Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tổ chức giới thiệu việc làm theo pháp luật lao động việt nam hiện nay luận văn ths luật 60 38 50

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 153 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ TUYẾT NHUNG

TỔ CHỨC GIỚI THIỆU VIỆC LÀM
THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN
NAY
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hữu Chí

Hµ néi - 2007


MỤC LỤC

Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU

Chương 1:


1
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ VIỆC LÀM

6

VÀ TỔ CHỨC GIỚI THIỆU VIỆC LÀM

1.1.

Khái quát chung về việc làm

6

1.1.1.

Quan niệm về việc làm

6

1.1.1.1. Quan niệm về việc làm của các nước trên thế giới

6

1.1.1.2. Quan niệm về việc làm ở Việt Nam

11

1.1.2.

17


Tầm quan trọng của việc làm

1.1.2.1. Về mặt xã hội

17

1.1.2.2. Về mặt kinh tế

18

1.2.

Tổ chức giới thiệu việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam

19

1.2.1.

Một số khái niệm

19

1.2.1.1. Dịch vụ việc làm và giới thiệu việc làm

19

1.2.1.2. Tổ chức giới thiệu việc làm

21


1.2.2.

Sơ lược lịch sử pháp luật về tổ chức giới thiệu việc làm
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

23

1.2.2.1. Vài nét về sự hình thành và phát triển tổ chức giới thiệu việc
làm trên thế giới

23

1.2.2.2. Sơ lược lịch sử pháp luật về tổ chức giới thiệu việc làm
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

29


1.3.

Vai trò của tổ chức giới thiệu việc làm

38

1.3.1.

Vai trò đối với người lao động

38


1.3.2.

Vai trò đối với người sử dụng lao động

39

1.3.3.

Vai trò đối với quản lý nhà nước về thị trường lao động

40

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG HIỆN HÀNH

42

VỀ TỔ CHỨC GIỚI THIỆU VIỆC LÀM - THỰC
TRẠNG ÁP DỤNG

2.1.

Quy định của pháp luật lao động hiện hành về tổ chức giới
thiệu việc làm

42

2.1.1.

Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức giới thiệu

việc làm

42

2.1.1.1. Chức năng của tổ chức giới thiệu việc làm

42

2.1.1.2. Nhiệm vụ của tổ chức giới thiệu việc làm

45

2.1.1.3. Quyền hạn của tổ chức giới thiệu việc làm

54

2.1.2.

Quy định của pháp luật lao động hiện hành về điều kiện, thủ
tục thành lập tổ chức giới thiệu việc làm

59

2.1.2.1. Điều kiện, thủ tục thành lập trung tâm giới thiệu việc làm

59

2.1.2.2. Điều kiện, thủ tục và thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động
giới thiệu việc làm cho doanh nghiệp


65

Quy định của pháp luật về cơ cấu tổ chức và hoạt động của
tổ chức giới thiệu việc làm

69

2.1.3.

2.1.3.1. Về cơ cấu tổ chức

69

2.1.3.2. Về hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm

71

2.1.4.

Quản lý nhà nước đối với tổ chức giới thiệu việc làm

75

2.1.4.1. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với tổ chức giới thiệu
việc làm

75

2.1.4.2. Nội dung quản lý đối với tổ chức giới thiệu việc làm


76


2.1.4.3. Các công cụ quản lý

77

2.2.

Nội dung quản lý đối với tổ chức giới thiệu việc làm

79

2.2.1.

Thực trạng áp dụng pháp luật lao động đối với trung tâm
giới thiệu việc làm

79

2.2.1.1. Về cơ sở vật chất

79

2.2.1.2. Về cơ cấu tổ chức

82

2.2.1.3. Về tài chính


86

2.2.1.4. Về hoạt động của các trung tâm giới thiệu việc làm

88

2.2.2.

Thực trạng áp dụng pháp luật lao động đối với các doanh
nghiệp giới thiệu việc làm

98

2.2.2.1. Những mặt được

91

2.2.2.2. Những hạn chế, tồn tại

100

2.3.

Đánh giá chung về tổ chức và hoạt động của tổ chức giới
thiệu việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam

108

2.3.1.


Những mặt được

108

2.3.2.

Những hạn chế, tồn tại

108

Chương 3:

NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

112

HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC GIỚI THIỆU VIỆC
LÀM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.

Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật lao động nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm

112

3.1.1.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của
tổ chức giới thiệu việc làm phải đáp ứng yêu cầu phát triển

kinh tế - xã hội và thị trường lao động hiện nay ở Việt Nam

112

3.1.2.

Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức giới thiệu
việc làm phải phù hợp với sự vận động, hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam và các công cụ hỗ trợ khác đồng thời
phải gắn với mục tiêu cải cách hành chính

115


3.1.3.

Hoàn thiện pháp luật về tổ chức giới thiệu việc làm phải phù
hợp với xu thế hội nhập quốc tế

116

3.2.

Các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
tổ chức giới thiệu việc làm

117

3.2.1.


Các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật

117

3.2.2.

Một số giải pháp hoàn thiện về mặt tổ chức nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm

122

3.2.2.1. Một số giải pháp đối với các trung tâm giới thiệu việc làm

122

3.2.2.2. Một số giải pháp đối với các doanh nghiệp hoạt động giới thiệu
việc làm

125

3.3.

Các giải pháp khác

126

3.3.1.

Về công tác cán bộ


126

3.3.2.

Về công tác quản lý nhà nước đối với tổ chức giới thiệu việc làm

126

3.3.3.

Về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

127

KẾT LUẬN

133

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

136


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLLĐ

: Bộ luật Lao động

CNH, HĐH : Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

GTVL

: Giới thiệu việc là

LĐTB&XH : Lao động Thương binh và Xã hội
UBND

: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng
lao động, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội là mối quan tâm
hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát
triển và có nguồn nhân lực dồi dào.
Ở nước ta, kể từ khi thực hiện chuyển đổi cơ chế từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nảy
sinh, trong đó có vấn đề việc làm cho người lao động. Nếu như trước thời kỳ đổi
mới, việc làm cho người lao động chủ yếu do Nhà nước phân cơng thì sau đổi
mới, "giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có
cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn
xã hội" [13]. Trong bối cảnh đó, cùng với sự gia tăng nguồn nhân lực xã hội, sắp
xếp lại sản xuất và tinh giảm biên chế trong khu vực nhà nước…, nhu cầu về
việc làm của người lao động ngày càng trở nên cấp bách. Đây chính là cơ sở cho
sự hình thành và phát triển tổ chức GTVL ở nước ta.
Ngày nay, hệ thống tổ chức GTVL ở nước ta đã tương đối phát triển
và đa dạng. Trong nền kinh tế thị trường, tổ chức GTVL có vai trị quan trọng
trong công tác giải quyết việc làm, là chiếc cầu nối giữa người sử dụng lao

động và người lao động. Hoạt động của hệ thống tổ chức GTVL trong những
năm qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tìm kiếm việc làm, góp
phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động, đặc biệt góp phần quan
trọng trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, giảm
tỷ lệ thất nghiệp trong cả nước.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay đứng trước sự biến động và sự
phát triển của thị trường lao động trong và ngoài nước, các tổ chức GTVL đã

1


gặp khơng ít những khó khăn, thách thức như: Năng lực hoạt động còn hạn
chế, sự am hiểu về thị trường lao động còn yếu và nhiều bất cập, nhiều hoạt
động chưa đáp ứng được yêu cầu của người lao động, đặc biệt là trong lĩnh
vực trao đổi, cung cấp thông tin về lao động và việc làm... Điều này là do
nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động GTVL trong phát triển thị trường lao
động còn chưa đầy đủ, thiếu thống nhất; một số địa phương, các cơ quan, tổ
chức và các cấp lãnh đạo chưa thực sự quan tâm đầu tư, bố trí đủ kinh phí cho
các tổ chức GTVL hoạt động có hiệu quả; thiếu chính sách đồng bộ và dài
hạn như chính sách đầu tư cơ sở vật chất, chính sách cán bộ, chính sách tài
chính…; thiếu quy hoạch hệ thống tổ chức GTVL của cả nước và ở từng địa
phương.
Từ thực trạng trên cho thấy việc nghiên cứu những vấn đề về lý luận
cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật lao động về tổ chức
GTVL nhằm làm rõ vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức
GTVL trên cơ sở đó tìm ra những vấn đề hợp lý và bất hợp lý trong việc áp
dụng pháp luật lao động đối với hoạt động GTVL nhằm góp phần hoàn thiện
các quy định của pháp luật lao động về tổ chức GTVL là một việc làm hết sức
cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài "Tổ chức
giới thiệu việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay" làm đề tài

nghiên cứu cho luận văn cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến hoạt động của tổ chức GTVL có rất nhiều bài viết, các
báo cáo về hoạt động của các trung tâm GTVL như: Báo cáo "Dự án quy
hoạch hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm giai đoạn 2004 - 2010" của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội, 2004; "Thực trạng hoạt động của hệ
thống trung tâm giới thiệu việc làm và phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp
phát triển đến năm 2010" của Vụ Lao động - Việc làm, Bộ Lao động Thương binh và xã hội; "Báo cáo đánh giá tình hình hoạt động giới thiệu việc
làm

2


5 năm 2001 - 2005" của Sở Lao động - Thương binh và xã hội thành phố Hà
Nội…; trên các báo, tạp chí, các trang Web… thường có các bài viết đánh giá
về tình hình hoạt động của tổ chức GTVL dưới nhiều góc độ như: "Bàn về
việc nâng cao năng lực và hiện đại hóa các trung tâm giới thiệu việc làm" của
tác giả Lê Quang Trung, Vụ Lao động - Việc làm đăng trên Bản tin thị trường
lao động số 6/2005; bài viết "15 năm hoạt động giới thiệu việc làm và phương
hướng đổi mới giai đoạn tới" của tác giả Nguyễn Đại Đồng, Vụ Lao động Việc làm; bài viết "Vai trò của trung tâm giới thiệu việc làm với chế độ bảo
hiểm thất nghiệp" của tác giả Lê Quang Trung, Phó Vụ trưởng Vụ Lao động Việc làm đăng trên tạp chí Lao động và Xã hội, số 313, từ ngày 1630/6/2007…
Các báo cáo, các bài viết liên quan đến hoạt động của tổ chức GTVL
chủ yếu ở góc độ kinh tế - xã hội thơng qua các hoạt động cụ thể của các
trung tâm GTVL như: tư vấn, GTVL, cung ứng lao động và thông tin thị
trường lao động, nhưng cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu
chun sâu về tổ chức và hoạt động của tổ chức GTVL dưới phương diện
pháp luật và kinh tế - xã hội.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn có mục đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng
các quy định của pháp luật lao động về tổ chức GTVL, từ đó đề xuất những

giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động về tổ chức
GTVL ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về tổ chức và
hoạt động của tổ chức GTVL; thực trạng và thực tiễn áp dụng các quy định
của pháp luật đối với hoạt động của tổ chức GTVL; những yêu cầu và các giải
pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức GTVL hiện nay.
- Luận giải những vấn đề về lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt
động của các tổ chức GTVL hiện nay ở Việt Nam,

3


- Phân tích thực trạng và đánh giá tình hình thực hiện các quy định của
pháp luật lao động về tổ chức và hoạt động của các tổ chức GTVL hiện nay ở
Việt Nam.
- Trên cơ sở các vấn đề nghiên cứu ở trên đưa ra giải pháp nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật về tổ chức GTVL ở nước ta hiện nay.
Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình hoạt động của tổ chức GTVL
theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay trong phạm vi cả nước, nhất là
trong những năm gần đây.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối
của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt động của
các tổ chức GTVL cũng như các vấn đề khác có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp khoa học chuyên
ngành và liên ngành, trong đó coi trọng phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê, khảo sát và tổng kết thực tiễn.
5. Những đóng góp mới của luận văn

- Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu về "Tổ chức giới thiệu việc làm
theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay".
- Với kết quả nghiên cứu của luận văn, tác giả hy vọng góp phần nâng
cao nhận thức về hoạt động GTVL, nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ
thể pháp luật trong việc xây dựng và thực hiện các quy định của pháp luật về
tổ chức GTVL.
- Bước đầu luận văn đưa ra yêu cầu, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
các quy định của pháp luật lao động về tổ chức GTVL ở Việt Nam hiện nay.

4


- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy những vấn đề liên quan đến chuyên ngành Luật Lao động trong các
trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề pháp lý cơ bản về việc làm và tổ chức giới
thiệu việc làm.
Chương 2: Những quy định của pháp luật lao động về tổ chức giới
thiệu việc làm - Thực trạng áp dụng
Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ
chức giới thiệu việc làm ở Việt Nam hiện nay.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ VIỆC LÀM

VÀ TỔ CHỨC GIỚI THIỆU VIỆC LÀM

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆC LÀM

1.1.1. Quan niệm về việc làm
Lao động và việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính tồn
cầu, là mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia trên thế giới.
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã
hội và nhân khẩu, nó thuộc những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã
hội, việc làm là một khái niệm hết sức trừu tượng. Vì, việc làm được coi là
một trong những vấn đề sống cịn của tồn xã hội, nó khơng chỉ có ý nghĩa
đơn thuần là có việc để làm, mà việc làm cịn được hiểu dưới nhiều góc độ
khác nhau như: kinh tế, xã hội, chính trị, pháp lý cũng như phải đáp ứng được
các yêu cầu đặt ra mới được coi là việc làm.
Dựa vào đặc điểm kinh tế - xã hội của mỗi nước, tùy theo cách tiếp
cận khác nhau, song phải phù hợp với các tiêu chí chung trong quan niệm về
việc làm của ILO, nên các quốc gia trong đó có Việt Nam đã đưa ra quan
niệm về việc làm khác nhau.
1.1.1.1. Quan niệm về việc làm của các nước trên thế giới
Việc làm là một vấn đề kinh tế - xã hội hết sức nhạy cảm, an toàn về
việc làm là một trong những yếu tố cơ bản để bảo đảm cho sự phát triển và
bền vững của mỗi quốc gia. Muốn giải quyết một cách có hiệu quả về những
vấn đề liên quan đến việc làm, điều đầu tiên là các quốc gia phải đưa ra khái
niệm về việc làm, cũng như phải phân biệt rõ khái niệm việc làm với khái
niệm lao động. Hai khái niệm này mặc dù luôn đi đôi với nhau và giữa chúng

6


có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhưng chúng không hề đồng nhất với

nhau.
Lao động là hoạt động của con người diễn ra giữa con người với tự nhiên.
Như C.Mác đã nói: "Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người
với tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con
người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên.
Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại" [28, tr. 193].
Ngày nay, khái niệm lao động đã được mở rộng. Lao động là hoạt động
có mục đích, có ích của con người tác động lên giới tự nhiên, xã hội nhằm
mang lại của cải vật chất, tinh thần cho bản thân và cho xã hội.
Bất cứ một xã hội nào muốn tồn tại và phát triển đều phải khơng
ngừng phát triển sản xuất. Điều này có nghĩa là không thể thiếu lao động, lao
động là nguồn gốc và động lực phát triển của xã hội. Bởi vậy, xã hội càng văn
minh thì tính chất, hình thức và phương pháp tổ chức lao động sẽ càng tiến
bộ.
Khái niệm về việc làm chỉ xuất hiện khi lao động đã trở thành một nhu
cầu sáng tạo, một lối sống văn hóa của con người, và việc làm lúc này khơng
chỉ là vấn đề kiếm sống mà còn là điều kiện để hoàn thiện và phát triển nhân
cách của con người.
Trên thế giới, khái niệm việc làm chủ yếu được nêu trong các ấn
phẩm, các cơng trình nghiên cứu của cá nhân hoặc nhóm các cá nhân.
Theo Giăng Mute, cố vấn của Văn phịng ILO (Giơ-ne-vơ): "Việc làm
có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có trả cơng bằng tiền hoặc
hiện vật do có một sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào
nỗ lực sản xuất".
Còn theo Guy Hân-tơ, chuyên viên Viện phát triển hải ngoại Luân Đôn:
"Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa

7



là tất cả những gì quan hệ đến cách thức kiếm sống của con người, kể cả các
quan hệ xã hội và tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế".
Để hiểu rõ và sâu hơn khái niệm lao động, việc làm với tư cách là đối
tượng của các vấn đề liên quan đến lao động, việc làm thì chúng ta khơng chỉ
dừng lại ở các khái niệm chung về lao động, việc làm như trên, mà cịn phải
tìm hiểu các khái niệm liên quan như: Lực lượng lao động; người có việc làm;
thất nghiệp.
Để làm rõ hệ thống khái niệm khái niệm trên, ILO đã đưa ra quan niệm
về lực lượng lao động và mô tả nó bằng sơ đồ có tính chất chung nhất như sau:
Cơ cấu về lực lượng lao động [37, tr. 39]
Dân số trong độ tuổi lao động quy định (A)

Có việc làm
(B)

Khơng có việc làm
(C)

Muốn làm việc

Khơng muốn
làm việc

E
- Chủ động tìm việc
- Sẵn sàng tìm việc

Khơng chủ động
tìm việc


U
Lực lượng lao động

N

N

E: Người có việc làm
U: Người thất nghiệp
N: Người không tham gia
hoạt động kinh tế

8

Không thuộc lực
lượng lao động


Theo sơ đồ trên, ILO đã đưa ra một số khái niệm sau:
- Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định
(tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế - chính trị của từng nước) thực tế có tham gia
lao động và những người khơng có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc
làm.
Về cơ bản khái niệm lực lượng lao động nêu trên được thống nhất ở
nhiều nước và cũng là khái niệm chính thức mà ILO đưa ra. Điều khác nhau ở
mỗi nước chủ yếu là độ tuổi quy định, ở đây có hai sự khác biệt. Khác biệt
thứ nhất là quy định giới hạn độ tuổi tối thiểu. Ví như Ai Cập độ tuổi tối thiểu

6 tuổi; Braxin là 10 tuổi, Ôxtrâylia là 15 tuổi, ở Mỹ là 16 tuổi, phần lớn các
nước quy định độ tuổi này là từ 14 hoặc 15 tuổi. Khác biệt thứ hai là quy định

giới hạn về độ tuổi tối đa của lực lượng lao động. Ở một vài nước công
nghiệp như: Đan Mạch, Thụy Sỹ, Na Uy, Phần Lan lấy tuổi tối đa là 74. Còn
một số nước đang phát triển như Ai Cập, Malaysia, Mêhicô quy định là 65
tuổi. Song hiện nay ở nhiều quốc gia và ngay cả ILO đã không quy định giới
hạn tuổi tối đa và để mở ở độ tuổi này [37].
- Người có việc làm là người làm một việc gì đó được trả tiền cơng,
lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người tham gia
vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập
gia đình khơng được nhận tiền công hoặc hiện vật.
Khái niệm việc làm trên được chính thức nêu ra tại Hội nghị quốc tế
lần thứ 13 của các nhà thống kê lao động ILO năm 1983 và được áp dụng ở
nhiều nước.
- Người thiếu việc làm là người trong độ tuổi lao động đang có việc
làm nhưng thời gian làm việc ít hơn mức chuẩn quy định và người lao động
đó có nhu cầu làm thêm. Ngược với khái niệm người thiếu việc làm, khái

9


niệm người đủ việc làm là người làm việc với thời gian khơng ít hơn mức
chuẩn hoặc ít hơn mức chuẩn nhưng khơng có nhu cầu làm thêm.
- Về khái niệm thất nghiệp, ILO đưa ra định nghĩa: "Thất nghiệp là
người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng khơng có việc làm,
đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc".
Để xác định rõ những người thất nghiệp, ILO đã đưa ra những tiêu chí xét
trong khoảng thời gian nhất định; những người thất nghiệp là những người sau:
+ Khơng có việc làm
+ Có khả năng làm việc
+ Tích cực tìm việc làm.
Thất nghiệp dài hạn được hiểu từ 12 tháng/năm; thất nghiệp ngắn hạn

là dưới 12 tháng/năm.
Việc xác định thống nhất nhận thức về các khái niệm trên của ILO sẽ
tạo cơ sở cho việc định ra các chuẩn mực cơ bản để xác định, thống kê, đánh
giá thực trạng lao động, việc làm và thất nghiệp của mỗi quốc gia trên thế
giới. Dựa trên cơ sở các khái niệm này mà các quốc gia trên thế giới đã có
những cách tiếp cận khác nhau về khái niệm việc làm.
Ở Ấn Độ, họ dựa vào thời gian làm việc bình thường được quy định
trong các văn bản pháp luật để làm căn cứ đánh giá xem một người nào đó có
việc làm hay khơng. Họ cịn quy định: Những ai khơng làm việc một giờ nào
trong một tuần lễ thì vào thời gian điều tra sẽ bị liệt vào loại thất nghiệp;
những ai làm việc ít hơn số giờ quy định thì được coi là thiếu việc làm. Ở Chi
Lê, họ dựa vào tiêu chí thu nhập để định nghĩa về việc làm. Cụ thể: nếu trong
thời gian điều tra mà đối tượng hồn tồn khơng có một khoản thu nhập nào
thì được coi là khơng có việc làm, nếu thu nhập thấp hơn tiền lương tối thiểu
của xã hội thì được coi là thiếu việc làm. Trung Quốc lại đưa ra định nghĩa về

10


việc làm như sau: "Việc làm là một người làm một việc lao động xã hội nhất
định thuộc công lao động hoặc kinh doanh có thu nhập" [47].
Khái niệm việc làm mang tính chất trừu tượng, nên một số quốc gia đã
đưa ra quan niệm về việc làm dựa vào khái niệm đối lập, đó là khái niệm thất
nghiệp của ILO. Mặc dù có rất nhiều quốc gia đã sử dụng khái niệm thất
nghiệp để đưa ra quan niệm về việc làm, nhưng mỗi quốc gia lại có quan niệm
khác nhau về khoảng thời gian khơng có việc làm (thất nghiệp).
Ví như, ở Ơxtrâylia xác định thất nghiệp là người khơng có việc làm
trong tuần lễ điều tra và đã chủ động tìm việc làm cả ngày hoặc nửa ngày tại
bất kỳ một thời điểm nào trong bốn tuần, bao gồm cả tuần điều tra và sẵn sàng
làm việc khi có việc làm.

Ở Pháp đưa ra khái niệm thất nghiệp một cách ngắn gọn hơn, đó là:
"Người thất nghiệp là người có đủ điều kiện làm việc nhưng khơng có việc
làm hoặc đang tìm việc làm".
Thái Lan lại quan niệm: Người thất nghiệp là người khơng có việc làm
trong thời gian bảy ngày trước lúc điều tra.
Như vậy, việc đưa ra khái niệm về việc làm tưởng chừng như đơn
giản, nhưng thực ra lại là vấn đề hết sức phức tạp. Mỗi một quốc gia đều đưa
ra những tiêu chí khác nhau về khái niệm việc làm.
Tuy nhiên, những nội dung chính của khái niệm việc làm đều được
dựa trên những tiêu chí chuẩn do ILO đưa ra. Đây có thể coi là sự phát triển
tất yếu của phạm trù này, bởi xu thế tồn cầu hóa hiện nay đã kéo các quốc
gia xích lại gần nhau, nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội mang tính quốc tế, trong
đó có vấn đề việc làm sẽ được hiểu một cách thống nhất, toàn diện trên thế
giới. Điều này sẽ làm cho vấn đề giải quyết việc làm của mỗi quốc gia đạt
hiệu quả cao.
1.1.1.2. Quan niệm về việc làm ở Việt Nam

11


Việt Nam là một thành viên của ILO, do vậy khái niệm về việc làm
cũng như các vấn đề liên quan đến việc làm của Việt Nam cũng đều dựa trên
quan điểm, tư tưởng chung của ILO. Ở Việt Nam, một trong các quyền cơ bản
của công dân là "quyền có việc làm". Đây là quyền Hiến định của cơng dân
Việt Nam, bởi quyền có việc làm đã được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến
pháp của nước ta từ Hiến pháp 1946; Hiến pháp 1959; Hiến pháp 1980 và đến
Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001.
Hiến pháp của Việt Nam đã khẳng định: "Công dân Việt Nam có quyền
có việc làm, Nhà nước có trách nhiệm tạo mọi điều kiện cần thiết phù hợp với
khả năng thực tế để bảo đảm cho công dân thực hiện quyền đó" [13].

Xét về mặt xã hội, mọi người có sức lao động đều có quyền có việc
làm. Đó là một trong những quyền cơ bản của con người. Con người được tự do
trong lao động, đây chính là điều kiện cơ bản để giải phóng sức lao động và
khai thác triệt để tiềm năng của con người. Tuy nhiên, trên thực tế để bảo đảm
việc làm cho người lao động là cả một q trình và nó phải được thực hiện
đầy đủ, từng bước trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước, đồng thời cũng phải phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất
nước.
Quan niệm về việc làm ở nước ta luôn gắn liền với đường lối, chủ
trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể và
được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Vì thế, quan niệm
việc làm ở nước ta không chỉ mang nội dung pháp lý, mà cịn mang nội dung
chính trị - xã hội. Chúng ta có thể tìm hiểu quan niệm về việc làm ở Việt Nam
qua hai giai đoạn sau:
 Giai đoạn trước năm 1986
Đây là giai đoạn Nhà nước ta thực hiện cơ chế kinh tế kế hoạch hóa
tập trung với việc tuyệt đối hóa hai thành phần kinh đó là kinh tế tập thể và
kinh tế quốc doanh, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ yếu trong nền

12


kinh tế. Trong giai đoạn này, Nhà nước phủ nhận hoặc khơng nhìn nhận đúng
vai trị của các thành phần kinh tế khác.
Trong bối cảnh của cơ chế kinh tế nêu trên, quan niệm về việc làm lúc
này cũng mang nặng tính bao cấp. Khái niệm về việc làm cũng đồng nghĩa
với việc một người nào đó có trong biên chế của Nhà nước hay không. Nghĩa
là, trong giai đoạn này người lao động chỉ được coi là có việc làm và được xã
hội thừa nhận, trân trọng bao gồm những người làm việc trong thành phần
kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và khu vực hành chính nhà nước. Trong cơ

chế đó, Nhà nước khơng chỉ bố trí việc làm cho người lao động mà còn bao
cấp cả về sự ổn định lâu dài của việc làm, tiền lương, các chế độ bảo hiểm…
Điều này đã kìm hãm tiềm năng lao động, triệt tiêu động lực của con người
trong phát triển việc làm và tự chịu trách nhiệm về đời sống của chính bản
thân họ. Do vậy, trong xã hội cũng không tồn tại và thừa nhận hiện tượng thất
nghiệp, lao động dư thừa, thiếu việc làm, việc làm khơng đầy đủ, khơng có thị
trường lao động và sức lao động khơng thể là hàng hóa, cho dù là loại "hàng
hóa đặc biệt". Cịn người dân thì khơng có quyền tự do kinh doanh, nên việc
thuê mướn lao động đều bị coi là bất hợp pháp. Điều này đã dẫn đến nghịch
lý, đó là có những người tay nghề rất giỏi, họ làm việc cho các thành phần
kinh tế khác, dẫu có thu nhập cao, có đóng góp nhiều cho xã hội cũng không
được Nhà nước và xã hội thừa nhận là người có việc làm, vì họ khơng phải là
người trong biên chế của Nhà nước.
Với tình trạng vô lý trên đã làm ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của mọi
người trong xã hội. Mọi người đều mong muốn và tìm mọi cách để trở thành
những người trong biên chế của Nhà nước, để được coi là người có việc làm
và hàng tháng sẽ nhận được một khoảng tiền lương ổn định khi đang làm việc
cho đến các chế độ bảo hiểm xã hội sau này, cũng như nhiều ưu đãi, phúc lợi xã
hội khác. Kết quả của nghịch lý trên đã dẫn đến hậu quả đó là khơng chỉ có dư
luận xã hội mà ngay cả trong một số cơ quan nhà nước cũng có cách đánh giá,
nhìn nhận khơng đúng về việc làm. Việc này đã dẫn đến những sai sót đáng kể

13


trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, có lúc, có nơi đã làm cho tình hình
xã hội thêm phức tạp, ít nhiều cũng làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của
đất nước.
 Giai đoạn từ năm 1986 đến nay
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã khởi xướng cơng cuộc

đổi mới tồn diện đất nước trên mọi lĩnh vực. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh
tế, Nhà nước tiến hành chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa, tập
trung sang cơ chế kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Với sự thay đổi này đã đem lại cho người lao động
cơ hội tìm kiếm việc làm nhiều hơn, rộng hơn và thuận lợi hơn. Nhu cầu tìm
việc của người lao động ngày càng phát triển. Lúc này, Đảng và Nhà nước đã
đưa ra nhiều chính sách phát triển kinh tế - xã hội, một trong những chính
sách đó là chính về sách lao động - việc làm.
Chính sách về lao động - việc làm mà Nhà nước đưa ra trong thời
gian này đều hướng vào việc phát triển con người, vì con người, lấy con
người làm trung tâm. Đây chính là sự thay đổi cơ bản trong lĩnh vực lao
động - việc làm của thời kỳ đổi mới. Các chính sách này đều nhằm mục đích
mở rộng cơ hội cho người lao động, tạo điều kiện cho mọi người đều có việc
làm và Nhà nước phải bảo vệ họ trong quá trình lao động cũng như trong
cuộc sống. Người lao động có thể làm việc trong mọi thành phần kinh tế mà
không bị phân biệt đối xử.
Cùng với sự hình thành của nền kinh tế thị trường, thị trường lao động
cũng bắt đầu xuất hiện và phát triển, người lao động được tự do sử dụng sức lao
động của mình, vì thế sức lao động lúc này đã trở thành loại hàng hóa đặc biệt.
Khái niệm việc làm lúc này cũng được thể hiện gián tiếp trong Văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ VI đó là: "Những người làm ra của cải và những
việc có ích cho xã hội, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật và chính sách đều được tôn trọng, được quyền hưởng thu nhập

14


tương xứng với kết quả lao động, kinh doanh hợp pháp của họ. Kẻ nào lười
biếng ăn bám phải bị lên án và cưỡng bức lao động" [1].
Trên cơ sở Văn kiện của Đảng lần thứ VI, liên Bộ Lao động - Tổng

cục Thống kê đã cụ thể hóa thành một văn bản pháp quy, đó chính là Quyết
định số 220/QĐ-LĐ ngày 25 tháng 6 năm 1986 của Liên Bộ Lao động - Tổng
cục Thống kê về việc lập sổ theo dõi số người chưa có việc làm và chế độ báo
cáo thống kê về giải quyết việc làm cho người lao động thành thị. Quyết định
số 220 cũng chính thức đưa ra khái niệm việc làm như sau: "Việc làm là
những dạng hoạt động có ích, có thu nhập và khơng bị pháp luật cấm". Với
khái niệm này, có thể khẳng định rằng Nhà nước đã chính thức thừa nhận
những dạng hoạt động mới, những ngành nghề mới, những dịch vụ mới phù
hợp với yêu cầu đặt ra của đời sống xã hội.
Sự đổi mới trong quan niệm về việc làm ở nước ta được đánh dấu
bằng việc Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120 ngày 11/4/1992 về chủ
trương, phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm. Đây là lần đầu tiên
Chính phủ có một nghị quyết riêng về vấn đề việc làm. Theo tinh thần của Nghị
quyết 120, giải quyết việc làm cho người lao động là trách nhiệm của Nhà
nước, của các ngành các cấp, các tổ chức xã hội và của mỗi người lao động.
Có thể nói, trong thời gian từ 1986 - 1994, giai đoạn đầu thực hiện
công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề việc làm đã được nhận thức lại phù hợp
với tiến trình đổi mới của đất nước. Những biện pháp được thế giới đúc kết,
đã được ghi nhận trong các Công ước quốc tế về vấn đề việc làm trong cơ chế
thị trường đã từng bước được vận dụng ở Việt Nam như: dịch vụ việc làm, di
dân, làm việc ở nước ngoài (hợp tác lao động), trợ cấp thất nghiệp, các
chương trình việc làm cho các đối tượng đặc thù… Đồng thời, chúng ta cũng
có những giải pháp sáng tạo đáp ứng trực tiếp những đòi hỏi thực tiễn của đất
nước như: cho vay vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sắp xếp lao động… Tất cả
điều này được thực hiện thông qua một loạt những chủ trương, chính sách và
các văn bản pháp luật, trong đó Nghị quyết số 120/HĐBT, ngày 11/4/1992 là

15



một bước đột phá toàn diện từ chủ trương, phương hướng đến biện pháp thực
hiện. Chính những văn bản pháp quy trong lĩnh vực việc làm và những kinh
nghiệm qua thực tiễn áp dụng đã làm cơ sở để xây dựng chương "Việc làm"
trong Bộ luật Lao động, được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 tại kỳ họp
thứ 5, Quốc hội khóa IX có hiệu lực kể từ ngày 01/01/1995. BLLĐ 1994 đã
đưa ra những quy định chung có tính chất nguyên tắc về lao động, việc làm [51,
tr. 48].
Điều 5, BLLĐ đã khẳng định quyền làm việc và tự do chọn việc làm:
"Mọi người đều có quyền có việc làm, tự lựa chọn việc làm và nghề
nghiệp…. Mọi hoạt động tạo ra việc làm, tự tạo việc làm, dạy nghề và học
nghề để có việc làm, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thu hút nhiều lao
động đều được Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi hoặc giúp đỡ".
Đặc biệt, BLLĐ đã đưa ra một quan niệm mới về việc làm đó là: "Mọi
hoạt động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận
là việc làm".
Quan niệm trên hoàn toàn phù hợp với thực tiễn Việt Nam đang ở
trong giai đoạn phát triển. Việc làm, theo quy định của BLLĐ 1994 bao gồm
hai nội dung có tính điều kiện:
Một là, việc làm là hoạt động của con người tạo ra nguồn thu nhập.
Đây có thể coi là điều kiện cần. Nghĩa là, những hoạt động của con người dù
có tiêu tốn bao nhiêu sức lực mà không tạo ra nguồn thu nhập, tức là khơng vì
mục đích kiếm sống, thì cũng khơng phải là việc làm.
Hai là, hoạt động ấy không bị pháp luật cấm. Đây có thể coi là điều
kiện đủ.
Như vậy, nếu hoạt động lao động của con người chỉ thỏa mãn điều
kiện thứ nhất, thì về mặt pháp lý vẫn chưa đủ để coi là việc làm. Bởi trên thực
tế, có những hoạt động lao động tuy cũng tạo ra thu nhập, đơi khi cịn là thu
nhập rất cao, nhưng cũng không được coi là việc làm do vi phạm vào điều

16



kiện thứ hai, ví vụ như các hoạt động mại dâm, bn bán ma túy, đánh bạc…
Trong khi đó những hoạt động lao động như giúp việc gia đình, đánh giầy,
bán nước uống thường xuyên… thì vẫn được thừa nhận là người có việc làm
[51].
Với quan niệm trên, có thể nói đây là một quan niệm về việc làm
tương đối hoàn chỉnh, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và xu hướng phát
triển của thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay, nó chẳng những xóa bỏ
được quan niệm cứng nhắc trước đây là chỉ được coi là có việc làm những
người "trong biên chế Nhà nước", mà còn thể hiện được một nguyên tắc quan
trọng của Nhà nước pháp quyền là "cơng dân có thể làm tất cả những gì mà
pháp luật khơng cấm", thay cho nguyên tắc trước kia là "công dân chỉ được
làm những gì mà pháp luật cho phép".
Cùng với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước ta vẫn
từng bước hoàn thiện quan niệm về lao động việc làm để nhằm đưa ra một khái
niệm việc làm cụ thể hơn. Điều này được thể hiện trong các Văn kiện của Đảng
qua các kỳ Đại hội như: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, lần thứ VIII…
Vậy là, sau hơn 10 năm thực hiện và áp dụng các quy định của BLLĐ
năm 1994 về việc làm, đặc biệt là đã trải qua ba lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật
này vào các năm 2002, 2005 và 2006, nhưng quan niệm về việc làm theo quy
định tại Điều 13 BLLĐ năm 1994 vẫn được giữ nguyên cho đến ngày nay.
Điều này càng khẳng định đây là một quan niệm hoàn toàn đúng và phù hợp
với điều kiện cụ thể của Việt Nam, đồng thời cũng khẳng định được tính khoa
học, giá trị pháp lý cũng như tính thống nhất trong cả nước khi áp dụng quan
niệm này ở nước ta hiện nay.
Có thể khẳng định rằng, sau hơn 20 năm đổi mới, đi đơi với chính
sách lao động và việc làm, quan niệm về việc làm ở nước ta đã liên tục được
bổ sung và hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước.


17


1.1.2. Tầm quan trọng của việc làm
Việc làm cho người lao động và chống thất nghiệp là những vấn đề có
tính tồn cầu, là mối quan tâm lớn của nhân loại nói chung và của mỗi quốc gia
nói riêng, trong đó có Việt Nam. Việc làm ln được coi là vấn đề kinh tế - xã
hội nhạy cảm và bức xúc nhất ở nước ta, vì nó ảnh hưởng đến mỗi gia đình, và
nó cũng chính là một trong những yếu tố dẫn đến sự phát triển hoặc kìm hãm sự
tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng là nguyên nhân sâu xa gây ra những tiêu cực
về mặt xã hội. Vì vậy, tầm quan trọng của việc làm được xem xét dưới mặt sau
đây.
1.1.2.1. Về mặt xã hội
Lao động, việc làm là những vấn đề mang tính xã hội. Mỗi người khi
trưởng thành đều có nhu cầu và mong muốn được làm việc, đó là nhu cầu
chính đáng và cũng là quyền lợi của người lao động. Chính vì vậy, đảm bảo
được việc làm đầy đủ cho người lao động có ý nghĩa rất lớn đối với mỗi cá
nhân và cả xã hội. Khi Chính phủ đã đưa ra các chính sách tạo việc làm thỏa
đáng, điều này sẽ đem lại sự công bằng trong xã hội, tạo công ăn việc làm cho
tất cả những người lao động. Từ đó, người lao động có thu nhập, khơng phải
lo ăn bám hoặc nhờ vào sự giúp đỡ của xã hội, hạn chế được sự phân hóa giàu
nghèo, giảm bớt sự bùng phát của các tệ nạn xã hội.
Ngược lại, nếu không bảo đảm được việc làm cho người lao động thì
hiện tượng thất nghiệp và thiếu việc làm sẽ ngày càng tăng lên. Điều này luôn
gắn liền với sự gia tăng các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, ma túy… làm
rối loạn trật tự an ninh xã hội, tha hóa nhân phẩm người lao động. Thất nghiệp
ở mức cao còn gây ra sự bất ổn định về kinh tế và chính trị, có khi nó cịn trở
thành tác nhân gây ra sự sụp đổ của cả một thể chế, làm mất niềm tin của
người dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

Bảo đảm việc làm cho người lao động trên phạm vi rộng nó cịn bao
gồm cả những vấn đề liên quan đến phát triển nguồn lực và sử dụng có hiệu

18


quả nguồn lao động. Dưới giác độ này, việc làm góp phần nâng cao chất
lượng nguồn lao động nhằm đáp ứng những yêu cầu của thị trường lao động,
đồng thời xây dựng nguồn lực lâu dài cho đất nước.
Việc làm ln gắn liền với q trình phân cơng lao động theo ngành
và theo lãnh thổ. Vì vậy, nếu Nhà nước khơng có các biện pháp tạo mở việc
làm hợp lý cho lao động ở khu vực nơng thơn, thì dẫn đến nhiều người lao
động ở khu vực này bỏ ra thành thị để tìm việc làm, gây sức ép cho khu vực
thành thị trên tất cả các mặt như nhà ở, điện, nước, y tế thậm chí gây ra cả
những rối loạn về mặt xã hội.
Việt Nam ta là một nước có dân số đơng, tốc độ tăng trưởng dân số
nhanh, số người mới tham gia lực lượng lao động và chưa có việc làm hàng
năm rất lớn. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm đang gây ra những vấn
đề xã hội hết sức phức tạp. Bên cạnh việc bảo đảm việc làm cho người lao
động, thì mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm cần phải gắn liền với mục
tiêu xóa đói, giảm nghèo, phát triển ổn định và đảm bảo cơng bằng xã hội. Vì
thế, việc làm ở Việt Nam có ý nghĩa hết sức sâu sắc về mặt xã hội.
1.1.2.2. Về mặt kinh tế
Bảo đảm việc làm là vấn đề quan trọng được đặt ra ở nhiều quốc gia,
kể cả các nước đang phát triển. Điều này khơng chỉ có ý nghĩa đối với bộ
phận dân cư, những người thiếu việc làm và thất nghiệp, mà quan trọng hơn
nó cịn tác động đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Việc làm cho người lao động trước hết sẽ tạo ra điều kiện để khai thác
được tối đa những nguồn lực quan trọng cịn đang tiềm ẩn như tài ngun
vốn, ngành nghề… thơng qua lao động của con người. Khi người lao động có

việc làm sẽ mang lại thu nhập cho bản thân họ và từ đó tạo ra tích lũy. Nhà
nước khơng những không phải chi trợ cấp cho những người nghèo khơng có
việc làm mà khi bố trí được việc làm cho họ, họ có thể mang lại tích lũy cho
nền kinh tế quốc dân. Tăng tích lũy sẽ giúp cho sản xuất được mở rộng, tức là

19


×