật Lao
động, các Nghị định, Nghị quyết, Thông tư... đã giúp ta nắm bắt được
toàn bộ những quy định của nhà nước về tiền lương như: Lương tối
thiểu; thang lương, bảng lương; các hình thức trả lương; khấu trừ lương;
các chế độ phụ cấp, tiền thưởng, nâng bậc lương...

19


Pháp luật về tiền lương giúp cho người sử dụng lao động và người
lao động căn cứ vào đó để vận dụng song cũng là cơ sở để nhà nước căn
cứ vào đó thực hiện cơng tác quản lý của mình, nếu một trong hai bên
tham gia quan hệ lao động không tuân thủ những quy định của nhà nước
về tiền lương, nhà nước sẽ áp dụng chế tài để xử lý.
1.2.2. Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của pháp luật tiền lương
Do chế định tiền lương là một chế định rất quan trọng của Bộ luật

Lao động nên đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Lao động cũng
chính là đối tượng, phạm vi điều chỉnh của pháp luật tiền lương, cụ thể:
1.2.2.1. Đối tượng điều chỉnh
Do tiền lương là số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả
cho người lao động khi họ hoàn thành công việc theo chức năng, nhiệm
vụ được pháp luật quy định hoặc hai bên đã thoả thuận trong hợp đồng
lao động dựa trên năng suất, chất lượng lao động nên đối tượng điều
chỉnh của pháp luật tiền lương là quan hệ trả công giữa người sử dụng
lao động và người lao động.
1.2.2.2. Phạm vi điều chỉnh
Pháp luật tiền lương được áp dụng đối với mọi người lao động,
mọi tổ chức, cá nhân sử dụng lao động theo hợp đồng lao động, thuộc
các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu, bao gồm: Người lao động
và người sử dụng lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp ngồi quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
các cơ quan tổ chức nước ngoài hoặc quốc tế đóng trên lãnh thổ Việt
Nam có tham gia ký kết hợp đồng thuê, mướn lao động là người Việt
Nam; người nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam và người lao động làm công trong
các cơ quan nhà nước, tổ chức khác (gọi chung là tiền lương khu vực sản
xuất, kinh doanh).
Pháp luật tiền lương còn được áp dụng đối với khu vực hành chính,
sự nghiệp, bao gồm: cơng chức, viên chức nhà nước, người giữ các chức

20


vụ bầu cử hoặc bổ nhiệm, người thuộc lực lượng quân đội nhân dân,
công an nhân dân, người thuộc các đồn thể nhân dân, các tổ chức chính
trị, xã hội khác và xã viên hợp tác xã. Tuy nhiên, do giới hạn về phạm vi,

mục đích nghiên cứu của đề tài nên tác giả không đề cập pháp luật tiền
lương của khu vực này trong luận văn.
Như vậy, đối tượng và phạm vi điều chỉnh của pháp luật tiền lương
tương đối rộng. Để pháp luật tiền lương có tính khả thi, phù hợp với từng
loại khu vực kinh tế, từng loại doanh nghiệp và trên cơ sở tính chất cơng
việc của người lao động, nhà nước ban hành những quy phạm pháp luật
điều riêng cho phù hợp.
1.2.3. Ý nghĩa của pháp luật tiền lương trong hệ thống pháp luật của
nước ta
Vì tiền lương được xem là quan trọng nhất trong đời sống vật chất,
tinh thần của người lao động làm công ăn lương nên pháp luật tiền lương
luôn được Đảng, nhà nước quan tâm. Tiền lương đã được Đảng ta khẳng
định vai trị, tầm quan trọng của nó trong các văn kiện Đại hội của Đảng,
trong các văn bản của Chính phủ, của các Bộ, ngành liên quan. Pháp luật
tiền lương nước ta có một vị trí rất quan trọng, có mối quan hệ khăng
khít với pháp luật Tài chính - Ngân hàng, Hành chính, Dân sự; liên quan
trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của người sử dụng lao động và người lao
động; các nguyên tắc trả lương, quản lý tiền lương... nên pháp luật tiền
lương là một ngành luật không thể thiếu được trong hệ thống pháp luật
của nước ta. Nhờ có pháp luật tiền lương mà tình hình kinh tế xã hội
được ổn định, quyền và nghĩa vụ của người lao động hưởng lương được
tôn trọng, bảo vệ.

21


Chƣơng 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƢƠNG
ÁP DỤNG ĐỐI VỚI KHU VỰC SẢN XUẤT KINH DOANH Ở
NƢỚC TA HIỆN NAY

2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật tiền lƣơng
nƣớc ta
Từ ngày nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà được thành lập, Đảng
và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến đời sống nhân dân nói chung và
đời sống của người lao động làm cơng hưởng lương nói riêng. Để qu ản lý
và thực hiện chế độ tiền lương và phụ cấp, pháp luật tiền lương của nước
ta đã có sự thay đổi qua từng thời kỳ gắn liền với những sự kiện của đời
sống xã hội. Ta có thể thấy rõ nhất q trình hình thành và phát triển của
pháp luật tiền lương nước ta qua 05 giai đoạn sau đây:
2.1.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8/1945 đến ngày hồ bình lập lại
tháng 7/1954
Giai đoạn này nước ta đã giành được chính quyền từ tay thực dân Pháp,
cả nước vừa phải tập trung củng cố chính quyền cách mạng mới, non trẻ; chống
lại nạn đói, nạn ngoại xâm vừa phải tiến hành kháng chiến chống lại kẻ thù và
lực lượng chống phá cách mạng. Do đặc điểm lịch sử có nhiều biến động nên
đã tác động rất lớn đền những quy định của pháp luật về tiền lương.
Những ngày đầu thành lập nước (tháng 9/1945), tiền lương vẫn theo tiền
lương và phụ cấp của chế độ cũ. Đến tháng 7/1946 Sắc lệnh 133-SL ấn định
lương tối thiểu của công chức các ngạch mỗi tháng 150 đồng (đối với Hà Hội,
Hải Phòng) và 130 đồng (đối với các tỉnh khác), đến tháng 2/1947 lương tối
thiểu nâng lên 180 đồng, lương tối đa 600 đồng cho công chức, lương công
nhân vẫn theo ngạch bậc cũ.
Tháng 5/1948 chế độ cơng chức mới được ban hành, có một thang lương
chung với 5 ngạch công chức. Tháng 5/1949, Bộ Quốc phịng ban hành chế độ
lương cho cơng nhân viên chức quốc phòng. Từ tháng 8/1949, chiến sự lan
rộng, giá sinh hoạt tăng cho nên tháng 2/1950 lương tối thiểu được điều chỉnh

22



lên 250 đồng.
Năm 1950 chiến sự ngày càng lan rộng, giá sinh hoạt mỗi nơi một khác,
giá trị thực tế đồng tiền sụt giảm. Tháng 5/1950 Sắc lệnh 77-SL quy định: Cơng
nhân giúp việc Chính phủ (nay gọi là quốc doanh) áp dụng thang lương chung
18 bậc. Sắc lệnh 98-SL ấn định lương và phụ cấp hàng tháng theo giá gạo:
lương tối thiểu 35 kg gạo, lương tối đa 53 kg gạo, cịn lương tối đa của cơng
chức bằng 72 kg.
Đặc điểm lúc này là chế độ lương thống nhất giữa công nhân và công
chức (từ bậc 18 xuống bậc 1, các bậc lương công nhân và công chức như nhau),
nhưng chỉ áp dụng được trong vùng tự do và đến Liên khu V. Các khu vực
miền trong nữa thì chủ yếu dựa vào nhân dân, tăng gia tự túc và xét hoàn cảnh
từng người để chu cấp khoảng 15 kg mỗi tháng/người với tinh thần đồng cam
cộng khổ.
Từ cuối năm 1951, thay phụ cấp khí hậu xấu bằng chế độ cấp thuốc men,
thay cung cấp muối bằng phụ cấp gạo, cấp thêm mỗi tháng 3 kg gạo mà 1 m vải
diềm bâu. Tháng 5/1953 mỗi người được cấp thêm để dùng cho 3 năm: chăn
bông, màn, áo trấn thủ, bỏ phụ cấp cho vợ, nâng phụ cấp cho con. Ngồi chế độ
chung, có chế độ cung cấp thêm cho cán bộ cao cấp và trí thức (phụ cấp mỗi
tháng 20 kg gạo).
Những quy định của pháp luật về tiền lương trên đây cho ta thấy chế độ
tiền lương trong giai đoạn này là chế độ tiền lương thời chiến, được cung cấp
bằng hiện vật, bảo đảm sinh hoạt tối thiểu trên tinh thần đồng cam cộng khổ để
kháng chiến. Chế độ tiền lương cấp bậc, chức vụ ra đời thay thế chế độ tiền
lương cũ trước đây là một bước mới của lịch sử tiền lương nước ta.
2.1.2. Giai đoạn từ hồ bình lập lại 20/7/1954 đến trước năm 1960
Thời kỳ này miền Bắc đã hoàn toàn giành được độc lập, miền Nam
lại bắt đầu cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Đây
là thời kỳ Đảng và nhà nước tập trung tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc đồng thời tiến hành chiến tranh giải phóng ở miền Nam cho
nên các quy định của pháp luật về tiền lương được điều chỉnh lại cho phù


23


×