Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

(Luận văn thạc sĩ) so sánh pháp luật việt nam và malaysia về mô hình quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng 07

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.84 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG NGA

SO SáNH PHáP LUậT VIệT NAM Và MALAYSIA
Về MÔ HìNH QUảN Lý TàI SảN CủA CáC Tổ CHứC TíN DụNG

Chuyờn ngnh: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Thị Phương Nga


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN, SỰ
HÌNH THÀNH CƠNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA CÁC TỔ
CHỨC TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM VÀ MALAYSIA........................... 8
1.1.

Khái quát các vấn đề lý luận về quản lý tài sản và các loại hình
Cơng ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng ..................................... 8

1.1.1. Khái niệm về quản lý tài sản ........................................................................ 8
1.1.2. Các loại hình cơng ty quản lý tài sản .......................................................... 11
1.2.

Sự hình thành mơ hình Cơng ty quản lý tài sản của các tổ chức tín
dụng tại Việt Nam và Malaysia ................................................................. 12

1.2.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội ............................................................................ 12
1.2.2. Tác động của Nợ xấu ................................................................................. 16
1.2.3. Thực trạng giải quyết nợ xấu của Việt Nam và Malaysia ........................... 24
1.2.4. Bất cập của cơ chế xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam ......... 28
1.2.5. Mơ hình của một số quốc gia về công ty quản lý tài sản của các tổ

chức tín dụng ............................................................................................. 30
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 36
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THÀNH LẬP VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA TỔ CHỨC
TÍN DỤNG VÀ SO SÁNH VỚI MƠ HÌNH CỦA MALAYSIA ............ 37
2.1.

Thành lập, cơ cấu tổ chức của VAMC và so sánh với mơ hình của
Malaysia ................................................................................................... 37

2.1.1. Q trình thành lập..................................................................................... 37
2.1.2. Địa vị pháp lý của VAMC.......................................................................... 38
2.1.3. Cơ cấu tổ chức hoạt động ........................................................................... 42


2.2.

Hoạt động quản lý tài sản của VAMC và so sánh với mơ hình của
Malaysia ................................................................................................... 47

2.2.1. Vốn hoạt động............................................................................................ 47
2.2.2. Mục tiêu, nguyên tắc hoạt động.................................................................. 51
2.2.3. Hoạt động mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng......................................... 53
2.2.4. Quản lý và xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng ...................................... 61
2.2.5. Đánh giá thực trạng hoạt động của VAMC ................................................ 72
2.3.

Chấm dứt hoạt động của Công ty quản lý tài sản của tổ chức tín
dụng tại Việt Nam và so sánh với mơ hình của Malaysia....................... 74


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 76
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA VAMC ............................................................................................. 77
3.1.

Những bất cập trong điều chỉnh pháp luật và thực tiễn về hoạt
động của VAMC....................................................................................... 78

3.2.

Định hướng hoàn thiện và một số kiến nghị pháp luật điều chỉnh
về tổ chức và hoạt động của VAMC ........................................................ 81

3.2.1. Thứ nhất, về vốn hoạt động của VAMC ..................................................... 81
3.2.2. Thứ hai, VAMC cần có kế hoạch, thời gian xử lý nợ xấu và tăng cường
chức năng bán nợ xấu................................................................................. 82
3.2.3. Thứ ba, tạo ra một thị trường mua bán nợ thứ cấp mà VAMC giữ vai
trò là một tổ chức kinh doanh nợ ................................................................ 83
3.2.4. Thứ tư, hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản
bảo đảm cho VAMC .................................................................................. 85
3.2.5. Thứ năm, cần tạo sự độc lập về chính trị của VAMC ................................. 94
3.2.6. Thứ sáu, tăng cường trách nhiệm của VAMC trong xử lý nợ xấu ............... 94
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 96
KẾT LUẬN CHUNG........................................................................................... 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 99


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AMC:


Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các TCTD.

BCBS:
CDRD:

Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng
Ủy ban tái cơ cấu doanh nghiệp

CEO:

Giám đốc điều hành

CIC:
CNTT:

Trung tâm thơng tin tín dụng.
Cơng nghệ thông tin

Danaharta: Công ty quản lý tài sản Danaharta.
Danamodal: Tổ chức tái cấp vốn
DATC:
DN:

Công ty TNHH mua bán nợ Việt Nam
Doanh nghiệp

DNNN:
FDI:


Doanh nghiệp nhà nước
Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP:

Tổng sản phẩm quốc nội

GTGT:
HĐQT:

Giá trị gia tăng.
Hội đồng quản trị

IAS:
IFRS:

Chuẩn mực kế tốn quốc tế
Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế

IMF:
KAMCO:

Tổ chức tiền tệ thế giới
Công ty quản lý tài sản nợ thuộc Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc.

NSNN:
NHNN:

Ngân sách nhà nước
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.


NHTM:
ODA:

Ngân hàng thương mại
Hỗ trợ phát triển chính thức

SCIC:

Tổng cơng ty kinh doanh vốn nhà nước

TCTD:
TSBĐ:

Tổ chức tín dụng
Tài sản bảo đảm

TTCK:
USD:

Trung tâm chứng khốn
Đồng đơ la Mỹ.

VAMC:

Cơng ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam.


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Luật các TCTD 2010 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XII kỳ họp thứ 7 thơng qua ngày 16-6-2010, có hiệu lực từ ngày 0101-2010 đã quy định rất rõ về các hoạt động của TCTD, theo đó gồm các hoạt động
cơ bản: nhận tiền gửi khơng kỳ hạn, có kỳ hạn; phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, tín phiếu, trái phiếu; Cấp tín dụng dưới các hình thức cho vay, chiết khấu, tái
chiết khấu cơng cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, bảo lãnh ngân hàng, phát hành
thẻ tín dụng, bao thanh tốn; mở tài khoản thanh toán; cung ứng dịch vụ thanh tốn
và một số hoạt động mang tính chất đầu tư. Bản chất đặc thù trong hoạt động của
các tổ chức tín dụng là kinh doanh tiền tệ, tìm kiếm lợi nhuận giữa chi phí huy động
vốn và hoạt động cấp tín dụng (cho vay, bảo lãnh, bao thanh tốn, chiết khấu…), do
vậy, có thể thấy bên cạnh một số hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn thì hoạt động
cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng được coi là hoạt động
truyền thống cốt lõi mang lại lợi nhuận chủ đạo cho các tổ chức tín dụng. Hoạt động
kinh doanh tiền tệ tiềm ẩn nhiều rủi ro, không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của bản
thân tổ chức tín dụng mà sự sụp đổ của một tổ chức tín dụng cịn làm ảnh hướng
đến cả hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Theo chu kỳ phát triển mang tính quy
luật, sự phát triển mạnh của hoạt động cấp tín dụng trong một thời gian nhất định sẽ
đem lại những hệ quả tích cực và tiêu cực tác động trực tiếp đến nền kinh tế. Bên
cạnh những tác động tích cực là cung ứng vốn cho kinh tế, giải quyết nhu cầu và
đáp ứng sản xuất kinh doanh cũng như tiêu dùng của khách hàng góp phần thúc đẩy
kinh tế xã hội phát triển thì những hệ quả tiêu cực do hoạt động cấp tín dụng mang
lại khơng hề nhỏ nếu việc cấp tín dụng khơng được kiểm sốt một cách cẩn trọng và
phịng ngừa rủi ro ở mức cao nhất. Hệ quả tiêu cực có tác động trực tiếp đến nền
kinh tế chính là “Nợ xấu”. Thực tế hiện nay, nợ xấu đã và đang tác động tiêu cực
đến việc lưu thơng dịng vốn vào nền kinh tế và tính an tồn, hiệu quả kinh doanh
của chính các ngân hàng. Nợ xấu được ví như căn bệnh ung thư quái ác. Nếu phát

1


hiện chữa trị sớm thì cơ hội xử lý cao, cịn càng để muộn thì càng khó cứu chữa.

Xuất phát từ thực trạng Nợ xấu ngày càng phát triển đã tạo các tiền đề dẫn đến sự
hình thành các biện pháp xử lý nợ xấu với mục tiêu đưa tỷ lệ nợ xấu về mức thấp
nhất, vừa đảm bảo hoạt động an toàn cho hệ thống các định chế tài chính, vừa đảm
bảo các định chế tài chính có đủ sức khỏe, thanh khoản tốt để không ảnh hưởng xấu
đến sự phát triển kinh tế và xã hội.
Trong rất nhiều các biện pháp, chính sách của chính phủ hỗ trợ ngành ngân
hàng xử lý nợ xấu thì giải pháp của việc thành lập một công ty xử lý nợ xấu tập trung
của toàn hệ thống ngân hàng trở thành một trong những biện pháp hữu hiệu. Sự ra đời
của mô hình cơng ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng xuất phát từ chính q
trình phát triển rầm rộ về quy mơ của nợ xấu, mơ hình công ty này đã và đang được
nhiều quốc gia thử nghiệm áp dụng và có thể nói ở mức độ nào đó đã góp phần khơng
nhỏ cho việc giảm tỷ lệ nợ xấu, ổn định hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Mỗi quốc gia sẽ căn cứ thực tiễn cơ cấu, tổ chức và hoạt động của hệ thống
tài chính – ngân hàng, chiến lược phát triển kinh tế của mình và mục tiêu xử lý nợ
xấu để lựa chọn mơ hình tổ chức cũng như hoạt động của cơng ty quản lý tài sản
phù hợp. Do đó, khơng có một tiêu chuẩn cũng như mơ hình thống nhất về loại hình
cơng ty này. Trên thực tế, khơng chỉ các nước trong khu vực châu Á thành lập các
công ty quản lý tài sản mà ngay cả nước phát triển như Mỹ và các nước Mỹ La tinh
cũng có các công ty chuyên về xử lý nợ xấu của ngân hàng. Một số quốc gia đã
triển khai mơ hình công ty xử lý nợ xấu như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia,
Thái Lan…., mỗi mơ hình hoạt động có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Từ
những ưu điểm và hạn chế của các mơ hình cơng ty quản lý tài sản đã triển khai trên
thế giới, Việt Nam đã rút kinh nghiệm và học hỏi để xây dựng một mơ hình cơng ty
quản lý tài sản của các TCTD phù hợp với đặc điểm kinh tế, chính trị cũng như hoạt
động ngân hàng tại Việt Nam.
Ngày 18/5/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 53/2013/NĐ-CP về
thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín
dụng Việt Nam. Văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của Công ty Quản

2



lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) và hoạt động tích cực của
VAMC trong việc xử lý nợ xấu. VAMC được ví như một cơng cụ đặc biệt của Nhà
nước góp phần đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD.
Nghị quyết số 53/2013/QH13 ngày 11/11/2013 của Quốc hội về Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 đã quy định những nội dung quan trọng cần tập
trung chỉ đạo, điều hành để tăng ổn định vững chắc kinh tễ vĩ mô, bảo đảm các cân
đối lớn của nền kinh tế, trong đó bao gồm việc xử lý cơ bản nợ xấu của doanh nghiệp,
nợ xấu của ngân hàng. Với nội dung Nghị quyết này, vai trò của VAMC thực sự quan
trọng để thực hiện định hướng trên và đảm bảo cơ sở pháp lý đẩy nhanh tiến độ xử lý
nhanh nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng,
doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý cho nền kinh tế.
Tác giả chọn đề tài này với mục đích đưa ra một cách nhìn tồn diện về hoạt
động của VAMC (từ bối cảnh thành lập, vốn, mục tiêu hoạt động, nguyên tắc hoạt
động; cơ cấu tổ chức, các hoạt động kinh doanh cho đến phương thức mua bán nợ
xấu…) và có so sánh, phân biệt với hoạt động của Công ty Quản lý tài sản quốc gia
Danaharta (Malaysia) – một mơ hình cơng ty xử lý nợ xấu tương tự như VAMC để
rút ra bài học kinh nghiệm từ thành cơng của mơ hình Danaharta; đồng thời nhìn
nhận thực trạng, thành tựu kết quả hoạt động và vướng mắc của VAMC qua hơn 1
năm đi vào hoạt động. Trên cơ sở đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm hồn
thiện khn khổ pháp lý cũng như thúc đẩy hoạt động hiệu quả cho VAMC. Trong
điều kiện kinh tế của Việt Nam chưa thực sự phục hồi, bài toán xử lý nợ xấu vẫn là
mục tiêu cấp thiết quan tâm hàng đầu của toàn bộ hệ thống ngân hàng thì vấn đề
tiếp tục hồn thiện mơi trường pháp lý, giải quyết các vướng mắc bất cập phát sinh
trong quá trình hoạt động của VAMC là một vấn đề hết sức quan trọng. Nghiên cứu
vấn đề này sẽ góp phần thực hiện mục tiêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu và ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài
Liên quan đến vấn đề xử lý nợ xấu, hiện nay ở nước ta có nhiều cơng trình
nghiên cứu như các đề tài cấp bộ, cấp sở và các cơ quan chức năng đã tổ chức

những hội thảo đề cập hoặc nghiên cứu một số khía cạnh của pháp luật về giải quyết

3


nợ xấu, mỗi nhà khoa học có cách tiếp cận đề tài này ở nhiều góc độ khác nhau. Ví
dụ như: sách “Để ngân hàng vươn ra biển lớn: Điều trị căn bệnh nợ xấu của ngân
hàng thương mại” của tác giả Trịnh Thanh Huyền xuất bản năm 2007; bài “Trao
đổi về giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam” của TS. Lê Quốc Lý
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư. “Giải quyết nợ xấu và ngăn chặn nợ xấu phát sinh” của
Trần Đình Định - Phó Tổng giám đốc NH Nơng nghiệp và phát triển nông nghiệp
nông thôn Việt Nam; “Cần gắn việc xử lý nợ tồn đọng trong quá trình tái cơ cấu
NHTM Việt Nam với tổng thể xử lý công nợ dây dưa của nền kinh tế quốc dân” của
TS. Nguyễn Viết Hồng - Giám đốc công ty AMC - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam; “Nợ xấu – một số thực trạng, nguyên nhận và giải pháp” của Ngô Minh
Châu – Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Phương Nam; “Cần thực hiện đồng bộ
các giải pháp trong xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại Việt Nam” của TS
Nguyễn Thị Phương Lan, Phó Việt trưởng viện Nghiên cứu khoa học ngân hàng;
“Vấn đề xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng và của doanh nghiệp” của TS Nguyễn
Đình Tài – Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế trung ương. Các cơng trình nghiên cứu
trên chỉ đề cập khía cạnh VAMC như một trong các giải pháp xử lý nợ xấu mà
không nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động của VAMC. Đối với việc nghiên cứu về
mơ hình của VAMC, hoạt động xử lý nợ xấu của VAMC mới chỉ có một số bài
nghiên cứu trao đổi (như bài nghiên cứu: VAMC – Nét đặc trưng về xử lý nợ xấu
của ThS Nguyễn Thanh Dương đăng trên báo Phát triển và Hội nhập số 13 (23) –
Tháng 11-12/2013…), một số cơng trình tiểu luận, khóa luận, luận văn cao học (như
tiểu luận với đề tài: “Dự án thành lập Cơng ty VAMC” do một nhóm các bạn học
viên cao học Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh dưới sự hướng dẫn của PGS. TS.
Trương Quang Thơng; khóa luận với đề tài “Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân
hàng thương mại tại Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam”

của Đồn Thảo Nguyên dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Lê Thị Thu Thủy….),
ngồi ra, chưa có cơng trình nghiên cứu cấp bộ ngành và cơ quan chức năng nào đi
sâu nghiên cứu về đề tài này. Do đó, đề tài này phần nào đáp ứng tính cần thiết của
việc nghiên cứu trong tình hình hiện nay, khi mà VAMC đã đi vào hoạt động được

4


hơn 1 năm và các quy định pháp lý đối với hoạt động của VAMC đang bộc lộ nhiều
bất cập, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung theo hướng tạo sự chủ động, trao quyền hạn
phù hợp cho VAMC xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu đã mua,
nâng cao sự minh bạch trong hoạt động mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt và mua
nợ xấu theo giá trị thị trường. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề này
mang ý nghĩa luận thực tiễn sâu sắc.
Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc hồn thiện mơi trường pháp lý đầy đủ,
phù hợp với đòi hỏi thực tiễn, những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ đem lại những
kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam liên quan
đến hoạt động của VAMC cũng như các giải pháp nhằm tạo hiệu quả trong việc xử
lý nợ xấu của VAMC. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả
nghiên cứu sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị nhất định.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung, các văn bản hướng dẫn thi hành,
trong đó có các Nghị định của Chính phủ, Thơng tư của NHNN, các văn bản hướng
dẫn các vấn đề liên quan của các bộ về mơ hình và hoạt động quản lý tài sản của
VAMC. Trong nội dung trình bày tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá việc áp
dụng các quy định của pháp luật có liên quan đến mơ hình hoạt động của VAMC,
so sánh với quy định của pháp luật Malaysia về mơ hình hoạt động của Danaharta,
đánh giá thành tựu đạt được cũng như các vướng mắc, bất cập phát sinh để từ đó
nêu lên những kiến nghị, giải pháp có thể áp dụng cho VAMC.
Với mục đích trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

- Nghiên cứu và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về khái niệm quản lý tài sản, loại
hình cơng ty quản lý tài sản quốc gia.
- Nghiên cứu và làm sáng tỏ các tiền đề dẫn đến sự hình thành mơ hình cơng
ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam và Malaysia.
- Nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về VAMC, pháp luật Malaysia về Danaharta để so sánh điểm tương đồng,
khác biệt cũng như đánh giá mơ hình cơ cấu tổ chức, hoạt động quản lý tài sản và
xử lý nợ xấu của VAMC và Danaharta.

5


- Nghiên cứu, tổng kết thành tựu hoạt động của VAMC, Danaharta để rút ra
bài học kinh nghiệm cho VAMC; đồng thời đánh giá nghiêm túc thực trạng, hạn
chế, bất cập, vướng mắc trong hoạt động của VAMC.
- Đề xuất các giải pháp hồn thiện mơi trương pháp lý, cải tiến để nâng cao
hiệu quả hoạt động của VAMC.
4. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp
luật Việt Nam và Malaysia về mơ hình và hoạt động quản lý tài sản, xử lý nợ xấu
của VAMC và Danaharta; phân tích thực trạng nợ xấu hiện nay trong hoạt động
ngân hàng hiện nay; phân tích các yếu tố hình thành mơ hình VAMC; so sánh và
tổng kết thực tiễn kết quả hoạt động quản lý tài sản và xử lý nợ xấu của VAMC và
Danaharta để từ đó chỉ ra những hạn chế, vướng mắc cần phải tháo gỡ và đề xuất
các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của VAMC, đảm bảo
quá trình hoạt động hiệu quả và khả thi, phù hợp với thực trạng và đặc điểm thị
trường ngân hàng Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu: Quá trình xây dựng Luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học để phân tích, lý luận và luận giải thực tiễn như phép duy vật
biện chứng, phương pháp thống kết, các học thuyết kinh tế, đồng thời vận dụng cơ sở lý

luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những
quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, so sánh các quy định của pháp luật và
thực tiễn hoạt động của VAMC; kết hợp với khảo sát, tham khảo các bài nghiên cứu
trao đổi trong thực tiễn, phỏng vấn, tổng hợp trên cơ sở đó rút ra những bất cập trong
các quy định của pháp luật Việt Nam về mơ hình hoạt động VAMC, thực tiễn áp dụng,
từ đó đưa ra một số kiến nghị về hoàn thiện khung pháp lý, các giải pháp thực tế nhằm
đóng góp vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của VAMC, đáp ứng mục tiêu kinh tế
của quốc gia.

6


5. Đóng góp của luận văn
Thực tế hiện nay có rất ít các cơng trình khoa học nghiên cứu tồn diện về
mơ hình hoạt động của VAMC và có so sánh với mơ hình tương tự của quốc gia
khác. Luận văn “So sánh pháp luật Việt Nam và Malaysia về mơ hình quản lý tài
sản của các tổ chức tín dụng” nghiên cứu mơ hình hoạt động của cơng ty quản lý
tài sản của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam và Malaysia một cách toàn diện về lý
luận cũng như về thực tiễn; từ việc tìm hiểu, nghiên cứu về cơ cấu tổ chức, hoạt
động xử lý nợ xấu cũng như thực tiễn kết quả hoạt động của hai mơ hình cơng ty xử
lý nợ tại Việt Nam và Malaysia. Trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp hoàn thiện để
nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động VAMC. Hơn nữa luận văn còn góp
phần nâng cao nhận thức của việc xử lý tốt các vấn đề liên quan đến VAMC đặc
biệt trong giai đoạn phục hồi, tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Nội
dung của luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quản lý tài sản, sự hình thành cơng

ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng.
Chương 2:

Thực trạng pháp luật về thành lập và hoạt động của VAMC và
so sánh với mơ hình của Malaysia.

Chương 3:

Định hướng hồn thiện và một số kiến nghị pháp luật điều
chỉnh về tổ chức và hoạt động của VAMC.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN,
SỰ HÌNH THÀNH CƠNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA
CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM VÀ MALAYSIA
1.1. Khái quát các vấn đề lý luận về quản lý tài sản và các loại hình Cơng
ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
1.1.1. Khái niệm về quản lý tài sản
Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản (Điều 163
Bộ luật Dân sự 2005). Chủ sở hữu tài sản có quyền chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt tài sản đồng thời phải chịu rủi ro khi tài sản bị tiêu hủy hoặc bị hư hỏng do
sự kiện bất khả kháng.
Tài sản là vật bao gồm bất động sản (đất đai, nhà, cơng trình xây dựng gắn
liền với đất, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, cơng trình xây dựng đó. Cịn tài sản
là động sản là những tài sản không phải là bất động sản.
Hiện nay, pháp luật khơng có một khái niệm cụ thể về quản lý tài sản để có thể
xác định cơ sở pháp lý của hoạt động quản lý tài sản là gì. Tuy nhiên, theo thực tế phát

triển nghề nghiệp hiện nay (trên một số website về hướng nghiệp:hieuhoc.com….),
quản lý tài sản đang được xác định là một hoạt động của các nhà tư vấn giúp cho
các khách hàng của mình trong đó bao gồm các cá nhân hay tổ chức hoạch định
được nguồn tài sản của mình, biết cách quản lý, sử dụng tài sản, biến tài sản đó
thành tài nguyên sống, sinh lời đem lại lợi nhuận cho chính người sở hữu của nó.
Quản lý tài sản có thể hiểu đơn thuần là một hoạt động quản lý tài sản giúp
cho chủ sở hữu tài sản trên cơ sở thỏa thuận giữa chủ tài sản và người được giao
quản lý tài sản, người quản lý tài sản sẽ thực hiện quản lý tài sản cho chủ tài sản
theo các mục đích mà chủ tài sản hướng tới, có thể chỉ là hoạt động trơng hộ, giữ
gìn giúp bảo vệ sự ngun vẹn của tài sản, nhưng cũng có thể người quản lý sẽ
được chủ sở hữu tài sản giao khai thác, sử dụng tài sản đem lại lợi nhuận cho chủ
sở hữu tài sản.

8


Theo cách hiểu trên, vai trò của người quản lý tài sản không chỉ dừng lại ở
việc bảo đảm sự vẹn toàn của tài sản được giao quản lý mà cịn phải có định hướng,
tư vấn cách quản lý, sử dụng để đem lại lợi ích cho người có tài sản. Việc giao tài
sản cho người khác quản lý tức là giao quyền chiếm hữu (nắm giữ, quản lý tài sản)
tài sản cho người quản lý tài sản.
Mọi hoạt động quản lý (bao gồm cả quản lý tài sản) phải do 4 yếu tố cơ bản
sau cấu thành: Chủ thể quản lý (ai quản lý); Khách thể quản lý (quản lý cái gì); Mục
đích quản lý (quản lý vì cái gì); Mơi trường và điều kiện tổ chức quản lý (quản lý
trong hoàn cảnh nào).
Với sự phát triển nhanh và mạnh của hệ thống ngân hàng, nhu cầu quản lý tài
sản của các TCTD trở nên cấp thiết, ban đầu tài sản quản lý chủ yếu là tài sản bảo
đảm cho các khoản cấp tín dụng tại TCTD. Từ năm 2001, mơ hình cơng ty quản lý
nợ và khai thác của các TCTD đã có cơ chế pháp lý để ra đời, các TCTD lần lượt
thành lập các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của mình (AMC), đây là loại

hình cơng ty trực thuộc TCTD (TCTD nắm 100% vốn điều lệ) hoạt động theo loại
hình Cơng ty TNHH một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu. Theo Điều lệ mẫu
về tổ chức và hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân
hàng thương mại ban hành theo Quyết định số 1390/2001/QĐ-NHNN ngày
7/11/2001 của NHNN thì các Cơng ty AMC được thực hiện các hoạt động như:
Tiếp nhận, quản lý các khoản nợ tồn đọng (bao gồm: nợ có tài sản bảo đảm và nợ
khơng có tài sản bảo đảm) và tài sản bảo đảm nợ vay (tài sản thế chấp, cầm cố; tài
sản gán nợ; tài sản Toà án giao ngân hàng) liên quan đến các khoản nợ để xử lý, thu
hồi vốn nhanh nhất; Chủ động bán các tài sản bảo đảm nợ vay thuộc quyền định
đoạt của ngân hàng thương mại theo giá thị trường (giá bán tài sản có thể cao hoặc
thấp hơn giá trị nợ tồn đọng) theo hình thức sau: Tự bán công khai trên thị trường;
Bán qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; Bán cho Công ty mua bán nợ của
Nhà nước (khi được thành lập); Cơ cấu lại nợ tồn đọng bằng các biện pháp: giãn nợ,
miễn giảm lãi suất, đầu tư thêm, chuyển đổi nợ thành vốn góp; Xử lý tài sản bảo
đảm nợ vay bằng các biện pháp thích hợp: cải tạo, sửa chữa, nâng cấp tài sản để

9


bán, cho thuê, khai thác kinh doanh, góp vốn, liên doanh bằng tài sản để thu hồi nợ;
Mua, bán nợ tồn đọng của tổ chức tín dụng khác, của các công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản của ngân hàng thương mại khác theo quy định của pháp luật.
Theo thống kê của PG Bank, hiện nay có hơn 30 AMC trực thuộc NHTM.
Bên cạnh đó, có một số NHTM đã được NHNN chấp thuận thành lập AMC nhưng
AMC chưa chính thức đi vào hoạt động (Habubank, VietABank, Vietbank,
Seabank). AMC quản lý chủ yếu các khoản nợ tồn đọng và tài sản bảo đảm nợ vay
cho TCTD. Thực tế, bất cập đối với các hoạt động của AMC là chỉ được mua bán
nợ tồn đọng của TCTD khác mà khơng được mua bán nợ của chính TCTD thành
lập ra AMC, điều này thể hiện chính sách của Nhà nước không muốn AMC trở
thành “sân sau” của TCTD, trở thành nơi mà TCTD chuyển giao, mua bán nợ xấu

nhằm làm sạch số liệu nợ xấu. Chính vì điều này đã khiến cho các TCTD không giải
quyết được triệt để vấn đề nợ xấu, hoạt động của các AMC của các TCTD hiện nay
chủ yếu liên quan đến quản lý tài sản bảo đảm, do đó, nhu cầu về việc phải có một
cơng ty quản lý tài sản chung cho các TCTD, là nơi TCTD có thể mua bán nợ,
chuyển giao quản lý khoản nợ.
Với tất cả các cơ sở lý luận cơ bản nêu trên, hoạt động quản lý tài sản của
các TCTD của VAMC được hiểu rất rộng, bao gồm quản lý các loại tài sản do
TCTD giao quản lý. Tuy nhiên, mục tiêu và tiền đề dẫn đến việc hình thành mơ
hình VAMC chỉ là giải quyết vấn đề nợ xấu, và trong bối cảnh kinh tế xã hội cũng
như hoạt động của các TCTD hiện nay thì nhu cầu quản lý tài sản của TCTD chỉ là
quản lý khoản nợ xấu.
Như vậy, VAMC ra đời với mục đích hoạt động chính là quản lý tài sản cho
các TCTD, có nghĩa chỉ thực hiện chức năng quyền chiếm hữu đối với tài sản, không
chịu rủi ro đối với tài sản được giao quản lý. Đặc biệt, mặc dù khái niệm tài sản rất
rộng và VAMC có tên gọi là “Công ty quản lý tài sản của các TCTD”, nhưng thực tế,
VAMC chỉ quản lý các tài sản là các khoản nợ xấu của TCTD, các khoản nợ xấu này
có thể bao gồm tài sản bảo đảm là bất động sản, động sản và quyền tài sản… . Vấn đề
là với thực tiễn hoạt động hiện nay, vai trò của VAMC với tư cách là người quản lý

10


tài sản cho các TCTD như thế nào, VAMC chỉ đảm bảo sự nguyên vẹn của tài sản
được giao quản lý hay cịn có các biện pháp quản lý và khai thác cũng như xử lý các
khoản nợ xấu để mang lợi ích cho các TCTD. Để trả lời câu hỏi này, tác giả đã phân
tích rõ thực trạng hoạt động của VAMC tại Chương II của Luận văn.
1.1.2. Các loại hình cơng ty quản lý tài sản
Theo Klingebiel D. 2000 [33] tóm tắt thì hiện có 2 loại hình chính mà cơng
ty quản lý tài sản quốc gia sử dụng gồm:
- Loại hình 1: Tập trung tái cấu trúc doanh nghiệp kể cả ngân hàng (mua nợ

xấu và để chúng tự phục hồi). Theo loại hình này thì hoạt động quản lý tài sản chủ
yếu tập trung tái cấu trúc doanh nghiệp (bao gồm cả TCTD) bằng việc chuyển hóa
nợ thành vốn góp, tạo cơ hội cho doanh nghiệp cũng như TCTD tự phục hồi hoạt
động sản xuất kinh doanh, khôi phục sự phát triển và nguồn lợi nhuận để có thể tiếp
tục thanh tốn các khoản nợ xấu.
Với loại hình hoạt động như trên khơng phải có thể áp dụng đối với bất cứ
“Con nợ” nào vì thực tế để xem xét quyết định có nên tiếp tục khơi phục hoạt động
của 1 doanh nghiệp cần phải có sự đánh giá tổng thể trên nhiều yếu tố: khả năng
phục hồi, khả năng phát triển, nhu cầu thị trường đối với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, cơ sở vật chất, năng lực quản lý, trình độ của nhân sự… . Trên cơ sở
có kết quả đánh giá tổng thể này, các Chủ nợ cũng như công ty quản lý tài sản thay
cho chủ nợ mới xem xét có quyết định tái cấu trúc, tham gia góp vốn, quản lý, điều
hành đối với doanh nghiệp và tiếp tục rót vốn để phục hồi hoạt động.
Tuy nhiên, xét về mặt tích cực, với việc phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp không dẫn đến phá sản hoặc giải thể thì việc quản
lý tài sản theo loại hình này mang lại đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế xã hội, tạo sự ổn định, cân bằng và thúc đẩy xã hội phát triển.
- Loại hình 2: Chuyển nhượng nhanh nợ xấu (mua đứt nợ xấu và xử lý
nhanh). Theo loại hình này, sau khi mua nợ xấu về, các công ty quản lý tài sản sẽ
thực hiện chuyển nhượng nhanh nợ xấu và/hoặc xử lý tài sản bảo đảm nhanh để xử
lý dứt điểm nợ xấu, thu hồi vốn.

11


Để thực hiện theo loại hình này, tiềm lực về vốn của công ty quản lý tài sản
phải đủ mạnh hoặc được trao cơ chế rõ ràng để có thể mua dứt điểm nợ xấu của các
TCTD theo giá thị trường hoặc bằng giấy tờ có giá. Ngồi ra, trong quá trình thực
hiện các bước để xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, các công ty quản lý tài
sản theo loại hình này phải được trao quyền thực sự để có thể bán tài sản dứt điểm
và người mua cũng được xác lập đầy đủ quyền sở hữu đối với tài sản sau khi mua vì

đối với q trình xử lý tài sản bảo đảm có thể gặp phải nhiều vướng mắc, bất cập
nếu phụ thuộc vào sự hợp tác của Bên bảo đảm (bên dùng tài sản để bảo đảm cho
nghĩa vụ trả nợ). Do đó, với các công ty quản lý tài sản theo loại hình này, pháp luật
của mỗi quốc gia phải trao quyền năng pháp lý đầy đủ liên quan đến mọi hoạt động
xử lý thì mới giúp các cơng ty này hoạt động thật sự hiệu quả. Tuy nhiên, để thực
hiện hóa điều đó khơng hề đơn giản trong thực tế, điều này phụ thuộc rất nhiều vào
quyết tâm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như sự đồng thuận của tồn
xã hội trong việc trao quyền năng cho cơng ty quản lý tài sản theo loại hình này.
1.2. Sự hình thành mơ hình Cơng ty quản lý tài sản của các tổ chức tín
dụng tại Việt Nam và Malaysia
1.2.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội
Nền kinh tế Việt Nam tồn tại nhiều cơ cấu, trong đó Doanh nghiệp nhà nước
chiếm khoảng 40% GDP, sử dụng 20% lao động, tạo ra 30% doanh thu và sử dụng
20% dư nợ tín dụng của nền kinh tế quốc nội. Một số ngành kinh tế do nhà nước
nắm độc quyền hoặc độc quyền nhóm. Các tổng cơng ty, tập đồn kinh tế chú trọng
đầu tư ngồi ngành dẫn tới khơng hiệu quả, mất vốn (Vinashin, Vinalines…). Hoạt
động quản lý kinh doanh chính khơng hiệu quả và sự suy thối đột ngột của thị
trường bất động sản và thị trường chứng khoán sau năm 2009, sự thắt chặt mạnh mẽ
tài chính cơng và nguồn cung tiền từ 2011 nhằm kiềm chế lạm phát cao đã làm cho
kết quả hoạt động kinh doanh của một số tổng cơng ty, tập đồn kinh tế bị suy giảm,
từ đó làm gia tăng số nợ của doanh nghiệp này. Việc sụt giảm đột ngột kết quả hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước khiến cho vấn đề nợ xấu của khu
vực ngân hàng trở nên trầm trọng. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp khó khăn

12


hơn khi huy động vốn phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh. Việc thu hút các
nguồn vốn FDI hay nguồn vốn ODA bị suy giảm, thị trường bất động sản chững lại
và khơng có khả năng phục hồi, tồn kho tại các dự án bất động sản cao. Ngân sách

tiếp tục thâm hụt, bội chi NSNN, năm 2013, mức thu ngân sách sụt giảm nghiêm
trọng so với các năm (9 tháng đầu năm chỉ đặt 66,6% so với 80% như các năm
trước) dẫn đến nguồn tài trợ cho các phương án xử lý nợ xấu hạn hẹp.
Mặt khác, nợ xấu ngày càng tăng lên đến hàng trăm ngàn tỷ đồng, con số
thống kê nợ xấu thì khơng minh bạch mang dấu hiệu che giấu, khơng có xu hướng
giảm, là một trong những ngun nhân chính làm trì trệ tồn bộ nền kinh tế. Bản
thân các TCTD cũng đã thực hiện rất nhiều biện pháp với nỗ lực của chính mình để
xử lý và hạn chế nợ xấu: thành lập AMC; mua bán nợ với các tổ chức tín dụng
khác; chấp thuận cơ cấu thời hạn trả nợ cho khoản vay của khách hàng; cho vay tái
cơ cấu/tái cấu trúc khoản nợ (cho vay mới để tất toán khoản vay cũ)….Tuy nhiên,
mỗi một biện pháp đều gặp phải những khó khăn và hạn chế nhất định, ví dụ: cho
vay tái cơ cấu dễ bị hiểu sang cho vay đảo nợ nhưng thực chất chưa có quy định nào
của pháp luật để có thể xác định thế nào là đảo nợ, song với những hành lang pháp
lý chưa cụ thể, các tổ chức tín dụng vẫn phải dè dặt đi đêm, vừa đi vừa dò để tránh
đụng phải các quy định của pháp luật.
Khách hàng cũng nỗ lực tối đa phối hợp với TCTD để giải quyết nợ xấu
nhưng trong tình hình kinh tế suy thối, khó khăn thì việc hỗ trợ và nỗ lực cũng ở
chừng mực nhất định. Có thể nói khái qt “lực bất tịng tâm”.
Ngồi AMC thực hiện hoạt động mua bán nợ xấu, tại Việt Nam cũng tồn tại
một số tổ chức có hoạt động liên quan như:
Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC):
DATC hoạt động trên cơ sở giám sát của Bộ Tài chính, DATC sẽ mua các
khoản nợ và tài sản của DN trong các trường hợp sau: (i) Các khoản nợ và tài sản
của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào; (ii) Các khoản nợ và tài sản đã được loại trừ
khơng tính vào giá trị của DNNN khi thực hiện sắp xếp hoặc chuyển đổi DNNN;
(iii) các khoản nợ và tài sản theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, các

13



khoản nợ thuộc (i) và (ii) chỉ áp dụng đối với các khoản nợ và tài sản của DNNN.
Việc mua nợ của DATC trong từng trường hợp sẽ tuân theo các điều kiện nhất định.
Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC):
SCIC do Chính phủ quản lý. Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền quyết định
đối với hầu hết các quyết định quản lý của SCIC và Bộ Tài chính có chức năng tư
vấn. Liên quan đến nợ xấu, SCIC có một vài chức năng hỗ trợ gián tiếp hoặc trực
tiếp sau: cung cấp dịch vụ tài chính như tư vấn đầu tư, tư vấn cổ phần hóa, tư vấn
tái cơ cấu doanh nghiệp, tư vấn tài chính và các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp; quản
lý quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp.
DATC hoạt động như một Công ty mua bán nợ bình thường và tập trung đối
tượng là các doanh nghiệp nhà nước. SCIC hoạt động giống như một nhà đầu tư
nắm vốn của Nhà nước, sở hữu và đầu tư vốn vào các doanh nghiệp nhà nước, các
cơng ty có vốn đầu tư của nhà nước cũng như thực hiện các hình thức đầu tư khác.
Từ bối cảnh kinh tế - xã hội nêu trên, vấn đề thiết lập mô hình xử lý nợ xấu
phù hợp cho Việt Nam đã được đặt ra từ năm 2011 và việc VAMC ra đời là cần
thiết đối với nhu cầu xử lý nợ xấu hiện nay. VAMC có mục đích hoạt động chính là
quản lý tài sản cho các TCTD, có nghĩa chỉ thực hiện chức năng quyền chiếm hữu
đối với tài sản, không chịu rủi ro đối với tài sản được giao quản lý. Đặc biệt, mặc dù
khái niệm tài sản rất rộng, nhưng thực tế, VAMC quản lý các tài sản là các khoản
nợ xấu của TCTD, các khoản nợ xấu này có thể bao gồm tài sản bảo đảm là bất
động sản, động sản và quyền tài sản….Vai trò của VAMC ngồi sự đảm bảo tài sản
ngun vẹn, cịn phải có các biện pháp quản lý và khai thác cũng như xử lý các
khoản nợ xấu để mang lợi ích cho các TCTD.
Liên hệ với bối cảnh kinh tế xã hội dẫn đến sự ra đời của Công ty quản lý tài
sản quốc gia Danaharta (mơ hình của Malaysia) thì Danaharta cũng là hệ quả của
tác động của nền kinh tế, do ảnh hưởng trực tiếp của khủng hoảng tài chính Châu Á
năm 1997. Ngay sau khi đồng baht bị thả nổi, đồng ringit của Trung tâm chứng
khoán KualaLumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Sức ép giảm giá đối với đồng
ringit chủ yếu là do việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài.


14


Đầu tư nước ngoài rớt xuống mức báo động, chỉ số tổng hợp TTCK KualaLumpur
mất gần 1.300 điểm xuống gần mức 400 sau vài tuần. Sức tàn phá của cuộc khủng
hoảng tiền tệ Đông Á đã để lại những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, làm mất giá
tiền tệ, sụp đổ TTCK, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á, nhiều doanh nghiệp bị
phá sản, hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các năm 19971998. Cuộc khủng hoảng này còn dẫn đến sự mất ổn định chính trị và xã hội, góp
phần làm tăng nợ xấu của Malaysia [8, tr.39-40].
Khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 đã làm đồng ringgit mất đến 50% giá
trị, niềm tin tiêu dùng suy giảm trầm trọng. Nếu như các khoản nợ xấu tại thời kỳ
ngay trước khủng hoảng dao động từ 2-3% thì khi bong bóng vỡ ra, tỷ lệ nợ xấu
tăng lên hai con số, đỉnh điểm vào tháng 8/1998 khi nợ xấu lên đến 11,4%, thị
trường chứng khoản sụt giảm. Đối mặt với khủng hoảng kinh tế và tình trạng nợ xấu
tăng cao, việc trơng chờ vào các biện pháp xử lý của chính các ngân hàng khơng
cịn khả thi. Các vấn đề này nếu khơng được giải quyết ổn thỏa sẽ đe dọa sự ổn định
của khu vực ngân hàng cũng như sự ổn định kinh tế vĩ mơ nói chung và cản trở
phục hồi kinh tế. Trong điều kiện mối liên hệ chặt chẽ giữa khu vực tài chính và
doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp với nhau, một phương pháp toàn diện là cần thiết.
Vì thế, Chính phủ Malaysia buộc phải lập ra 3 tổ chức để giảm nợ xấu, lành mạnh
hệ thống tài chính và khơi phục lại đà tăng trưởng: (i) Danaharta để xử lý nợ xấu;
(ii) Ủy ban tái cơ cấu nợ doanh nghiệp (CDRC) để thỏa thuận với các ngân hàng có
nợ xấu; (iii) Danamodal (một tổ chức tái cấp vốn) để bơm vốn cho hệ thống tài
chính. Trong 3 thiết chế trên, Danaharta là trung tâm của kế hoạch.
Như vậy, đặc điểm chung về bối cảnh kinh tế dẫn đến sự ra đời mơ hình
quản lý tài sản tại hai quốc gia Việt Nam và Malaysia đều xuất phát từ sự suy thoái,
khủng hoảng về kinh tế dẫn đến đồng tiền quốc gia bị mất giá, nợ xấu gia tăng, thị
trường chứng khoán lao dốc, thị trường bất động sản đóng băng…Mục tiêu thành
lập các mơ hình này nhằm ổn định hoạt động ngân hàng và tạo ra một hệ thống tài
chính vững mạnh, minh bạch, giảm tỷ lệ nợ xấu. Việt Nam là nước đi sau nên mơ

hình VAMC cũng học hỏi kinh nghiệm của Danahatar và có sự thay đổi để phù hợp
với mơi trường chính trị - kinh tế của Việt Nam.

15


1.2.2. Tác động của Nợ xấu
1.2.2.1. Thực trạng nợ xấu hiện nay
Nợ xấu trên toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có lúc tăng lên mức trên 4%
như năm 2003 hay trên 7% năm 2002, sau đó tỷ lệ này giảm dần và ổn định ở mức trên
dưới 3%. Tuy nhiên, trong những năm trở lại đây, khi lãi suất tăng cao và thanh khoản
của nhiều ngân hàng không đảm bảo, vấn đề nợ xấu có xu thế tăng dần. Tỷ lệ nợ xấu
của toàn hệ thống đã tăng không ngừng từ đầu năm 2011, từ mức 2,4% T1/2011, tỷ lệ
nợ trên toàn hệ thống đã tăng lên 4,5% vào quý 2 năm 2012, trong đó chiếm 95% nợ
xấu là của các ngân hàng thương mại. Như vậy trong vòng 18 tháng nợ xấu đã tăng
2,1% tương đương mức gần gấp đơi, trung bình tăng 0,116% mỗi tháng.
Trong 9 tháng đầu năm 2012, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại
tăng nhanh. Top 3 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao nhất là BaoVietBank, Navibank,
Vietcombank. Nợ xấu đặc biệt tăng mạnh tại các ngân hàng như Vietcombank từ
2% lên 3,21%; của ACB từ 0,9% lên 2,1%; của Sacombank từ 0,57% lên 1,4%; của
BaoVietBank từ 4,56% lên 6,13%; của NaviBank từ 2,92% lên 3,97%. Đáng lưu ý
trong bức tranh nợ xấu của các ngân hàng thời gian qua là nhóm nợ có khả năng
mất vốn (nợ nhóm 5) mà ngân hàng phải trích dự phịng rủi ro 100%. Theo báo cáo
tài chính, hiện nay tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn trên dư nợ cho vay khách hàng của
BaoVietBank đang ở mức cao nhất với 2,93%, tiếp đến là của LienVietPostBank
với 1,46%; của Vietcombank là 1,42%; của BIDV là 1,22%; của MB là 1,07%; của
KienLongBank là 1,36%. Nợ có khả năng mất vốn của các ngân hàng khác trong
khi đó cũng xấp xỉ mức 1% trên dư nợ cho vay khách hàng như Vietinbank là
0,86%; của Techcombank 0,99%; của ACB là 0,81%; PGBank 0,83%...
Đến năm 2013, tỷ lệ nợ xấu vẫn tiếp tục tăng cao, toàn hệ thống ngân hàng đã

chạm mức 4,67% vào tháng 4/2013, đến tháng 6/2013 chỉ còn ở mức 4,46%, giảm
đáng kể so với mức 4,65% tính đến cuối tháng 5/2013. Qua báo cáo tài chính 6 tháng
đầu năm 2013 của nhiều ngân hàng, tình hình nợ xấu có vẻ lạc quan khi phần lớn đều
kiểm soát được dưới 3% tổng dư nợ. Cụ thể, trong 15 ngân hàng đã công bố, chỉ có 3
đơn vị có nợ xấu trên 3%, gồm NaviBank (6,1%), SHB (9,04%) và TechcomBank

16


(5,28%). Còn lại hầu hết vẫn dưới 3% như MB 2,44%; Sacombank 2,5%, ACB 2,98%,
BIDV 2,78%, VietinBank 2,10%, VietcomBank 2,80%, VPBank 2,62%; TienPhong
Bank 2,77%; OCB 2,5% và SouthernBank 2,77%.
Tuy nhiên, con số trên được NHNN cập nhật trên cơ sở báo cáo định kỳ của
các TCTD. Còn con số qua giám sát từ xa của cơ quan này, thường cao hơn nhiều
và hiện chưa có cơng bố chính thức để so sánh. Nhiều chuyên gia kinh tế cũng lo
ngại, con số thực mà các ngân hàng chưa cơng bố cịn cao hơn mức trên khơng ít.
Vì vậy, trên thực tế, nợ xấu vẫn là vấn đề đáng báo động.
Theo số liệu mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống
tại thời điểm tháng 4/2014 là 4,01%. Đây là tháng thứ 2 liên tiếp tỷ lệ nợ xấu tăng, từ
các mức 3,61% cuối năm 2013 và 3,73% và 3,86% của tháng 1 và tháng 2 năm 2014.
1.2.2.2. Nguyên nhân gây ra nợ xấu
Thực tế đã cho thấy, dù các TCTD đã thẩm định chặt chẽ và thận trong khi
đưa ra quyết định cấp tín dụng đối với khách hàng nhưng cũng không thể tránh
được rủi ro nợ xấu. Do đó, nguyên nhân gây ra nợ xấu tại các TCTD xuất phát từ
yếu tố chủ quan cũng như khách quan từ phía TCTD và khách hàng vay.
a) Nguyên nhân chủ quan:
Các nguyên nhân này hình thành do khung pháp lý hiện nay chưa chặt chẽ,
còn nhiều kẽ hở để TCTD có thể lợi dụng nhằm đạt được mục tiêu cấp tín dụng cho
khách hàng và sự khơng hiểu biết, suy thối đạo đức của các cán bộ ngân hàng khi
vơ tình hoặc cố ý làm sai quy định. Thực tế đã diễn ra thực trạng các cán bộ tín

dụng tiếp tay cho ngân hàng (lập phương án kinh doanh, báo cáo khống về năng lực
tài chính cũng như tài sản bảo đảm…).
Từ phía TCTD:
Thứ nhất, tổ chức, nhân sự và biện pháp quản trị rủi ro của các TCTD cịn
nhiều hạn chế, chỉ có khoảng 40% TCTD tiếp cận được chuẩn quốc tế (Basel III);
Thứ hai, chạy đua tăng trưởng tín dụng diễn ra trong thời gian dài, ln trên
20%, thậm chí lên tới 51,39% (năm 2007), cùng với việc nới lỏng điều kiện cho vay
khiến nợ xấu tăng cao;

17


Thứ ba, tác động của kinh tế thế giới phục hồi chậm và kinh tế trong nước
tăng trưởng chậm lại làm cho doanh nghiệp (DN) gặp khó khăn trong sản xuất, kinh
doanh, hàng tồn kho tăng cao, khơng cịn khả năng trả nợ ngân hàng. Đối với khu
vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có nợ xấu nhiều là do khu vực này được
hưởng những ưu đãi về tín dụng nên các DNNN có xu hướng sử dụng địn bẩy tài
chính nhiều hơn các DN khu vực khác. Tuy tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của DNNN
có xu hướng giảm trong những năm gần đây nhưng vẫn ở mức 2,52 lần vào năm
2009, cao hơn nhiều so với mức 1,78 lần của khu vực tư nhân và 1,39 lần của khu
vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Các DNNN trung ương thậm chí có tỷ lệ
này cao hơn, lên tới 3,53 lần;
Thứ tư, sở hữu chéo, đầu tư ngoài ngành của các ngân hàng và DNNN diễn
ra phổ biến đã dẫn tới các khoản cho vay, đầu tư lòng vòng, bất chấp quy định, gây
hậu quả nghiêm trọng;
Thứ năm, Nợ xấu cịn có ngun nhân sâu xa từ đạo đức nghề nghiệp của
một số cán bộ ngân hàng và khách hàng, một số cán bộ ngân hàng suy thối đạo đức
nghề nghiệp, cấu kết, móc ngoặc với DN để trục lợi cá nhân và cho vay không đúng
quy định. Kinh doanh ngân hàng dựa trên sự tin cậy và mức độ tín nhiệm thì đạo
làm nghề ngân hàng khơng chỉ cần thiết mà cịn mang tính bắt buộc. Tuy nhiên, do

nhiều nguyên nhân mà một số cán bộ ngân hàng đã cấu kết với khách hàng để che
giấu sự thật, gian lận, cố ý làm trái quy định của NHNN, của NHTM. Mặc dù chưa
có số liệu cơng bố nhưng trong tổng số nợ xấu đó, một tỷ lệ không nhỏ nảy sinh từ
vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Thứ sáu, vấn đề định giá tài sản bảo đảm và thủ tục định giá còn nhiều
vướng mắc về giá cả, cơ chế.
Thứ bảy, hiệu quả công tác thanh tra, giám sát cịn hạn chế, nhất là khơng kịp
thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm quy định về hạn chế cấp tín dụng và
đầu tư một số lĩnh vực rủi ro cao.
Ngoài ra, do năng lực tài chính của TCTD chưa đủ mạnh nên cơng tác xử lý
nợ xấu chưa thực sự hiệu quả.

18


Từ phía khách hàng:
Bên cạnh những lý do khách quan, nhiều khách hàng năng lực tài chính yếu
kém nhưng có tư tưởng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để tính tốn lừa đào, sử dụng
vốn sai mục đích, vay khơng có ý định trả nợ hoặc vay tràn làn nhưng sử dụng vốn
không hiệu quả dẫn đến mất vốn. Vì vậy, các nguyên nhân gây ra nợ xấu đến từ
phía khách hàng bao gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan:
- Khách hàng vay vốn gặp nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh như thiên
tai, lũ lụt, hỏa hoạn, dịch bệnh, chiến tranh… có thể làm phá sản cả một hệ thống
kinh doanh và đặt khách hàng vay vào tình trạng thua lỗ, mất khả năng trả nợ.
- Khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định, doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và
có đủ năng lực tài chính để trả nợ, tuy nhiên, khi kinh tế rơi vào suy thoái, mất ổn
định khiến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, sản xuất bị
đình trệ, sức mua giảm, hàng hóa ứ đọng và tất yếu sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
- Tác động của mơi trường pháp lý, chính sách của nhà nước: Nếu Chính phủ

thực hiện chính sách kinh tế với mục tiêu tăng trưởng kinh tế sẽ tiềm ẩn nguy cơ
lạm phát, khi lạm phát tăng cao sẽ làm tăng chi phí đầu vào của khách hàng, gây
khó khăn cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hoặc thay đổi trong cơ chế chính
sách của Chính phủ như: thay đổi quy hoạch hạ tầng, thay đổi cơ chế lãi suất, chính
sách thuế… làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của khách hàng vay dẫn đến
khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm.
- Một thói quen khơng tốt hiện nay của các TCTD là ưu đãi doanh nghiệp
nhà nước trong khi chưa thật sự quan tâm đến các doanh nghiệp thuộc khối tư nhân
mặc dù các doanh nghiệp này phát triển bền vững hoặc làm ăn có lãi. Các DNNN
tiếp cận vốn dễ nhưng đầu tư tràn lan, khơng có khả năng thu hồi vốn gây mất khả
năng thanh khoản, trả nợ cho ngân hàng.
- Khách hàng khơng trung thực khi làm hồ sơ xin cấp tín dụng tại các TCTD
dẫn đến việc thẩm định của TCTD khơng chính xác, trong khi năng lực quản trị rủi
ro của các TCTD khơng phải đã chặt chẽ, từ đó, khách hàng lợi dụng cán bộ tín

19


dụng của TCTD thiếu hiểu biết để móc ngoặt, cố ý làm sai gây ra thất thốt vốn và
khó thu hồi khoản nợ của TCTD.
b) Nguyên nhân khách quan
Ngoài các nguyên nhân trên, còn một số nguyên nhân liên quan đến chính
sách pháp luật về bảo đảm tiền vay gây khó khăn cho TCTD cũng như khách hàng
khi xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ:
- Các bất cập liên quan đến điều kiện của tài sản bảo đảm, cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu tài sản bảo đảm khi xử lý.
- Chưa trao quyền chủ động cho TCTD khi xử lý tài sản bảo đảm dẫn đến
trình tự xử lý tài sản bảo đảm kéo dài, chi phí lớn mà khơng hiệu quả.
Tóm lại, những bất cập trong phân loại nợ, vấn đề sở hữu chéo, vấn đề đạo
đức nghệ nghiệp... đã làm nảy sinh nợ xấu tại các ngân hàng và có chiều hướng

ngày càng tăng. Cho dù nợ xấu ở mức nào thì hiện tại đã và đang tác động tiêu cực
đến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, đến việc lưu thơng dịng vốn vào nền
kinh tế và tính an tồn, hiệu quả kinh doanh của chính các ngân hàng. Chừng nào
chưa xử lý được vấn đề này thì việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ
không đạt hiệu quả.
1.2.2.3. Tác động của nợ xấu
Thực tế nhiều khoản nợ ở Việt Nam khơng “q xấu”, bởi các khoản nợ có
tài sản đảm bảo chiếm trên 84%, tài sản này có giá trị bằng khoảng 125- 130%
khoản nợ xấu (ví dụ: đối với khoản vay có tài sản bảo đảm là bất động sản, các
TCTD thường cho vay với tỷ lệ bằng 65-70% trên giá trị tài sản bảo đảm). Nhiều
khoản nợ được trích lập dự phịng rủi ro, các TCTD đã trích lập trên dưới 70.000 tỷ
đồng cho việc này. Có thể gọi đây là các khoản nợ khơng sinh lời và hồn tồn có
cơ sở để xử lý. Tuy nhiên, nợ xấu tăng dẫn đến hoạt động ngân hàng khơng ổn định
và ảnh hưởng đến chính các TCTD, khách hàng vay, đến sự phát triển của nền kinh
tế. Tác động của nợ xấu đến từng góc độ được thể hiện như sau:
Tác động đến hoạt động của các TCTD:
Tỷ lệ nợ xấu tăng cao thể hiện sự kém hiệu quả trong quản trị rủi ro của

20


×