Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quyền sửa bản án sơ thẩm của tòa án phúc thẩm theo bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.89 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỒNG THỊ GIANG THANH

QUN SửA BảN áN SƠ THẩM CủA TòA áN PHúC THẩM
THEO Bé LT Tè TơNG H×NH Sù N¡M 2003

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỒNG THỊ GIANG THANH

QUN SửA BảN áN SƠ THẩM CủA TòA áN PHúC THẩM
THEO Bé LT Tè TơNG H×NH Sù N¡M 2003

Chun ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hồng Thị Giang Thanh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN SỬA BẢN ÁN
SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM....................................... 7
1.1.

Khái niệm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm ....... 7


1.2.

Điều kiện làm phát sinh quyền sửa bản án sơ thẩm của Tịa
án phúc thẩm .................................................................................. 12

1.3.

Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm
2003 về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm .......... 13

1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960 .............................................. 13
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1988 .............................................. 14
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003 .............................................. 16
1.4.

Quyền sửa bản án sơ thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự
một số nước trên thế giới ................................................................ 17

Chương 2: QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC
THẨM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ NĂM 2003 ...................................................................... 23
2.1.

Quyền miễn trách nhiệm hình sự và sửa tội danh ........................ 23

2.1.1. Quyền miễn trách nhiệm hình sự ...................................................... 23
2.1.2. Quyền sửa tội danh ........................................................................... 29
2.2.

Quyền miễn, giảm, tăng và chuyển hình phạt ............................... 32


2.2.1. Quyền miễn hình phạt....................................................................... 32


2.2.2. Quyền giảm hình phạt....................................................................... 35
2.2.3. Quyền tăng hình phạt ........................................................................ 37
2.2.4. Quyền chuyển hình phạt ................................................................... 39
2.3.

Quyền sửa bản án sơ thẩm về các quyết định khác ...................... 42

2.3.1. Quyền giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo ............... 42
2.3.2. Quyền sửa về phần bồi thường thiệt hại ............................................ 45
2.3.3. Quyền sửa về xử lý vật chứng và các vấn đề khác ............................ 49
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYỀN
SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM................. 51
3.1.

Những vi phạm, sai lầm của Tòa án phúc thẩm trong thực tiễn
thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền sửa bản
án sơ thẩm ....................................................................................... 51

3.1.1. Sửa tội danh khơng đúng .................................................................. 52
3.1.2. Giảm hình phạt khơng đúng .............................................................. 54
3.1.3. Tăng hình phạt khơng đúng .............................................................. 55
3.1.4. Chuyền hình phạt khơng đúng .......................................................... 57
3.1.5. Cho bị cáo hưởng án treo không đúng .............................................. 58
3.1.6. Sửa trách nhiệm dân sự không đúng ................................................. 60
3.2.


Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành quy định quyền
sửa bản án sơ thẩm của Tịa án phúc thẩm ................................... 61

3.2.1. Giải pháp hồn thiện quy định của pháp luật .................................... 61
3.2.2. Giải pháp hướng dẫn áp dụng pháp luật, tổng kết công tác xét xử,
xây dựng và công bố án lệ ................................................................ 65
3.2.3. Giải pháp tập huấn nghiệp vụ và công tác cán bộ ............................. 71
3.2.4. Các giải pháp khác............................................................................ 75
KẾT LUẬN ................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 81


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS:

Bộ luật dân sự

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

TAND:

Tịa án nhân dân


TANDTC:

Tịa án nhân dân tối cao

TTHS:

Tố tụng hình sự


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 3.1: Tổng số vụ án hình sự sơ thẩm kháng cáo, kháng nghị bị
Tịa án cấp phúc thẩm sửa án

51


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ Đại hội lần thứ VI (năm 1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề
ra chủ trương đổi mới toàn diện đất nước. Cải cách tư pháp là một đòi hỏi
khách quan, cấp thiết để có thể thích ứng với những đổi mới về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 “Về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” của Bộ Chính trị là
Nghị quyết quan trọng, đề ra các chủ trương lớn, có tính đột phá nhằm tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong cải cách tư pháp.
Đã có nhiều quy định của pháp luật ra đời thể chế hóa các quan điểm
đổi mới của Đảng, trong đó có BLTTHS năm 1988. Đây là BLTTHS đầu tiên
thể hiện đường lối đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
VI. Sau 15 năm thi hành, mặc dù đã được sửa đổi bổ sung 3 lần, song
BLTTHS năm 1988 vẫn có nhiều bất cập, trong đó có những bất cập đối với
quy định về Thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. Năm
2003, BLTTHS mới được ban hành, tuy đã có những sửa đổi bổ sung song
các quy định về thủ tục phúc thẩm nói chung và quyền sửa bản án sơ thẩm
của Tòa án phúc thẩm nói riêng về cơ bản vẫn giống BLTTHS 1988. Do đó,
vẫn cịn những tồn tại về vấn đề này phát sinh trong thực tiễn mà chưa được
sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn thi hành. Cụ thể là, quy định về các nội dung
của bản án sơ thẩm mà Tòa án cấp phúc thẩm được quyền sửa còn chưa đầy
đủ, mâu thuẫn với các quy định khác. Thực tế tại các địa phương khác nhau
có những ý kiến khác nhau về trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm sửa những
nội dung không được quy định trong Điều 249 BLTTHS. Không những thế,
hậu quả của việc sửa bản án sơ thẩm còn liên quan tới những vấn đề khác về
thẩm quyền xét xử hoặc liên quan tới cả công tác thi hành án hình sự. Vậy cần

1


có nhận thức như thế nào về các nội dung tại Điều 249 BLTTHS, làm thế nào
để các sai sót trong bản án hình sự sơ thẩm được sửa chữa khắc phục tại cấp
phúc thẩm một cách chính xác, đảm bảo ngun tắc cơng bằng và chính sách
nhân đạo trong xử lý hình sự?
Trong chế định về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, quyền sửa bản án sơ
thẩm là một quyền rất quan trọng của Tòa án cấp phúc thẩm. Nếu khơng có

quyền này, thì khi các bản án sơ thẩm có sai sót sẽ khơng được sửa chữa khắc
phục kịp thời. Nếu bất kì sai sót nào của bản án sơ thẩm cũng bị hủy để xét xử
lại hoặc y án để xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm thì sẽ vừa gây tốn kém thời
gian, kinh phí, vừa khơng kịp thời bảo vệ được quyền con người và tạo niềm
tin của nhân dân vào pháp luật. Quyền sửa bản án khắc phục được tất cả
những điểm hạn chế đó nên cần thiết phải có sự nghiên cứu sâu nội dung này.
Ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết số 49/NQTW “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó chỉ rõ nhiệm
vụ là: “Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù
hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi
trọng việc hồn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp…” và
“trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân”. Khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã quy định “Chế độ xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm được bảo đảm”.
Với những lý do trên, cho thấy việc nghiên cứu về quyền sửa bản án sơ
thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm là vấn đề rất cần thiết, góp phần thi hành
đúng và thống nhất quy định của Điều 249 BLTTHS và có giải pháp hồn
thiện quy định của BLTTHS về những vấn đề liên quan đến quyền sửa bản án
sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ khi có BLTTHS 1988 ra đời, và sau đó là BLTTHS 2003, các quy

2


định về thủ tục xét xử phúc thẩm là đối tượng nghiên cứu cho nhiều tác giả.
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu cho thấy đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
về thủ tục xét xử phúc thẩm của Tòa án, nhưng quyền sửa bản án sơ thẩm mới
được giới thiệu và nêu tại các nghiên cứu chung về thủ tục xét xử phúc thẩm,
hoặc nghiên cứu chung về quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm.
Các luận án, luận văn nghiên cứu về thủ tục xét xử có: Luận án “Thẩm

quyền của Tòa án các cấp theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của TS. Nguyễn
Văn Huyên năm 2002; luận án “Phúc thẩm trong Tố tụng hình sự” của TS.
Nguyễn Đức Mai năm 2004; luận án “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong Tố tụng
hình sự Việt Nam” của TS. Vũ Gia Lâm năm 2008; luận văn “Thẩm quyền của
Tịa án cấp phúc thẩm trong Tố tụng hình sự” của Ths. Nguyễn Văn Tiến năm
1997; luận văn “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong Tố tụng hình
sự Việt Nam” của Ths. Nguyễn Thị Thu Hồng năm 2010 v.v..
Trước khi có BLTTHS 2003 có một số bài nghiên cứu trên các báo, tạp
chí như: Hồng Thị Sơn “Quyền hạn của Tòa án khi xét xử phúc thẩm” và
“Sửa bản án sơ thẩm theo Điều 221 BLTTHS”, tạp chí luật học số 6/1997 và
5/1999; Nguyễn Nơng “Về quyền sửa bản án sơ thẩm của tòa án cấp phúc
thẩm”, tạp chí Tịa án nhân dân số 8/1994; Vũ Gia Lâm “Phạm vi xét xử và
quyền sửa bản án sơ thẩm”, Tạp chí luật học số 5/2010; “Hồn thiện một số
quy định về xét xử phúc thẩm hình sự nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc
hai cấp xét xử”, Tạp chí Tịa án nhân dân số 23/2006; và “Một số vấn đề về
phạm vi xét xử và quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự”,
Tạp chí Tịa án nhân dân số 18/2009. Đinh Văn Quế “Một số vấn đề về sửa bản
án sơ thẩm trong xét xử phúc thẩm theo Bộ luật TTHS năm 2003”, Tạp chí Tịa
án nhân dân số 13/2006. Ngồi ra còn được đề cập tới ở một số tài liệu khác
như Giáo trình luật TTHS của Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật
TTHS của Viện đại học mở… và các sách chuyên khảo về kĩ năng xét xử.

3


Như vậy, nội dung cụ thể về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp
phúc thẩm chủ yếu là một phần trong các nội dung nghiên cứu về thủ tục phúc
thẩm của luận án tiến sĩ hoặc luận văn thạc sĩ. Các nghiên cứu riêng biệt hơn
mới chỉ dừng lại ở cấp độ là các nghiên cứu trao đổi trên các báo và tạp chí,
chưa có cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Điều đó càng cho

thấy việc nghiên cứu toàn diện về quy định này là rất cần thiết, tạo sự thống
nhất trong nhận thức và chính xác trong thực tiễn áp dụng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn bao gồm:
- Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận chung về quyền sửa bản án sơ
thẩm, tìm hiểu quy định này trong lịch sử luật TTHS Việt Nam và pháp luật
TTHS của một số nước trên thế giới; giải thích rõ các quy định của BLTTHS có
liên quan đến quyền sửa bản án sơ thẩm, những nội dung của bản án sơ thẩm
Tòa án cấp phúc thẩm được quyền sửa; những lưu ý đối với từng nội dung đó.
- Phân tích làm rõ những điểm hạn chế, thiếu sót trong quy định về
quyền sửa bản án sơ thẩm, phân tích những tồn tại hạn chế trong thực tiễn áp
dụng quy định đó.
- Đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả quyền sửa bản án sơ thẩm của
Tòa án cấp phúc thẩm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu đã được đặt ra, luận văn tập trung vào các
nhiệm vụ sau:
- Góp phần làm rõ khái niệm chung về thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm
của Tòa án cấp phúc thẩm, rút ra đặc điểm, lịch sử phát triển và so sánh với
pháp luật một số nước trên thế giới.
- Phân tích đánh giá sâu từng trường hợp cụ thể về thẩm quyền sửa bản
án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm

4


- Tìm hiểu thực tiễn thi hành quy định quyền sửa bản án sơ thẩm thông
qua việc tổng hợp số liệu giải quyết và đánh giá một số bản án sơ thẩm bị Tòa
án cấp phúc thẩm sửa.

- Đề ra những giải pháp sửa đổi bổ sung và hoàn thiện quy định pháp
luật về quyền sửa bản án sơ thẩm nói riêng và nâng cao hiệu quả quyền sửa
bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật TTHS
Việt Nam về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm; thực tiễn
thi hành các quy định của BLTTHS về quyền sửa bản án sơ thẩm; các cơng
trình, bài viết liên quan đến đề tài của luận văn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định có liên quan trong lịch sử phát triển
của pháp luật TTHS của nước ta; nghiên cứu pháp luật TTHS của một số
nước trên thế giới, và trọng tâm là nghiên cứu quy định tại Điều 249 của
BLTTHS Việt Nam năm 2003 về quyền sửa bản án sơ thẩm và các quy định
tại các văn bản pháp luật khác có liên quan. Nghiên cứu cụ thể các nội dung
quy định tại Điều 249 trong mối tương quan phù hợp với các văn bản pháp
luật khác như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự v.v.. Đồng thời, luận văn tổng
hợp số liệu và phân tích thực tiễn áp dụng Điều 249 của các Tòa án nhân dân
trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2013.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp quyền. Các giải pháp
luận văn đưa ra được nghiên cứu dựa trên các quan điểm định hướng chỉ đạo
của Đảng và nhà nước ta về cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật
trong giai đoạn hiện nay.

5


5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình
sự như: phân tích, đối chiếu, tổng hợp. Luận văn cũng tiến hành thu thập số
liệu thống kê về thực tiễn xét xử phúc thẩm của TANDTC trong những năm
gần đây, đồng thời so sánh và giải thích những quan điểm khác nhau đối với
các vấn đề có liên quan tới đối tượng nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của luận văn
Đây là luận văn nghiên cứu một cách chuyên sâu về thẩm quyền sửa
bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. Kết quả nghiên cứu của luận văn
có ý nghĩa trong việc góp phần nhận thức đúng đắn, thống nhất về nội dung
của quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. Luận văn đưa ra các
giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn đối với việc hồn thiện pháp luật TTHS
của nước ta trong thời kì mới. Thơng qua việc tổng hợp phân tích số liệu xét
xử phúc thẩm, luận văn đưa ra được một cái nhìn tổng thể về thực tiễn thi
hành quy định về sửa bản án sơ thẩm, góp phần nâng cao hiệu quả thi hành
quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tịa án cấp phúc thẩm. Luận văn
cũng có thể được tham khảo trong việc xây dựng dự án BLTTHS (sửa đổi)
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa
án phúc thẩm.
Chương 2: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tịa án phúc thẩm theo Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa
án phúc thẩm.

6



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM
CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM

1.1. Khái niệm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm
Trong hệ thống pháp luật của nước ta, nguyên tắc “hai cấp xét xử” đã
được đề cập đến ngay trong những văn bản pháp luật đầu tiên là sắc lệnh số
13/SL ngày 24/01/1946, và sau đó lần đầu tiên được chính thức ghi nhận tại
Luật tổ chức TAND năm 1960. Phúc thẩm vụ án hình sự là cấp xét xử thứ
hai đối với vụ án hình sự, có nhiệm vụ trực tiếp xét xử lại hoặc xét lại quyết
định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Phúc thẩm có vai trị rất quan
trọng, một mặt đây là giai đoạn kiểm tra tính hợp pháp của bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật để phát hiện sai sót và kịp thời sửa
chữa, mặt khác thông qua việc xem xét lại để kịp thời bảo vệ các lợi ích của
Nhà nước, xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Nhờ có thủ
tục phúc thẩm, Tịa án cấp sơ thẩm buộc phải thận trọng và tuân thủ nghiêm
các quy định về tính hợp pháp và có căn cứ pháp luật khi ra bản án hoặc
quyết định về vụ án.
Tịa án cấp có thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của nước ta
là Tịa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm, bao gồm: TAND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tòa phúc thẩm TANDTC, Tòa án
quân sự cấp quân khu và Tòa án quân sự trung ương. Theo quy định của pháp
luật TTHS hiện hành, Tòa án cấp phúc thẩm có những quyền hạn nhất định.
Quyền ở đây được hiểu là thẩm quyền, là cái mà luật pháp cho phép đối với
một tổ chức hoặc cá nhân.
Để hiểu khái niệm về Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc

7



thẩm, trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là thẩm quyền của của Tòa án cấp
phúc thẩm. Theo từ điển luật học thì thẩm quyền của Tịa án là “quyền xem
xét để kết luận và định đoạn một vấn đề pháp luật” [27, tr.890]. Như vậy,
thẩm quyền của Tòa án nói chung và thẩm quyền của Tịa án cấp phúc thẩm
nói riêng phải bao gồm 2 yếu tố cần và đủ là “xem xét” và “kết luận, định
đoạt” (quyết định). Hai yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, Tịa án
chỉ có thể kết luận và định đoạt sau khi đã tiến hành xem xét, và sau khi xem
xét phải đưa ra được kết luận và định đoạt thì việc xem xét mới có ý nghĩa.
Tiến sĩ Nguyễn Đức Mai đưa ra khái niệm về thẩm quyền của Tịa án cấp
phúc thẩm là “tồn bộ các quyền hạn mà pháp luật dành cho Tòa án cấp trên
trực tiếp trong việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể về các vụ án hình
sự do các Tòa án cấp dưới xét xử sơ thẩm, mà bản án (quyết định) chưa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”. Theo chúng tôi đây là một
khái niệm tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh.
Khi sửa bản án sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã làm cho một phần
hoặc toàn bộ nội dung và quyết định của bản án sơ thẩm trở nên khác với ban
đầu, hay nói cách khác là làm thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội dung và
quyết định của bản án sơ thẩm. Như vậy có thể rút ra khái niệm: Quyền sửa
bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm là quyền mà pháp luật dành cho
Tòa án cấp trên trực tiếp trong việc xem xét quyết định các vấn đề cụ thể
nhằm làm thay đổi một phần hoặc tồn bộ bản án sơ thẩm của Tịa án cấp
dưới chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
BLTTHS năm 2003 quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:
1. Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:
a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo;
b) Áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;
c) Giảm hình phạt cho bị cáo;

8



d) Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý
vật chứng;
đ) Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ
nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.
2. Nếu có căn cứ, Tịa án cấp phúc thẩm có thể giảm hình
phạt hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn,
chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức
hình phạt tù và cho hưởng án treo cho cả những bị cáo không kháng
cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.
3. Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị
hại kháng cáo u cầu thì Tịa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình
phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; tăng mức
bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc
kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự; nếu có căn cứ, Tịa
án vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự
về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ
nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi
thường thiệt hại [24, Điều 249].
Qua nghiên cứu quy định trên cho thấy quyền sửa bản án sơ thẩm của
Tịa án cấp phúc thẩm có một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được quyền sửa các nội dung của
bản án sơ thẩm có sai sót liên quan đến trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân
sự, hình phạt, điều luật áp dụng đối với bị cáo, xử lý vật chứng, không sửa
các sai sót liên quan đến thủ tục tiến hành tố tụng. Điều này xuất phát từ lý
do các sai sót về thủ tục tố tụng là sai sót ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền,
lợi ích chính đáng của đương sự và bị cáo, làm cho quá trình xác định sự
thật của vụ án khơng khách quan tồn diện và đầy đủ. Sai sót về thủ tục tố


9


tụng là những gì đã xảy ra khơng thể lặp lại được nên không thể sửa lại
được. Nếu không sai lầm vi phạm nghiêm trọng thì chỉ rút kinh nghiệm, rút
ra bài học, nếu là sai lầm, vi phạm nghiêm trọng thì chỉ có thể hủy bản án sơ
thẩm để điều tra hoặc xét xử lại.
Thứ hai, phạm vi quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
được quy định theo hướng mở rộng quyền sửa bản án theo hướng có lợi cho
bị cáo, hạn chế quyền sửa bản án theo hướng bất lợi hơn cho bị cáo.
Hầu như tất cả các vấn đề liên quan tới trách nhiệm hình sự và hình
phạt đối với bị cáo Tịa án cấp phúc thẩm đều có thể xem xét và sửa theo
hướng có lợi cho bị cáo. Điều kiện để Tòa án phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo
hướng này được quy định khá mở rộng nhưng cũng không quá lỏng lẻo để
tránh việc biến cấp phúc thẩm trở thành cấp sơ thẩm thứ hai. Ngoài yêu cầu
chung là có kháng cáo kháng nghị (kể cả kháng cáo, kháng nghị theo hướng
khơng có lợi cho bị cáo) thì khơng có bất kì một hạn chế nào khác trong q
trình chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa phúc thẩm.
Ngoại trừ trường hợp miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt và
trường hợp giảm mức bồi thường thiệt hại, các trường hợp khác Tòa án phúc
thẩm đều xem xét và áp dụng đối với cả bị cáo không kháng cáo hoặc không
bị kháng cáo kháng nghị. Điều 241 BLTTHS quy định nguyên tắc, “Toà án
cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị”, tuy nhiên “nếu xét
thấy cần thiết thì tồ án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị
kháng cáo, kháng nghị của bản án”. Điều 241 BLTTHS không quy định thế
nào là trường hợp “cần thiết” và hiện nay cũng chỉ có Thơng tư liên ngành số 01TANDTC-VKSNDTC/TTLN ngày 08/12/1988 của TANDTC và VKSNDTC
hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS giải thích “trường hợp
cần thiết là trường hợp ở phần không bị kháng cáo hoặc kháng nghị có điểm
cần được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo”. Một điểm nữa là Tòa án


10


có thể xem xét sửa bản án sơ thẩm có lợi cho cả bị cáo bị kháng cáo, kháng
nghị theo hướng tăng nặng.
Đối với việc sửa bản án theo hướng khơng có lợi cho bị cáo, Khoản 3
Điều 249 BLTTHS 2003 quy định rất rõ ràng về giới hạn Tòa án phúc thẩm
chỉ được sửa tăng nặng ba vấn đề, đó là: Tăng hình phạt, áp dụng điều khoản
Bộ luật hình sự về tội nặng hơn và tăng mức bồi thường thiệt hại. Điều kiện
để được sửa theo hướng này cũng bị ràng buộc với nhiều yêu cầu chặt chẽ
hơn như: Nội dung kháng cáo, kháng nghị phải có yêu cầu Tịa án xem xét
tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn hoặc tăng
mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo; Trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa
phúc thẩm, người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát không được thay đổi nội
dung kháng cáo kháng nghị làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; Mặt khác nếu
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo kháng nghị vắng mặt tại phiên tịa có
lý do chính đáng thì Tịa án có thể vẫn tiến hành xét xử nhưng khơng được ra
bản án hoặc quyết định khơng có lợi cho bị cáo hoặc đương sự vắng mặt. Đặc
biệt, Tòa án phúc thẩm không xem xét tăng nặng đối với bị cáo khơng có
kháng cáo hoặc khơng bị kháng cáo kháng nghị. Quy định trên buộc người
kháng cáo hoặc Viện kiểm sát phải thận trọng trong việc kháng cáo hoặc
kháng nghị, buộc Tòa án cấp phúc thẩm phải thận trọng trong việc quyết định
sửa án sơ thẩm theo hướng bất lợi.
Thứ ba, Tịa án cấp phúc thẩm khơng sửa bản án sơ thẩm từ tun bố bị
cáo khơng có tội thành có tội. Xuất phát từ nguyên tắc chung là “bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”, việc Tòa án cấp phúc
thẩm sửa bản án sơ thẩm tun bố bị cáo khơng có tội thành có tội sẽ làm mất
đi quyền bào chữa và quyền kháng cáo của bị cáo đối với tội danh mới bị
tuyên trong bản án phúc thẩm.


11


Tóm lại, quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm là một quy định rất
quan trọng. Tòa án cấp phúc thẩm làm thay đổi các nội dung của bản án hình
sự sơ thẩm có sai sót để kịp thời sửa chữa khắc phục sai lầm trong công tác
xét xử, kịp thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và đương
sự, đồng thời góp phần hạn chế tình trạng oan sai trong xử lý hình sự.
1.2. Điều kiện làm phát sinh quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án
phúc thẩm
Điều kiện làm phát sinh quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc
thẩm chính là có kháng cáo hoặc kháng nghị hợp pháp theo thủ tục phúc thẩm
đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Kháng cáo là việc những người tham gia tố tụng do pháp luật tố tụng quy
định đề nghị Toà án cấp trên trực tiếp xét lại bản án và quyết định của tòa án cấp
sơ thẩm đang trong thời hạn kháng cáo nhằm bảo đảm cho họ có điều kiện bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tịa án xử lí vụ án [13, tr.192].
Theo quy định tại Điều 231 BLTTHS và Nghị quyết số 05/2005/NQHĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi
hành một số quy định trong phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của BLTTHS,
chủ thể có quyền kháng cáo gồm có: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị
cáo; người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại; nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ; người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan và người đại diện hợp pháp của họ; người được Tồ án
tun bố là khơng có tội có quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã
tuyên là họ khơng có tội. Thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 234
BLTTHS: Đối với những người có mặt tại phiên tòa là 15 ngày, kể từ ngày
tuyên án; Đối với những người vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày, kể từ ngày
bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
Kháng nghị là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện việc


12


phản đối toàn bộ hay một phần nội dung bản án, quyết định của Tồ án với mục
đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, cơng bằng đồng thời sửa chữa
những sai lầm trong bản án, quyết định sơ thẩm của Tồ án [27, tr.418]. Chủ thể
có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật là Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cùng cấp hoặc Viện
kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp với Toà án đã ra bản án sơ thẩm. Thời hạn
kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
1.3. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2003
về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm
Lịch sử pháp luật TTHS nước ta trong từng giai đoạn có những quy
định khác nhau về quyền sửa bản án sơ thẩm.
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960
Ngay sau khi giành được chính quyền, đáp ứng nhu cầu cấp bách của
xã hội, nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật như: Sắc lệnh số
33c/SL ngày 13/9/1945, sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946, sắc lệnh 51/SL
ngày 17/4/1946.... quy định việc thành lập Tòa án quân sự và thẩm quyền xét
xử của Tòa án quân sự. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 và sắc lệnh số 51
ngày 17/4/1946 nêu rõ việc phân định thẩm quyền của Tòa án qn sự, trong
đó đối với các vụ án hình sự thì Tịa án sơ cấp vừa có thẩm quyền xử sơ thẩm
và chung thẩm, Tịa án đệ nhị cấp có thẩm quyền xử chung thẩm những án vi
cảnh của Tòa án sơ cấp bị kháng cáo, Tịa thượng thẩm có thẩm quyền xử
chung thẩm những án kháng cáo sơ thẩm của Tòa đệ nhị cấp.
Riêng đối với các vụ án phản cách mạng hoặc vụ án thuộc thẩm quyền
của Tòa án qn sự thì giai đoạn 1946 - 1957 khơng xét xử đến cấp thứ hai,
bản án sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật và được thi hành ngay (sắc lệnh số

21/SL ngày 14/02/1946 và sắc lệnh số 156/SL ngày 17/11/1950).

13


Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hịa bình lập lại ở miền Bắc, Thủ tướng
Chính phủ ra nghị định số 300/TTg ngày 14/8/1959 thiết lập lại hệ thống Tòa
án, và khi đó Tịa án cấp phúc thẩm được chia tại 3 khu vực: Tại Hà Nội, Hải
Phịng và Vinh, có nhiệm vụ xét xử lại các vụ án hình sự sơ thẩm bị kháng
cáo kháng nghị. Sau Nghị định 331/TTg ngày 20/10/1959, TAND tách khỏi
Bộ tư pháp và Tòa án tối cao được thành lập “có nhiệm vụ xét xử phúc
thẩm.... những vụ án do tòa án cấp dưới xét xử trong trường hợp có kháng
nghị của cơ quan cơng tố”.
Với đặc điểm tình hình đất nước có chiến tranh, bị chia cắt hai miền
Nam Bắc nên trong giai đoạn này có khá nhiều văn bản pháp luật về TTHS
được ban hành, tuy nhiên chủ yếu là các văn bản điều chỉnh về thiết lập và
hồn thiện hệ thống Tịa án nhân dân và thẩm quyền chung của các Tòa án.
Hệ thống văn bản TTHS khơng có quy định nào xác định cụ thể khi xét xử
phúc thẩm thì Tịa án cấp phúc thẩm có thẩm quyền sửa đổi nội dung gì của
bản án sơ thẩm.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1988
Luật tổ chức TAND 1960 ra đời, sau đó là Pháp lệnh tổ chức
TANDTC, Pháp lệnh tổ chức TAND địa phương, Điều lệ tổ chức của Tòa án
các cấp trong khu tự trị Việt Bắc và Tây Bắc. Điều 9 Luật tổ chức TAND
1960 quy định rõ “Tòa án nhân dân thực hành chế độ hai cấp xét xử”, trên cơ
sở đó nhà nước ban hành nhiều văn bản có quy định về phúc thẩm trong
TTHS.
Thơng tư 03/NCPL ngày 19/5/1967 của TANDTC là văn bản đầu tiên
quy định về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc xét lại bản án sơ
thẩm có kháng cáo kháng nghị. Theo đó Tịa án cấp phúc thẩm có quyền xem

xét lại toàn bộ nội dung vụ án, kể cả đối với người khơng có kháng cáo hoặc
kháng nghị. Thơng tư này đã đáp ứng được địi hỏi cấp thiết trong hoàn cảnh

14


pháp luật tố tụng nước ta cịn thiếu và có tác dụng giúp công tác xét xử phúc
thẩm tiến hành thuận lợi, nhưng qua một thời gian áp dụng đã bộc lộ nhược
điểm là làm cho công tác xét xử phúc thẩm trở nên nặng nề. Rút kinh nghiệm,
TANDTC đã ban hành thông tư số 19-TATC ngày 02/10/1974 kèm theo bản
hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự, quy định đầy đủ và hợp lý
hơn về thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm trong việc xét lại bản án sơ thẩm.
Về quyền sửa bản án sơ thẩm, thông tư đã quy định rất rõ ràng và cụ
thể. Các quyền mà Tịa án cấp phúc thẩm có thể sửa bản án bao gồm: Tòa án
cấp phúc thẩm có thể tha miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo; Về hình phạt:
Có thể tha miễn hình phạt cho bị cáo, giảm hình phạt cho bị cáo nếu nhận
định bản án sơ thẩm đã tuyên hình phạt quá nặng; Về tội danh: Có thể tun
bố bị cáo vơ tội nếu xét thấy bản án sơ thẩm kết tội bị cáo khơng có căn cứ, có
thể xác định lại tội danh nhẹ hơn so với tội danh Tòa án sơ thẩm đã tuyên.
Trong vụ án có cộng phạm có thể giải quyết cả cho bị cáo khác tuy khơng có
kháng cáo kháng nghị.
Tòa án được sửa bản án theo hướng làm bất lợi cho bị cáo với các
trường hợp: có thể kết tội và tuyên hình phạt đối với bị cáo đã được bản án sơ
thẩm tuyên vô tội hoặc tha miễn trách nhiệm hình sự, tha miễn hình phạt; có
thể xử tội danh nặng hơn, tăng nặng hình phạt. Đối với bị cáo không kháng
cáo hoặc không bị kháng nghị về phần hình phạt thì vấn đề sửa bản án sơ
thẩm theo hướng nặng hơn không đặt ra. Tuy nhiên Tịa án cấp phúc thẩm vẫn
có thể sửa tội danh và hình phạt trong một số trường hợp cụ thể như: có thể
xử tội danh nặng hơn nếu tại phiên tịa chính bị cáo cũng thừa nhận tội danh
nặng hơn, có thể bổ sung thêm hình phạt phụ vào hình phạt chính mà hình

phạt chính vẫn được giữ ngun v.v.. Ngồi ra cũng có thể sửa về bồi thường
thiệt hại và xử lý tang vật [31, tr. 224-227].

15


1.3.3. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003
Bộ luật TTHS 1988 ra đời trong giai đoạn đầu của thời kì đổi mới, đánh
dấu bước ngoặt quan trọng. Đây là Bộ luật đầu tiên quy định cụ thể, chi tiết
thẩm quyền của Tịa án, trình tự tố tụng trong xét xử vụ án hình sự, trong đó
có quy định chi tiết về các trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ
thẩm tại Điều 221. Điều luật quy định rất rõ ràng hai trường hợp Toà án cấp
phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm, cụ thể:
1-Tồ án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:
a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt cho bị cáo;
b) Áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;
c) Giảm hình phạt cho bị cáo;
d) Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý
vật chứng.
2- Nếu có căn cứ, Tồ án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt
hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn cho cả
những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.
3- Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị
hại kháng cáo yêu cầu thì Tồ án cấp phúc thẩm có thể tăng hình
phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; tăng mức
bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc
kháng cáo của người bị hại, ngun đơn dân sự; nếu có căn cứ, Tồ
án vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự
về tội nhẹ hơn và giảm mức bồi thường thiệt hại [23, Điều 221].
BLTTHS 1988 sau đó đã được sửa đổi bổ sung ba lần (tháng 7/1990,

tháng 12/1992 và tháng 6/2000) và đến năm 2003 BLTTHS mới được ban
hành. Mặc dù quá trình thi hành Bộ luật cũ đã nảy sinh nhiều vướng mắc bất
cập, nhưng về cơ bản quyền sửa bản án sơ thẩm tại BLTTHS năm 2003 vẫn

16


được quy định trên cơ sở kế thừa quy định tại BLTTHS năm 1988, gần như
không thay đổi nhiều, chỉ bổ sung thêm trường hợp: “chuyển sang hình phạt
khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo”.
Nhìn lại quá trình phát triển của pháp luật TTHS nước ta từ năm 1945
đến năm 2003 có thể thấy rõ sự linh hoạt trong việc lựa chọn xu hướng điều
chỉnh thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm trong từng thời kì. Giai đoạn 19671974, thực hiện theo thơng tư số 03-NCPL ngày 19/5/1967, Tịa án cấp phúc
thẩm có quyền xem xét lại tồn bộ vụ án và xem xét đối với cả người không
kháng cáo hoặc bị kháng nghị. Sau khi thông tư 19-TATC ngày 02/10/1974
ra đời thì thẩm quyền của Tịa án phúc thẩm được điều chỉnh thu hẹp, chỉ
xem xét lại vụ án trong phạm vi kháng cáo kháng nghị yêu cầu, có mở rộng
xem xét theo hướng có lợi đối với bị cáo đồng phạm khác tuy khơng có
kháng cáo kháng nghị.
Xét xử phúc thẩm là giai đoạn thể hiện rõ nét nhất tính nhân đạo của
chính sách hình sự, có nhiệm vụ kịp thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị
cáo, vì vậy việc hạn chế làm xấu hơn tình trạng của bị cáo là điều cần thiết.
Ngày nay, nguyên tắc này được ghi nhận trong pháp luật TTHS của nhiều
quốc gia và được coi là một yêu cầu đặc trưng của thủ tục phúc thẩm trong
TTHS. Quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm trong pháp luật TTHS của
nước ta từ năm 1960 trở lại đây và nhất là quy định tại BLTTHS năm 2003
cũng chịu ảnh hưởng và được phát triển dựa trên nguyên tắc trên.
1.4. Quyền sửa bản án sơ thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự một
số nước trên thế giới
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, pháp luật của các nước trên thế giới quy

định thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm theo hai xu hướng. Một số
nước điều chỉnh mở rộng thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm (phúc thẩm mở
rộng), ngược lại một số nước lại điều chỉnh thu hẹp thẩm quyền này (phúc

17


thẩm thu hẹp). Phúc thẩm mở rộng không hạn chế quyền xem xét quyết định của
Tòa án cấp phúc thẩm đối với bản án bị kháng cáo kháng nghị theo bất cứ hướng
nào. Ngược lại, phúc thẩm thu hẹp hạn chế phạm vi xem xét kháng cáo kháng
nghị để không biến cấp phúc thẩm thành cấp sơ thẩm thứ hai [5, tr. 39-42]. Mỗi
xu hướng đều có những ưu nhược điểm riêng, việc các quốc gia lựa chọn xu
hướng điều chỉnh nào đều phải căn cứ vào chế độ chính trị, mơ hình tố tụng
và chính sách hình sự của quốc gia mình. Qua nghiên cứu cho thấy dù đi theo
xu hướng nào, quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc
thẩm trong pháp luật TTHS của đa số các nước đều có đặc trưng là khơng
được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo và mở rộng quyền sửa bán án sơ thẩm
theo hướng có lợi cho bị cáo.
Luật TTHS của nước Cộng hịa nhân dân Trung hoa, được Đại hội Đại
biểu nhân dân tồn quốc thơng qua ngày 01 tháng 7 năm 1979, và được sửa
đổi theo Quyết định sửa đổi Luật TTHS của nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa ngày 17 tháng 3 năm 1996 (sau đây gọi là luật TTHS Trung Quốc). Luật
TTHS của Trung Quốc có cấu trúc tương tự như luật TTHS của Việt Nam,
cũng quy định nguyên tắc hai cấp xét xử. Đây là Bộ luật điển hình cho xu
hướng điều chỉnh mở rộng thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc
xem xét bản án sơ thẩm.
Khi vụ án có kháng cáo hoặc bị kháng nghị thì:
Tồ án cấp phúc thẩm phải tiến hành xem xét tồn diện các
tình tiết và áp dụng pháp luật trong bản án sơ thẩm và không được
giới hạn phạm vi kháng cáo, kháng nghị. Nếu chỉ có một số bị cáo

trong vụ án đồng phạm kháng cáo thì vẫn xem xét giải quyết toàn
bộ vụ án [42, Điều 186].
Đối với thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm,
Khoản 2, 3 Điều 189 quy định:

18


×