Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quản lý kinh tế của cơ quan nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.46 KB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN CƢƠNG

QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA CƠ QUAN NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ

CHUYÊN NGÀNH:
MÃ SỐ:

LUẬT KINH TẾ

60105

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN AM HIỂU

HÀ NỘI - 2004

-1-


LỜI CẢM ƠN
Qua đây, Tôi xin được gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới Tiến sỹ
Nguyễn Am Hiểu, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tơi
hồn thành Luận văn này. Cảm ơn tập thể cán bộ, giảng viên Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

-2-




MỤC LỤC
Phần mở đầu

01

1-

Tính cấp thiết của đề tài

01

2-

Tình hình nghiên cứu

03

3-

Mục đích nghiên cứu

05

4-

Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu

06


5-

Đối tượng nghiên cứu

07

6-

Phương pháp nghiên cứu

07

7-

Đóng góp khoa học

08

8-

Kết cấu của luận văn

08

Chƣơng 1: Tổng quan về quản lý nhà nƣớc
đối với doanh nghiệp nhà nƣớc
1-

Khái niệm doanh nghiệp nhà nƣớc


1.1- Doanh nghiệp nhà nước
1.2

10
10

Các loại hình doanh nghiệp nhà nước

1.3- Vai trò của DNNN trong nền kinh tế Việt Nam
2-

10

Quản lý nhà nƣớc đối với DNNN

2.1- Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước

14
15
17
17

2.2

Quản lý nhà nước đối với DNNN

21

3-


Phân biệt hoạt động quản lý DNNN
và hoạt động quản trị DNNN

28

3.1

So sánh về chủ thể:

29

3.2

So sánh về đối tượng:

29

3.3- So sánh về mục tiêu:

30

3.4

So sánh về hình thức quản lý

4-

Phân biệt chức năng quản lý về kinh tế của Nhà nƣớc
32

và chức năng quản lý của chủ sở hữu nhà nƣớc đối với DNNN

30

Kết luận chƣơng 1

35

Chƣơng 2: Thực trạng quản lý nhà nƣớc

36

-3-


đối với doanh nghiệp nhà nƣớc
1-

Quản lý nhà nƣớc đối với DNNN

37

1.1

Thành lập doanh nghiệp nhà nước

37

1.2


Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước

40

1.3

Tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước

49

1.4

Giải thể doanh nghiệp nhà nước

57

1.5

Phá sản doanh nghiệp nhà nước

58

2-

Quyền chủ sở hữu của Nhà nƣớc
đối với các doanh nghiệp nhà nƣớc

62

2.1


Thẩm quyền

62

2.2

Cơ chế cơ quan chủ quản đối với doanh nghiệp nhà nước

64

2.3

Thực hiện chức năng chủ sở hữu DNNN của Bộ Tài chính

2.4

Đại diện trực tiếp chủ sở hữu của tại doanh nghiệp nhà nước

72
74

Kết luận chƣơng 2

80

Chƣơng 3: Những giải pháp và kiến nghị

86


1-

Những giải pháp

87

1.1

Nhà nước thực hiện quyền sở hữu đối với DNNN
thông qua việc các tổ chức kinh doanh vốn nhà nước

87

1.2

Sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước

90

1.3

Thực hiện các biện pháp làm lành mạnh hố
tài chính doanh nghiệp nhà nước

93

1.4

Cổ phần hố, đa dạng hố sở hữu DNNN


94

1.5

Phân cơng, phân cấp thực hiện quyền, nghĩa vụ
của chủ sở hữu nhà nước

101

1.6

Công ty hố doanh nghiệp nhà nước

102

2-

Kiến nghị

104

2.1

Hồn thiện chức năng đại diện sở hữu của Nhà nước

2.2

Quản lý bằng pháp luật đối với doanh nghiệp nhà nước

105


2.3

Xây dựng củng cố các tổng cơng ty theo hướng
hình thành các tập đồn kinh tế

106

2.4

Đổi mới hoạt động của các cơ quan

108

-4-

104


hoạch định và thực thi chính sách
Kết luận chƣơng 3

110

Kết luận chung

111

Tài liệu tham khảo


116

-5-


Những từ viết tắt trong luận văn

DNNN:

DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

XHCN:

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

DN:

DOANH NGHIỆP

TNHH:

TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN

HĐQT:

Hội đồng quản trị

LUẬT DNNN 1995: LUẬT DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC ĐƯỢC QUỐC
HỘI THÔNG QUA NGÀY 20/4/1995.
LUẬT DNNN SỬA ĐỔI 2003: LUẬT DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (SỬA

ĐỔI) ĐƯỢC QUỐC HỘI THÔNG QUA NGÀY 26/11/2003

-6-


PHẦN MỞ ĐẦU

1-

Tính cấp thiết của đề tài:

Chuyển đổi nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương lớn của Đảng ta, chủ trương này đã được
Nhà nước thể hoá thành các qui định của pháp luật, trong đó phải kể đến đó là
Hiến pháp 1992 (sửa đổi), văn bản luật có giá trị và hiệu lực pháp lý cao nhất
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Thực hiện chủ trương này, địi hỏi phải có
sự nỗ lực, cố gắng trong toàn bộ hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước, hệ
thống kinh tế - xã hội và cơ chế quản lý kinh tế.
Kể từ khi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thừa nhận và
xây dựng ở Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam nói chung đã có những nét khởi sắc
đáng phấn khởi, nhưng bên cạnh đó cũng đã bộc lộ khá nhiều những điểm bất
cập trong cách thức quản lý nền kinh tế nói chung và kinh tế nhà nước nói riêng.
Quản lý đối với DNNN là một trong những bất cập nổi cộm nhất đang được
Đảng, Chính phủ và các nhà nghiên cứu khoa học tập trung giải quyết.
Sự bất cập trong quản lý DNNN thể hiện ở các mặt: chưa tạo được một cơ chế
quản lý hợp lý đối với DNNN để đảm bảo hiệu quả kinh doanh của DNNN; cơ
chế quản lý DNNN chưa thực sự gắn doanh nghiệp với thị trường, vẫn cịn tình
trạng cơ quan Nhà nước bao cấp, can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh
của DNNN; chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý DNNN với tư
cách chủ sở hữu chưa được phân biệt rõ ràng, chưa tìm ra được thực thể thực

hiện chức năng của chủ sở hữu DNNN một cách hiệu quả; tư cách pháp lý của
DNNN trên lý thuyết và thực tế còn nhiều điểm khác biệt cần phải được làm rõ
v.v…
Những mặt chưa hợp lý nêu trên đã dẫn tới một thực trạng tất yếu, thể hiện ở sự
yếu kém trong hoạt động kinh doanh của DNNN, hiệu quả sử dụng vốn Nhà
nước không cao, nhiều DNNN không thể đứng vững trong cơ chế thị trường nếu

-7-


khơng có sự hỗ trợ của Nhà nước, tính cạnh tranh của DNNN với các doanh
nghiệp khác không cao v.v… Trước thực trạng trên, Hội nghị lần thứ ba Ban
chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) đã ra Nghị quyết về tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của DNNN. Đây là một cơ sở
vô cùng quan trọng, mở ra công cuộc cải cách mạnh mẽ đối với quản lý DNNN
trong điều kiện hiện nay. Với những nội dung mới mẻ trong Nghị quyết, khơng
ít những ý tưởng khoa học được phát kiến nhằm thay đổi, cải thiện cách thức
quản lý của Nhà nước đối với DNNN, nhưng xem ra đến nay vẫn chưa tìm được
lời giải cuối cùng.
Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước được xác định nhằm thực hiện nhiệ m
vụ chiến lược “xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, chức năng này được
mỗi cơ quan trong hệ thống cơ quan nhà nước triển khai thực hiện trên cơ sở
thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật qui định. Điều 12 Hiến pháp
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam qui định “Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật”, và trong quản lý DNNN nguyên tắc này cũng được quán triệt
và áp dụng. Quản lý đối với DNNN là một trong những chức năng quản lý kinh
tế của Nhà nước, nó thể hiện thái độ của Nhà nước đối với loại hình doanh
nghiệp đặc biệt này. Hiến pháp 1992 (sửa đổi) xác định “kinh tế Nhà nước phải
được củng cố và phát triển, nhất là trong các ngành và lĩnh vực then chốt, giữ
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là lực lượng vật chất quan trọng và là

công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế…”, thực hiện
nguyên tắc hiến định, Luật DNNN năm 1995 và gần đây là Luật DNNN sửa đổi
2003 đã được ban hành thể chế hoá đường lối, chủ trương phát triển kinh tế nhà
nước thành các qui định cụ thể áp dụng trong thực tiễn, với mục đích “Để phát
huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của DNNN; tăng cường

-8-


quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp; thúc đẩy DNNN hoạt động có hiệu quả
và thực hiện đúng các mục tiêu do Nhà nước giao cho doanh nghiệp”.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước không thể
áp dụng cơ chế quản lý đối với DNNN như trước đây (trong nền kinh tế kế
hoạch hố tập trung), sẽ khơng cịn việc Nhà nước lập và giao kế hoạch sản xuất
kinh doanh, thậm chí chỉ định cả đầu ra và can thiệp vào hầu hết các hoạt động
sản xuất kinh doanh của từng DNNN v.v… Đồng thời, trong nền kinh tế thị
trường, các DNNN không thể còn những “đặc quyền, đặc lợi” như trước đây, mà
phải tự chịu trách nhiệm về các quyết định kinh doanh, hiệu quả kinh doanh
trong mơi trường kinh doanh hồn tồn mới, bình đẳng với các doanh nghiệp
khác. Với trách nhiệm lớn lao đó, DNNN có quyền địi hỏi “quyền tự chủ trong
sản xuất, kinh doanh”, những bức xúc này địi hỏi phải có sự nghiên cứu về hệ
thống về chức năng quản lý kinh tế của cơ quan Nhà nước đối với DNNN, qua
đó đề xuất những giải pháp khắc phục và đây chính là những câu hỏi lớn mà các
DNNN đặt ra trước cơ chế quản lý đối với DNNN hiện hành, các lý do này
chính là động lực thúc đẩy tác giả quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu này.
2-

Tình hình nghiên cứu


Thời gian qua, đã có nhiều đề tài nghiên cứu có nội dung liên quan đến Luận
văn như đề tài “Thể chế, chính sách của Nhà nước đối với DNNN trong giai
đoạn hiện nay” của tập thể tác giả do PGS. TS Nguyễn Cúc làm chủ biên; đề tài
“Cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc so sánh với Việt Nam” của các
tác giả TS. Võ Đại Lược và TS. Cốc Nguyên Dương. Tuy nhiên, các đề tài này
nghiên cứu ở khía cạnh kinh tế là chủ yếu, vì vậy những biện pháp đưa ra để giải
quyết chỉ dừng lại ở các tác động kinh tế mà chưa có những giải pháp mang tính
pháp lý. Bên cạnh đó cũng có những đề tài chỉ nghiên cứu mối quan hệ giữa cơ
quan quản lý nhà nước với một mơ hình doanh nghiệp cụ thể như tổng công ty
91 như đề tài “Cơ chế quản lý kinh tế đối với tổng công ty 91” của tác giả Trần
Đình Hoan; đề tài “Thực trạng quản lý của các DNNN hoạt động cơng ích” của

-9-


tác giả Đỗ Nguyên Khôi... những đề tài này tiếp cận cơ chế quản lý DNNN ở
phạm vi hẹp, đối tượng khảo sát nhỏ, do vậy không thấy được những hạn chế
chung trong mối quan hệ quản lý giữa Nhà nước và DNNN nói chung.
Đề tài được nghiên cứu trong bối cảnh Nhà nước ta đang tiến hành một loạt các
biện pháp nhằm đổi mới cơ chế quản lý với nền kinh tế và trong đó đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế với DNNN là một nội dung. Trước mắt, chúng ta đã thu
được một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận trong việc áp dụng các giải pháp
như sắp xếp lại DNNN; các biện pháp nhằm lành mạnh hố tài chính DNNN; cổ
phần hố, đa dạng hố sở hữu DNNN, chuyển DNNN sang hoạt động theo Luật
Doanh nghiệp; tiếp tục tạo lập môi trường kinh tế vĩ mơ thuận lợi cho DNNN
hoạt động. Song bên cạnh đó cũng xuất hiện nhiều hiện tượng như vấn đề hiệu
quả, chất lượng hoạt động của DNNN, mức độ tự chủ của DNNN trong mối
quan hệ với cơ quan quản lý Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu, … thậm chí
ngay trong những giải pháp mà Nhà nước đang áp dụng cũng nảy sinh nhiều vấn

đề như hậu cổ phần hố, mơ hình Tổng Cơng ty, mơ hình Cơng ty mẹ - con, và
những bất cập trong Luật DNNN 1995 và thậm chí trong Luật DNNN sửa đổi
2003. Trong tình hình đó, địi hỏi các nhà nghiên cứu, các chuyên gia tiếp tục
nghiên cứu để tìm ra giải pháp hợp lý nhằm giải quyết vấn đề.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những kết quả nghiên cứu
về chức năng quản lý Nhà nước đối với kinh tế của các nghiên cứu trước đó,
khảo sát cơ chế quản lý kinh tế của cơ quan Nhà nước đối với DNNN, môi
trường pháp lý hiện hành cũng như những xu hướng đổi mới cơ chế quản lý đối
với DNNN. Bên cạnh đó luận văn cịn sử dụng những số liệu về thực trạng các
DNNN đang tồn tại, về ảnh hưởng của việc thực hiện chức năng quản lý kinh tế
đối với DNNN, những ý kiến, kiến nghị của chính các DNNN về cơ chế quản lý
kinh tế với mình, từ đó rút ra những nhận xét về mặt pháp lý đối với những vấn
đề xem xét, đồng thời đưa ra những kiến nghị, giải pháp bước đầu nhằm hoàn
thiện cơ chế quản lý kinh tế của cơ quan Nhà nước đối với DNNN, phục vụ cho

- 10 -


mục tiêu “Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để DNNN kinh doanh tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác theo pháp luật.” [tr.56; 17].
Đề tài được nghiên cứu trong giai đoạn Luật DNNN 1995 đang được lấy ý kiến
của đông đảo doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong xã hội trước khi trình Quốc
hội xem xét và thơng qua, vì vậy có rất nhiều các luồng ý kiến, quan điểm khác
nhau về DNNN đặc biệt là cơ chế quản lý đối với DNNN trong tương lai.
Một đặc điểm nữa mà đề tài gặp phải trong q trình nghiên cứu đó là giai đoạn
giao thời giữa Luật DNNN 1995 đang có hiệu lực và Luật DNNN sửa đổi năm
2003 sắp có hiệu lực. Những hạn chế, lỗi thời trong các qui định của Luật
DNNN 1995 đã được bộc lộ rõ nét, cịn tính tiến bộ của các qui định trong Luật
DNNN sửa đổi 2003 lại chưa qua thử nghiệm. Chính vì vậy, trong Luận văn sẽ

trình bày trên cơ sở tìm hiểu, phân tích cả Luật DNNN 1995 và cập nhật những
nội dung mới của Luật DNNN sửa đổi. Tuy nhiên việc đánh giá, khảo sát, phê
phán cơ chế quản lý DNNN chủ yếu sẽ dựa vào Luật DNNN 1995 đang còn hiệu
lực và những kết luận rút ra sẽ được so sánh với những qui định của Luật
DNNN sửa đổi 2003.
3-

Mục đích nghiên cứu:

Trước sự khơng hợp lý và chưa tìm ra con đường đúng đắn phải đi, các DNNN
hiện nay đang phải bươn trải, mò mẫn trong một hệ thống các qui định của pháp
luật về DNNN. Hạn chế lớn nhất của hệ thống này là sự vi phạm nguyên tắc độc
lập của DNNN (một thực thể kinh doanh độc lập), chưa tìm ra được thực thể độc
lập và cụ thể để thực hiện vai trò chủ sở hữu của DNNN trong nền kinh tế mới –
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính những hạn chế này đã
buộc các cơ quan quản lý Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu DNNN
phải tạo ra các qui định mang nặng tính thủ tục, rườm rà, phức tạp trong quá
trình quản lý DNNN nhằm dễ bề thực hiện chức năng quản lý mà quên đi một

- 11 -


yêu cầu quan trọng đối với một thực thể kinh doanh, đó là hiệu quả kinh doanh
và lợi nhuận mang lại.
Mục đích nghiên cứu của luận văn được xác định nhằm làm rõ các nội dung
dưới đây:
- Mục tiêu quản lý của cơ quan nhà nước đối với DNNN thông qua hệ
thống pháp luật về DNNN với tư cách là chủ sở hữu và cơ quan quản lý
nhà nước thực hiện chức năng quản lý đối với DNNN.
- Đánh giá hệ thống pháp luật về DNNN thơng qua phân tích, so sánh các

chế định của pháp luật hiện hành với hệ thống các mục tiêu, mục đích đặt
ra trong quản lý DNNN.
- Trên cơ sở đánh giá, phân tích thực trạng quản lý đối với DNNN và
những đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường đối với doanh
nghiệp, trong đó có DNNN, để đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
hệ thống pháp luật về DNNN.
4-

Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu:

Với mục đích nêu trên, đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu chức năng quản lý
kinh tế của Nhà nước đối với DNNN thông qua hệ thống pháp luật hiện hành
điều chỉnh cơ chế quản lý DNNN. Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới
hạn trong các mối quan hệ:
- Thứ nhất: mối quan hệ quản lý giữa Nhà nước thông qua các cơ quan nhà
nước cụ thể và doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ,
thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo qui định của Luật
DNNN sửa đổi năm 2003 (sau đây sẽ gọi là doanh nghiệp nhà nước).
- Thứ hai: mối quan hệ giữa chủ sở hữu Nhà nước thông qua các cơ quan
Nhà nước cụ thể và DNNN do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ,
thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo qui định của của Luật
DNNN sửa đổi năm 2003.

- 12 -


Trong luận văn, DNNN được xem xét và nghiên cứu theo nghĩa hẹp, là
doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức
quản lý, đăng ký hoạt động theo qui định của Luật Doanh nghiệp nhà
nước sửa đổi năm 2003 (Theo Luật DNNN sửa đổi năm 2003, chúng

được gọi là công ty nhà nước).
Luận văn được lựa chọn và thực hiện nhằm vào hai nhiệm vụ chính: phục vụ
học tập nghiên cứu khoa học và phục vụ công tác chuyên môn của tác giả.
5-

Đối tượng nghiên cứu

Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước đối với DNNN được Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt ra nhằm thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây
dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu đó
Nhà nước phải có một thực lực về kinh tế đủ mạnh để có thể hướng nền kinh tế
theo mục tiêu đã chọn. Trong giai đoạn hiện nay, để nâng cao hiệu quả của nền
kinh tế quốc dân, Nhà nước tiếp tục nâng cao vai trị của mình trong cơng tác
quản lý kinh tế. Trong đó quản lý DNNN giữ vai trị quyết định để định hướng
tồn bộ nền kinh tế, vì vậy, Nhà nước phải có những giải pháp quản lý thích hợp
nhằm thực hiện chức năng này. Với những đòi hỏi trên, tác giả đã đi sâu vào
nghiên cứu mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước có chức năng quản lý kinh tế
đối với DNNN để xác định vị trí các chủ thể, nội dung, bản chất mối quan hệ, từ
đó liên hệ với thực trạng mối quan hệ này và đề xuất giải pháp trên cơ sở thoả
mãn hai điều kiện: tạo cơ chế để DNNN hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế
thị trường, đồng thời đảm bảo tính định hướng của Nhà nước đối với DNNN.
Khách thể nghiên cứu trong luận văn chính là hệ thống các cơ quan nhà nước có
chức năng quản lý kinh tế và DNNN theo nghĩa hẹp.
Đối tượng khảo sát được lựa chọn là các DNNN hoạt động trong lĩnh vực xây
dựng, một lĩnh vực rộng lớn với số lượng lớn các DNNN (chiếm khoảng 1/3
tổng số các DNNN trong cả nước) và tương ứng với nó là hệ thống các cơ quan
quản lý nhà nước liên quan.

- 13 -



6-

Phương pháp nghiên cứu:

Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, tác giả đã sử dụng một số
các phương pháp khoa học như logic, biện chứng duy vật, trừu tượng hố khoa
học, duy vật lịch sử, ngồi ra tác giả còn sử dụng các phương pháp trong thu
thập thông tin như quan sát khách quan, trắc nghiệm …
7-

Đóng góp khoa học

Luận văn được triển khai trên cơ sở nắm bắt những ý tưởng khoa học trong các
công trình nghiên cứu khoa học trước đó, trên cơ sở đánh giá, nhận xét đối với
việc áp dụng những ý tưởng nghiên cứu tại các DNNN thực tế, vì vậy trong luận
văn sẽ tiếp tục thể hiện những ý tưởng khoa học trong công tác quản lý Nhà
nước đối với DNNN, hy vọng rằng những ý tưởng này sẽ được xem xét và ứng
dụng trong thực tế. Do những ý tưởng khoa học trong luận văn xuất phát chính
ngay trong q trình hoạt động, cơng tác thực tiễn, vậy nên nó gần với tiếng nói
của các DNNN hiện nay.
8-

Kết cấu của luận văn:

Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được bố cục thành ba chương có quan hệ chặt chẽ với nhau, nhằm đáp
ứng mức độ nghiên cứu của đề tài:
Chƣơng I: Tổng quan về quản lý nhà nƣớc đối với DNNN
Trong chương này tác giả khát quát một cách hệ thống một số các khái niệm cơ

bản được sử dụng trong luận văn như khái niệm DNNN, các loại hình DNNN;
vai trị của DNNN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, quản lý kinh tế đối
với DNNN ở Việt Nam hiện nay: chủ thể, mục tiêu, các chính sách, cơng cụ,
phương pháp, phương tiện sử dụng để đạt được mục tiêu đề ra; phân biệt các
khái niệm: hoạt động quản lý DNNN và hoạt động quản trị DNNN, chức năng
quản lý về kinh tế của Nhà nước và quyền của chủ sở hữu đối với DNNN, quản
lý chung và quản lý kinh tế, quản lý kinh tế của Nhà nước, quản lý kinh tế của
nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ quan nhà

- 14 -


nước có chức năng quản lý kinh tế; quản lý đối với DNNN, sự cần thiết phải
quản lý nhà nước đối với DNNN.
Chƣơng II: Thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với DNNN
Thông qua các chế định của pháp luật hiện hành điều chỉnh việc thành lập, hoạt
động và chấm dứt hoạt động của DNNN, việc thực hiện quyền sở hữu đối với
DNNN, những hiện tượng đã và đang tồn tại trong quản lý DNNN, tác giả phân
tích, đánh giá, so sánh với những loại hình doanh nghiệp khác trong xã hội để từ
đó làm nổi bật thực trạng quản lý nhà nước đối với DNNN hiện nay. Đặc biệt
trong chương này, tác giả tập trung vào cách thức tổ chức thực hiện hai mối
quan hệ cơ bản giữa Nhà nước và DNNN. Quan hệ thứ nhất, Nhà nước là chủ
thể quản lý nhà nước về kinh tế. Quan hệ thứ hai, Nhà nước với tư cách là chủ
sở hữu của DNNN. Tương xứng với hai vị trí của Nhà nước, DNNN cũng bị
“đối xử” với hai vị trí khác nhau, thứ nhất DNNN là một đối tượng quản lý của
Nhà nước. Thứ hai, DNNN là một pháp nhân kinh tế độc lập thuộc sở hữu của
Nhà nước. Trong từng mối quan hệ, tác giả lựa chọn những chế định pháp lý
tiêu biểu, cơ bản do Nhà nước ban hành để quản lý DNNN, qua đó kết luận,
nhận định thái độ quản lý của Nhà nước. Thái độ quản lý này được đánh giá là
hợp lý nếu nó phù hợp với qui luật kinh tế vốn có của của nền kinh tế thị trường

hiện tại và ngược lại.
Chƣơng III: Giải pháp và kiến nghị
Trong chương này, tác giả đi sâu nghiên cứu những nội dung giải pháp đã và
đang được Nhà nước áp dụng trong quá trình đổi mới quản lý đối với DNNN.
Trong nhiều giải pháp đang áp dụng, khơng phải giải pháp nào cũng hợp lý và
có thể áp dụng hiệu quả đối với tất cả các DNNN, mà phải tuỳ vào từng điều
kiện cụ thể, thực trạng của doanh nghiệp thông qua đánh giá, sắp xếp lại các
DNNN. Qua đây, tác giả một lần nữa phản ánh thực trạng q trình đổi mới
DNNN thơng qua các giải pháp. Bên cạnh đó, tác giả cũng sẽ chỉ ra những hạn
chế của các giải pháp và hạn chế trong quá trình triển khai các giải pháp. Đồng

- 15 -


thời, qua những nội dung đã được nghiên cứu trong chương 2, tác giả đưa ra
những kiến nghị nhằm mục đích bổ sung và hồn thiện hệ thống pháp luật hiện
hành trong lĩnh vực quản lý DNNN.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC

1-

KHÁI NIỆM DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC

1.1- Doanh nghiệp nhà nƣớc
Ở Việt Nam, DNNN ra đời do nhà nước tiếp quản các doanh nghiệp của chính
quyền cũ, do quốc hữu hố của bọn thực dân, tư sản mại bản và tiến hành cải tạo
các xí nghiệp tư nhân chuyển thành DNNN. Tuy quốc hữu hoá và cải tạo ra
những cơ sở ban đầu rất quan trọng, song quyết định qui mô, tỷ trọng, tốc độ

phát triển của DNNN ở nước ta lại liên quan đến mơ hình kinh tế. Với mơ hình
kế hoạch hoá tập trung, trước hết và trên hết là chế độ cơng hữu về tư liệu sản
xuất, do đó cùng với hàng loạt xí nghiệp quốc doanh ra đời bằng tiếp quản, cải
tạo, Nhà nước tiếp tục thành lập mới nhiều DNNN ở hầu hết ở các ngành kinh tế
quốc dân tạo thành hệ thống các DNNN phát triển cho đến ngày nay.
Theo điều 1 Luật DNNN năm 1995, DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu
tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động cơng
ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước giao. DNNN có tư
cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn
bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do do doanh nghiệp quản lý.
DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam.
Sau đó, Luật DNNN sửa đổi năm 2003 đã mở rộng thêm khái niệm DNNN:
DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ
phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức cơng ty nhà nước, cơng ty

- 16 -


cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Với khái niệm này, DNNN bao gồm cả
các doanh nghiệp có vốn của các thành phần kinh tế khác (phi nhà nước), và vì
vậy DNNN được tổ chức dưới nhiều các hình thức khác so với khái niệm trong
Luật DNNN 1995 như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Tuy nhiên, việc mở rộng khái niệm DNNN và thực chất là mở rộng phạm vi
điều chỉnh của Luật DNNN sửa đổi tới các doanh nghiệp sau khi đã áp dụng các
biện pháp chuyển đổi có cần thiết hay khơng cịn là vấn đề phải tiếp tục nghiên
cứu. Mục tiêu của việc chuyển đổi các DNNN là nhằm xoá bỏ những hạn chế
trong cơ chế quản lý cũ đối với doanh nghiệp, tạo một cơ chế thơng thống, trao
quyền tự chủ kinh doanh thực thụ cho doanh nghiệp chứ không phải là chỉ là sự
chuyển đổi hình thức sở hữu thuần tuý và tiếp tục duy trì cơ chế quản lý cũ
thông qua việc nắm vốn và cổ phần chi phối. Công cuộc cải cách DNNN chỉ

thành công khi DNNN thực sự là một thực thể kinh doanh hiệu quả, bình đẳng
với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Muốn vậy, khơng có
cách gì hơn là phải tách quản lý Nhà nước khỏi doanh nghiệp, trao lại quyền tự
chủ kinh doanh cho doanh nghiệp. Vì vậy, theo quan điểm của tác giả, không
nên mở rộng khái niệm DNNN như trong Luật DNNN sửa đổi 2003. Hơn nữa,
trong số các doanh nghiệp mở rộng này, Nhà nước không phải là chủ sở hữu
hồn tồn của doanh nghiệp (ví dụ công ty cổ phần do Nhà nước giữ cổ phần chi
phối) mà chỉ là đồng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp. Do đó, việc coi các
doanh nghiệp này là DNNN là không hợp lý và thể hiện sự không bình đẳng với
các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế. Do vậy, khái niệm DNNN nên thu
hẹp lại ở phạm vi công ty nhà nước như qui định của Luật DNNN sửa đổi, đồng
thời hình thành nên một thực thể kinh doanh vốn Nhà nước để thực hiện chức
năng đại diện chủ sở hữu đối với DNNN và các doanh nghiệp có vốn đầu tư của
Nhà nước. Việc thu hẹp khái niệm DNNN sẽ giúp cho các doanh nghiệp thuộc
diện mở rộng được giải phóng hồn tồn cả về cơ chế tổ chức, thành lập, hoạt
động và quản lý như hiện nay và có như vậy, các doanh nghiệp này mới thực sự

- 17 -


có quyền tự chủ trong kinh doanh. Tuy nhiên để thực hiện được điều này, một
thực thể có chức năng kinh doanh vốn nhà nước phải được thiết lập, hình thành
để đảm nhiệm vai trò chủ sở hữu. Thực thể này không thể kiêm nhiệm chức
năng quản lý nhà nước, khơng mang trong nó quyền lực nhà nước mà chỉ thuần
tuý là một đơn vị kinh doanh vốn. Còn DNNN theo nghĩa hẹp sẽ bị hạn chế dần
về số lượng, tiến tới không thành lập mới và tiếp tục được sắp xếp lại, nếu
không thuộc diện phải giữ lại, sẽ được áp dụng các biện pháp chuyển đổi để
chuyển sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp và khơng cịn thuộc đối tượng
điều chỉnh của Luật DNNN.
Trong khái niệm DNNN hiện hành vẫn cịn có điểm chưa thống nhất với các qui

định về pháp nhân, như vấn đề về vốn của DNNN. Luật DNNN sửa đổi 2003
qui định vốn của DNNN bao gồm vốn do Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp,
vốn do DNNN tự huy động và các nguồn vốn khác theo qui định của pháp luật
(điều 12) và tài sản của DNNN bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. Tại
thời điểm thành lập DNNN thì vốn và tài sản của doanh nghiệp được hình thành
từ vốn điều lệ của doanh nghiệp và có nguồn từ ngân sách Nhà nước, điều này
phù hợp với qui định tại điều 94 Bộ Luật Dân sự “Pháp nhân có tài sản độc lập
với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó”. Và khối tài
sản này thuộc sở hữu của DNNN do doanh nghiệp thực hiện quyền của chủ sở
hữu đối với khối tài sản sau khi nó được đưa vào doanh nghiệp theo hình thức
đầu tư. Có như vậy thì pháp nhân DNNN, mới được tham gia vào các quan hệ,
giao dịch dân sự, kinh tế và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình và điều này
cũng hồn tồn lơ gích với việc xác lập quyền sở hữu của DNNN với tài sản và
vốn của nó. Nhưng trái với những nguyên lý cơ bản trên, trong Luật DNNN sửa
đổi vẫn coi Nhà nước là chủ sở hữu toàn bộ vốn điều lệ của DNNN (điều 1). Với
quan niệm trong Luật DNNN sửa đổi, thì sẽ khơng thể lý giải về mặt pháp lý khi
DNNN bị phá sản và Nhà nước chưa thực hiện hết nghĩa vụ góp vốn điều lệ vào
DNNN. Vì theo qui định của pháp luật phá sản, trong trường hợp này Nhà nước

- 18 -


với tư cách là chủ sở hữu có nghĩa vụ hồn thành nghĩa vụ góp vốn hoặc trở
thành con nợ của DNNN. Và trên thực tế điều này không thể xảy ra do Người
tuyên bố phá sản và giải quyết phá sản lại chính là Nhà nước với tư cách là cơ
quan công quyền [tr.5; 3].
Do vậy, theo tác giả DNNN: là một thực thể kinh doanh do Nhà nước đầu tư
vốn, được tổ chức và hoạt động theo qui định của Luật DNNN vì mục tiêu lợi
nhuận.
DNNN có các đặc điểm cơ bản sau:

- Là một thực thể kinh doanh: với đặc điểm này, đã thể DNNN là một “cơ thể
sống”, có tính năng động và sáng tạo trong các hoạt động của nó. Mục tiêu
hoạt động của DNNN được xác định là kinh doanh. Theo nguyên nghĩa của
từ điển tiếng Việt, kinh doanh là việc tổ chức sản suất, bn bán để sao cho
sinh lợi, thì có thể nói mục tiêu của DNNN là hoạt động trong khn khổ của
pháp luật nhằm mục tiêu lợi nhuận. Với đặc điểm này, thì việc giao nhiệm
vụ, hoặc buộc DNNN phải thực hiện các công việc không làm phát sinh lợi
nhuận đều là không phù hợp với bản chất của DNNN và do vậy, sẽ làm mất
đi giá trị đích thực của DNNN.
- Là đơn vị sản xuất hàng hố có tư cách pháp nhân và hạch toán kinh tế độc
lập: điều 10 Luật DNNN sửa đổi 2003 qui định “DNNN có tư cách pháp
nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”, đây là cơ
sở pháp lý quan trọng khẳng định tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm về mặt
pháp lý của DNNN.
- DNNN thuộc sở hữu của Nhà nước: như đã phân tích ở trên, sau khi Nhà
nước đầu tư góp vốn vào doanh nghiệp, thì kể từ thời điểm được chứng nhận
đăng ký kinh doanh, DNNN sẽ là chủ sở hữu đối với vốn và tài sản đó. Cịn
DNNN thuộc sở hữu của Nhà nước và Nhà nước thực hiện các quyền của chủ
sở hữu đối với DNNN như qui định tại điều lệ tổ chức và hoạt động của
DNNN phù hợp với các qui định về quyền sở hữu [tr. 9; 3].

- 19 -


- Nhà nước thực hiện quyền sở hữu thông qua chế độ uỷ quyền, phân cấp quản
lý và hợp đồng [xem 1; tr. 229].
Về cơ chế quản lý DNNN: với tư cách là một thực thể kinh doanh thì thơng
thường pháp luật cho phép được làm tất cả những gì không cấm để phát huy mọi
thế mạnh, tiềm năng của doanh nghiệp nhằm tạo ra lợi nhuận tối đa, pháp luật
chỉ khoanh những “vùng cấm” để doanh nghiệp tránh. Có như vậy, quyền tự do

kinh doanh theo qui định của Hiến pháp 1992 mới có giá trị thiết thực. Nếu hiểu
như vậy, thì các cơ quan nhà nước sẽ khơng cần thiết phải hoạt động “vất vả”
như hiện nay, luôn phải theo sát doanh nghiệp để quản lý và buộc họ phải đi
đúng hướng của mình đặt ra, mà chỉ cần “canh chừng” ở các “vùng cấm” mà
thôi. Mặc dù Nhà nước là một chủ thể lớn bao trùm toàn xã hội, nhưng điều này
cũng khơng có nghĩa Nhà nước có sức mạnh vơ tận và có thể quản lý, can thiệp
vào mọi lĩnh vực xã hội, vì vậy Nhà nước “phải biết nắm những cái cần nắm và
buông những cái cần buông”. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, cơ chế thị
trường cũng có những qui luật riêng của nó, địi hỏi Nhà nước khơng được can
thiệp vào và chỉ khi thực hiện như vậy thì kinh tế thị trường mới phát huy sức
mạnh tích cực vốn có của nó. DNNN là một thực thể kinh doanh trong nền kinh
tế thị trường, do vậy nó cũng địi hỏi phải có cơ chế quản lý tương ứng với các
thực thể kinh doanh khác, cần phải được tự chủ trong kinh doanh, và bình đẳng
với các doanh nghiệp khác trong xã hội. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp khác
cũng địi hỏi Nhà nước khơng được có những ưu đãi, ưu tiên đối với DNNN,
khơng được tạo những cơ chế có lợi hơn cho DNNN. Có như vậy “sân chơi”
bình đẳng cho các thành phần kinh tế mới được xác lập, kinh tế thị trường mới
thực sự phát huy hết những ưu thế vượt trội của nó, góp phần thúc đẩy nền kinh
tế phát triển.
1.2

Các loại hình doanh nghiệp nhà nƣớc

Theo Luật DNNN sửa đổi 2003, DNNN được tổ chức thành Tổng công ty và
DNNN độc lập

- 20 -


1.2.1 Tổng công ty nhà nƣớc:

- Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập trên cơ sở tập
hợp và liên kết các công ty nhà nước thành viên có tư cách pháp nhân, hoạt động
trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế kỹ thuật chính, nhằm tăng cường,
tích tụ, tập trung vốn và chuyên mơn hố kinh doanh của các đơn vị thành viên
và tồn tổng cơng ty.
- Tổng cơng ty do các cơng ty tự đầu tư và thành lập là hình thức liên kết
thơng qua đầu tư, góp vốn của cơng ty nhà nước có qui mơ lớn do Nhà nước sở
hữu toàn bộ vốn điều lệ với các doanh nghiệp khác, trong đó cơng ty nhà nước
giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác.
- Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là tổng công ty được
thành lập để thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với các công ty trách
nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên chuyển đổi từ các công ty nhà nước độc
lập và các công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên do mình thành
lập; thực hiện chức năng đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước và quyền, nghĩa vụ
của chủ sở hữu với cổ phần, vốn góp Nhà nước tại các doanh nghiệp đã chuyển
đổi sở hữu hoặc hình thức pháp lý từ các cơng ty nhà nước độc lập.
- Bên cạnh đó, vẫn tồn tại các tổng công ty được thành lập theo quyết định
số 91/TTg ngày 04/7/1999 của Thủ tướng chính phủ (gọi tắt là Tổng công ty 91)
là các Tổng công ty do Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập, trực thuộc
Chính phủ (các vị trí chủ chốt do Thủ tướng chính phủ quyết định, bổ nhiệm, có
trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình trước Chính phủ); và Tổng cơng ty
được thành lập theo quyết định số 90/TTg ngày 04/7/1999 của Thủ tướng chính
phủ (gọi tắt là Tổng cơng ty 90) là Tổng công ty do các Bộ, UBND cấp tỉnh
quyết định thành lập sau khi được Thủ tướng uỷ quyền, trực thuộc các Bộ,
UBND cấp tỉnh (các vị trí chủ chốt do Bộ trưởng, UBND cấp tỉnh quyết định, bổ
nhiệm, có trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình trước Bộ, UBND cấp tỉnh).

- 21 -



1.2.2 Doanh nghiệp nhà nƣớc độc lập: là công ty nhà nước không thuộc cơ
cấu tổ chức của tổng công ty nhà nước.
1.3- Vai trò của doanh nghiệp nhà nƣớc trong nền kinh tế Việt Nam
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam khoá IX đã khẳng định “Kinh tế nhà nước có vai trị quyết định trong việc
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị,
xã hội của đất nước, DNNN phải khơng ngừng được đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan
trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mơ, làm lực lượng nịng cốt, góp
phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc xem xét, đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước phải có quan điểm
tồn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội; trong đó lấy suất sinh lời trên vốn làm
một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh
doanh”.
Sự khẳng định trên đã nêu rõ quan điểm vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Vai trị đó được thể hiện
cụ thể trên các nội dung:
- Các DNNN giữ những vị trí then chốt của nền kinh tế. Khi xây dựng và
phát triển chế độ kinh tế xã hội, một quốc gia có chế độ chính trị định hướng xã
hội chủ nghĩa như Việt Nam phải xây dựng một hệ thống doanh nghiệp có tính
chất “xương cốt” của nền kinh tế, hệ thống đó có vai trị định hướng chính trị xã
hội cho tồn bộ nền kinh tế. Điều này thể hiện ở chỗ DNNN bảo đảm những
điều kiện phát triển, bảo đảm những cân đối lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Sứ mạng đó thể hiện trước hết ở chỗ DNNN hiện đang nắm giữ các ngành
công nghiệp then chốt, xương sống của nền kinh tế và tồn bộ ngành cơng
nghiệp quốc phòng.

- 22 -



- Ngồi ra các DNNN cịn đảm nhận những trách nhiệm, những nhiệm vụ
xã hội rất lớn, đồng thời thúc đẩy sự phát triển các vùng kinh tế lạc hậu. Với
mục tiêu xây dựng một xã hội, công bằng, dân chủ, vì dân, những nghĩa vụ xã
hội đặt ra cho nhà nước không chỉ nặng nề mà ngay trong những bước phát
triển, những nhiệm vụ đó đã phải từng bước được giải quyết. Do vậy DNNN
thường phải đảm nhận những mục tiêu xã hội, đầu tư vào những lĩnh vực ít lãi,
hoặc thu hồi vốn lâu nhưng có ý nghĩa xã hội lớn. Đặc biệt, trong những lĩnh
vực cơng ích, những lĩnh vực có vai trị phục vụ cho tồn bộ nền kinh tế quốc
dân như kết cấu hạ tầng, bảo vệ mơi trường, đảm bảo an ninh quốc phịng... Với
các lĩnh vực này không thể kinh doanh đơn thuần vì mục tiêu lợi nhuận. Đảm
bảo các mục tiêu xã hội là nhiệm vụ phổ biến của các DNNN của hầu hết các
nước trên thế giới. Nhưng có thể nói ở nước ta, nhiệm vụ đó nặng nề khó khăn
hơn nhiều. Điều đó do điều kiện lịch sử đặc thù và định hướng con đường phát
triển chi phối.
- Các DNNN cịn có sứ mệnh rất lớn là tạo điều kiện và thúc đẩy tồn bộ
q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt, trong điều kiện nước
ta đang tiến hành hiện đại hố, cơng nghiệp hố từ điều kiện sản xuất nhỏ, lạc
hậu, thì vai trị của các DNNN là rất to lớn.
- Trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta
hiện nay, các DNNN còn những hạt nhân, nòng cốt trong việc liên doanh, liên
kết lôi cuốn các thành phần kinh kế khác đi vào quĩ đạo phát triển đi lên chủ
nghĩa xã hội. đây là vai trò, sứ mệnh hết sức quan trọng của các DNNN. Chủ
trương đổi mới kinh tế đã kích thích, giải phóng sức sản xuất ở các thành phần
kinh tế phát triển. Nhưng các thành phần kinh tế với bản chất kinh tế vốn có của
nó, nếu khơng có những tác động điều chỉnh có hiệu lực bằng các biện pháp
kinh tế, nếu khơng có thực lực, những sức mạnh kinh tế để khống chế và điều
tiết, thì khó có thể định hướng hoạt động kinh tế của toàn xã hội. Những sức
mạnh, những trung tâm thực lực kinh tế cùng sống, cùng hoạt động trong một


- 23 -


môi trường thị trường với các thành phần kinh tế trong sản xuất kinh doanh
chính là các DNNN, đó là một đội quân chủ lực hùng mạnh mà nhà nước sử
dụng để tác động và điều khiển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.

2-

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC

2.1- Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nƣớc
2.1.1 Quản lý kinh tế của Nhà nƣớc:
Chức năng quản lý về kinh tế của nhà nước là những hoạt động được nhà nước
thực hiện để thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. Chức năng quản lý nhà
nước về kinh tế được quy định bởi vai trị quản lý nhà nước về kinh tế. Chức
năng đó của Nhà nước được xác định bởi bản chất của nhà nước, yêu cầu của
nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội và tình hình kinh tế xã hội của từng giai đoạn
lịch sử, và đối với mỗi Nhà nước nắm rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế
là cơ sở khách quan để tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, từ chức
năng mà sắp xếp bộ máy và bố trí biên chế về con người. Trước đây, trong cơ
chế tập trung quan liêu, bao cấp nhà nước nắm toàn bộ nền kinh tế và không chỉ
thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế mà còn làm các chức năng
trực tiếp quản lý sản xuất, can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của các đơn
vị kinh tế cơ sở. Nay chuyển sang nền kinh tế thị trường hiện đại, rất nhiều công
việc, hoạt động kinh tế do thị trường và xã hội đảm nhiệm, nhà nước lúc này tập
trung thực hiện các chức năng chủ yếu nhất mà thị trường và xã hội không làm
được, không được làm và làm không tốt. Các chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế, vì vậy cũng khơng cố định mà ln biến động và phát triển. Tuy nhiên,
các chức năng cơ bản, chủ yếu vẫn ít thay đổi. Trong những điều kiện cụ thể, do

mục tiêu thay đổi thì vai trị và thứ tự ưu tiên của các chức năng có thể có sự
thay đổi nhất định.
Quản lý kinh tế của Nhà nước (thông qua các cơ quan nhà nước) là một trong
những chức năng quan trọng, không thể thiếu của bất cứ Nhà nước nào trong

- 24 -


lịch sử. Mỗi nhà nước khi hình thành đều dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định,
đặc trưng (là cơ sở tồn tại, phát triển của nhà nước đó). Do vậy, để Nhà nước
của mình tồn tại thì giai cấp cầm quyền phải bằng mọi cách duy trì, bảo vệ và
phát triển nền kinh tế mà trên đó nhà nước tồn tại. Nhà nước với tư cách là bộ
máy quyền lực của giai cấp thống trị phải thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi
kinh tế của giai cấp cầm quyền đồng thời duy trì “trật tự” và đặc biệt là trật tự
trong lĩnh vực kinh tế theo xu hướng có lợi nhất cho giai cấp thống trị. Cùng với
sự phát triển về qui mơ và trình độ của nền kinh tế, vai trò quản lý kinh tế của
Nhà nước ngày càng tăng lên và chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động
quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, vai trò quản lý nhà nước về kinh tế cũng ln
ln biến đổi tuỳ theo chế độ chính trị, yêu cầu và xu hướng phát triển kinh tế
của từng quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Khi kinh tế thị trường
ra đời, cơ chế thị trường với sự vận hành đồng bộ các yếu tố của nó, địi hỏi về
tự do cạnh tranh và giảm bớt sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh tế
ngày càng tăng lên. Nhưng sự tự do cạnh tranh không phải là liều thuốc vạn
năng của nền kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa tư bản. Nó vừa kích thích hoạt
động kinh tế, nhưng cũng dẫn tới độc quyền, khủng hoảng kinh tế, phân hố
giàu nghèo q mức, ơ nhiễm mơi trường nghiêm trọng, do đó lại địi hịi hỏi
bàn tay can thiệp của nhà nước. Trước thực trạng đó, ngay trong chủ nghĩa tư
bản, ở các quốc gia khác nhau và ở các giai đoạn phát triển khác nhau, vai trò
quản lý kinh tế của nhà nước cũng rất khác nhau, tương quan với sự vận động
của cơ chế thị trường. Ngày nay, người ta đều nhận thấy rằng, vai trò quản lý

nhà nước về kinh tế của các quốc gia ngày càng tăng lên. ở các nước xã hội chủ
nghĩa trước đây, do yêu cầu xây dựng nền kinh tế theo chế độ cơng hữu, phi
hàng hố và được quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nên nhà nước xã
hội chủ nghĩa đã đảm nhiệm vai trò quản lý tuyệt đối đời sống kinh tế xã hội,
nắm và chi phối toàn bộ hoạt động kinh tế của đất nước. Với cơ chế quản lý kế
hoạch hoá tập trung, nhà nước của các nước xã hội chủ nghĩa đã thực hiện được

- 25 -


×