Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo điều 156 bộ luật hình sự năm 1999

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 90 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật

NGUYễN THị Tố UYÊN

TộI SảN XUấT, BUÔN BáN HàNG GIả THEO
ĐIềU 156 Bộ LUậT HìNH Sự NĂM 1999

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội – 2014

1


đại học quốc gia hà nội
khoa luật

NGUYễN THị Tố UYÊN

TộI SảN XUấT, BUÔN BáN HàNG GIả THEO
ĐIềU 156 Bộ LUậT HìNH Sự NĂM 1999
Chuyên ngành
MÃ số

: Luật hình sự

: 60 38 40

luận văn thạc sĩ luật học


Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: GS.TS. Đỗ Ngọc Quang

Hà nội - 2014

2


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu khoa học của riêng tơi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Tố Un

MỞ ĐẦU

3


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, sự xuất hiện của hàng giả trên thị trƣờng
đã trở thành hiện tƣợng phổ biến và mang tính tồn cầu. Sản xuất và buôn bán
hàng giả là vấn nạn của xã hội. Đối với sản xuất và tiêu dùng nội địa, hàng giả
ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền lợi và quyết tâm của các doanh nghiệp chân

chính muốn phát triển bằng con đƣờng cạnh tranh lành mạnh, ảnh hƣởng đến
sức khỏe, tính mạng của nhân dân và gây hoang mang trong dƣ luận xã hội.
Đối với quan hệ kinh tế - quốc tế, nạn hàng giả làm giảm sự hấp dẫn trong thu
hút đầu tƣ nƣớc ngoài, ảnh hƣởng đến tiến trình thực hiện các chế định kinh tế
quốc tế mà điển hình nhất là các quy định của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới
(WTO). Theo báo cáo từ tổ chức Hải quan thế giới, cứ 10 sản phẩm lại có 1
sản phẩm bị làm giả.
Hịa chung với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, những năm qua kinh tế
nƣớc ta có những bƣớc phát triển đáng kể, an sinh xã hội đƣợc đảm bảo. Bên
cạnh đó, có một số vấn đề đáng quan ngại, trong đó dƣ luận bức xúc trƣớc
tình trạng hàng giả xuất hiện tràn lan trên thị trƣờng. Hàng giả phong phú về
chủng loại, đa dạng về mẫu mã và linh động về giá cả có mặt ở rất nhiều phân
khúc của thị trƣờng từ các phiên chợ ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn
đến các chợ, các siêu thị ở các đô thị lớn. Tình hình sản xuất, bn bán hàng
giả cũng có chiều hƣớng gia tăng về số lƣợng, loại hàng hóa và có diễn biến
ngày càng phức tạp, đặc biệt trong điều kiện nƣớc ta có chung đƣờng biên
giới với Trung Quốc , "một phân xƣởng sản xuất của thế giới" và cũng là một
trung tâm sản xuất, phát luồng hàng giả.
Đấu tranh phòng, chống nạn hàng giả là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị và của tồn xã hội. Phịng chống sản xuất, bn bán hàng giả đƣợc
thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó xử lý hình sự là một biện pháp hữu
hiệu, nghiêm khắc nhất để bảo vệ trật tự quản lý kinh tế, quyền lợi của ngƣời
tiêu dùng và các nhà sản xuất, phân phối chân chính. Xử lý hình sự đối với
hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả theo quy định của Điều 156 Bộ luật hình

4


sự (BLHS) là một trong những nội dung quan trọng về phịng, chống sản xuất,
bn bán hàng giả. Trong cuộc đấu tranh đó, pháp luật hình sự cùng với hoạt

động của các cơ quan bảo vệ pháp luật đóng vai trò hết sức quan trọng. Nhận
thức đƣợc tầm quan trọng của cơng tác phịng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
sản xuất, buôn bán hàng giả các cơ quan bảo vệ pháp luật đã chủ động áp
dụng nhiều biện pháp, xử lý nghiêm những trƣờng hợp phạm tội sản xuất,
buôn bán hàng giả và đã đạt đƣợc những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, quá
trình áp dụng pháp luật về tội sản xuất, bn bán hàng giả cịn phát sinh một
số hạn chế bất cập: quy định của pháp luật có điểm chƣa phù hợp với thực
tiễn cuộc đấu tranh phòng chống hàng giả, thiếu tính thống nhất, đồng bộ
trong thi hành và áp dụng pháp luật; chƣa có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan bảo vệ pháp luật; biện pháp áp dụng của pháp luật chƣa triệt để,
nghiêm minh. Những hạn chế, bất cập ấy, đã ảnh hƣởng đến kết quả thi hành
pháp luật đối với tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả. Số vụ sản xuất buôn
bán hàng giả đƣợc phát hiện trong những năm trở lại đây lên đến con số hàng
nghìn, song số vụ đƣợc khởi tố, truy tố và đƣa ra xét xử là rất ít: Trong 05
năm (từ năm 2009 - đến năm 2013) ngành Tòa án đã xét xử sở thẩm 67 vụ, 94
bị can, trung bình mỗi năm xét xử 13,4 vụ, 18,8 bị can về tội sản xuất, bn
bán hàng giả - một con số rất ít ỏi so với tình hình thực tế hiện nay. Vì vậy,
việc nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn của tội
sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả theo quy định tại Điều 156, BLHS năm
1999 để giúp nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống loại tội
phạm này là một nhu cầu thực tế và thiết thực.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lĩnh vực nghiên cứu, ở mức độ khái quát tội sản xuất hàng giả,
buôn bán hàng giả đƣợc đề cập trong nhiều cuốn Bình luận khoa học BLHS
năm 1999 nhƣ: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (phần các tội phạm),
của tập thể tác giả TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS,Ths. Phạm
Thanh Bình, Ths. Nguyễn Đức Mai, Ths. Nguyễn Sỹ Đại, Ths. Nguyễn Mai

5



Bộ, Nxb Cơng an nhân dân, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần
các tội phạm, tập VI, do Ths. Đinh Văn Quế chủ biên, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2003; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam đã được sửa
đổi bổ sung năm 2009, do TS. Trần Minh Hƣởng chủ biên, Nxb Lao động,
2009; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 2, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội,
Nxb Công an nhân dân, 2012. Ở mức độ nghiên cứu chuyên sâu, tác giả Mai
Thị Lan đã nghiên cứu về tội phạm này trong Luận văn thạc sỹ với đề tài "Tội
sản xuất, buôn bán hàng giả theo pháp luật hình sự Việt Nam", năm 2008 tại
Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội.
Mặc dù, tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả đã đƣợc nghiên cứu cả
ở góc độ lý luận và thực tiễn tuy nhiên về thời điểm nghiên cứu, các cơng trình
nghiên cứu trên đây, đặc biệt là nghiên cứu của Thạc sỹ Mai Thị Lan đã đƣợc
thực hiện từ năm 2008, với bối cảnh và trực trạng áp dụng pháp luật đối với tội
sản xuất, buôn bán hàng giả năm 2008 và những năm trƣớc đó đến nay đã có
nhiều thay đổi. Nạn hàng giả vẫn tiếp diễn, gia tăng, diễn biến phức tạp với thủ
đoạn ngày càng tinh vi. Các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về tội
sản xuất buôn bán hàng giả vẫn cịn là vấn đề mang tính thời sự pháp luật, cần
đƣợc nghiên cứu cụ thể, đầy đủ và toàn diện, phục vụ công tác điều tra, truy tố,
xét xử và đấu tranh chống tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả ở nƣớc ta
hiện nay. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống
cả về lý luận và thực tiễn về tội phạm này sẽ đáp ứng đƣợc những đòi hỏi của
thực tiễn và yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống hàng giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Làm rõ khái niệm, đặc điểm pháp lý, các vấn đề khác có liên quan,
kết quả cuộc đấu tranh phịng, chống tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả.
Trên cơ sở đó có thể để xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của Điều
156 BLHS và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm này.

6


* Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội sản xuất hàng giả, buôn bán
hàng giả, trong đó làm rõ khái niệm, đặc điểm của tội sản xuất, buôn bán hàng
giả, phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác có liên quan và với pháp
luật hình sự của một số nƣớc.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hình sự Việt
Nam hiện hành về tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả và thực tiễn áp
dụng các quy định này từ đó tìm ra những mặt đạt đƣợc và những hạn chế.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần bổ sung, hoàn thiện quy định về
tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả trong BLHS Việt Nam và nâng cao
hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về hàng giả.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự hình thành và phát triển các quy
định về tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả trong luật hình sự Việt nam
từ trƣớc đến nay, các vấn đề liên quan đến việc định tội danh, trách nhiệm
hình sự và hình phạt đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo quy định tại
Điều 156, BLHS năm 1999 cả ở góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật
trong phạm vi cả nƣớc, giai đoạn 2009-2013.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lê Nin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tử tƣởng Hồ
Chí Minh, tƣ tƣởng lãnh đạo, chỉ đạo cũng nhƣ chủ trƣơng của Đảng và Nhà
nƣớc ta về đấu tranh phịng chống tội phạm nói chung và tội sản xuất hàng
giả, bn bán hàng giả nói riêng.
Luận văn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử, thống kê, tổng
hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu, trao đổi với các chuyên gia, các nhà nghiên
cứu và khảo sát thực tiễn.

6. Ý nghĩa của luận văn
7


- Đề tài là cơng trình chun khảo có hệ thống ở cấp độ luận văn thạc
sĩ luật học nghiên cứu làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn về tội sản xuất
hàng giả, buôn bán hàng giả trong BLHS Việt Nam.
- Kết quả của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo, học tập, đồng
thời cung cấp cho cán bộ làm công tác thực tiễn những hƣớng dẫn, chỉ dẫn cụ
thể, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự trong giai đoạn
hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội sản xuất hàng giả, buôn bán
hàng giả.
Chương 2: Các dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất hàng giả, buôn bán
hàng giả theo Điều 156 Bộ luật hình sự hiện hành và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và
nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử về tội sản xuất, buôn bán hàng giả
theo Điều 156 Bộ luật hình sự.

8


Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI SẢN XUẤT, BN BÁN HÀNG
GIẢ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM


1.1.1. Khái niệm của tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả đƣợc quy định tại Điều 156, Chƣơng
XVI (các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế), Phần các tội phạm, BLHS
Việt Nam. Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của tội phạm này cần làm rõ hàng
loạt thuật ngữ cơ bản. Trƣớc tiên, cần hiểu thế nào là sản xuất, thế nào là buôn
bán và thế nào là hàng giả; tiếp theo, định lƣợng của hành vi sản xuất, buôn
bán hàng giả đến mức nào thì truy cứu trách nhiệm hình sự; và cuối cùng,
đánh giá sự nguy hiểm của tội phạm này đối với nhà nƣớc và xã hội.
Thông thƣờng, hàng giả đƣợc hiểu là không phải hàng thật. Vậy thế
nào là hàng thật. Theo khoản 3 Điều 3 Luật chất lƣợng sản phẩm hàng hóa
thì, "sản phẩm, hàng hố khơng có khả năng gây mất an tồn là sản phẩm,
hàng hố trong điều kiện vận chuyển, lƣu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và
đúng mục đích, khơng gây hại cho ngƣời, động vật, thực vật, tài sản, môi
trƣờng" [29]. Tuy nhiên, sản phẩm hàng hóa đƣợc đƣa vào thị trƣờng, tiêu
dùng thông qua trao đổi, mua bán, tiếp thị lại phải tuân thủ những quy định
của pháp luật sở hữu trí tuệ, có nghĩa phải tn thủ những quy định của sở
hữu công nghiệp liên quan đến sản phẩm hàng hóa. Mỗi sản phẩm hàng hóa
đƣợc đƣa ra thị trƣờng để trao đổi, mua bán phải có nhãn hiệu, tên thƣơng
mại, chỉ dẫn địa lý, nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, hay nói cách khác phải đăng
ký hàng hóa tại cơ quan có thẩm quyền để xác định chất lƣợng hàng hóa. Nhƣ
vậy, hiểu một cách thơng thƣờng, sản phẩm hàng hóa đƣợc coi là giả khi
khơng bảo đảm chất lƣợng, giả về nhãn hiệu hàng hóa đƣa ra thị trƣờng tiêu
thụ nhằm lừa dối ngƣời tiêu dùng hoặc làm cho ngƣời tiêu dùng tƣởng rằng

9


đó là hàng thật, hàng đảm bảo chất lƣợng khơng gây hại cho ngƣời, động vật,
thực vật, tài sản, môi trƣờng khi sử dụng nó.

Tuy nhiên, để xác định nhƣ thế nào là hàng giả cần dựa vào những
quy định của văn bản pháp luật. Theo quy định tại khoản 8 Điều 3, Nghị định
số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động thƣơng mại, sản xuất, buôn bán hàng giả,
hàng cấm, bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, "Hàng giả" có một trong các dấu
hiệu sau đây:
- Hàng hóa khơng có giá trị sử dụng, cơng dụng; có giá trị sử dụng,
công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng
hóa; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với giá trị sử dụng, cơng dụng
đã cơng bố hoặc đăng ký;
- Hàng hóa có hàm lƣợng định lƣợng chất chính hoặc trong các chất
dinh dƣỡng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70% trở xuống
so với tiêu chuẩn chất lƣợng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp
dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
- Thuốc phịng bệnh, chữa bệnh cho ngƣời, vật ni khơng có dƣợc
chất; có dƣợc chất nhƣng khơng đúng với hàm lƣợng đã đăng ký; không đủ
loại dƣợc chất đã đăng ký; có dƣợc chất khác với dƣợc chất ghi trên nhãn,
bao bì hàng hóa;
- Thuốc bảo vệ thực vật khơng có hoạt chất; hàm lƣợng hoạt chất chỉ
đạt từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lƣợng, quy chuẩn kỹ thuật đã
đăng ký, công bố áp dụng; không đủ loại hoạt chất đã đăng ký; có hoạt chất
khác với hoạt chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
- Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa giả mạo tên thƣơng
nhân, địa chỉ của thƣơng nhân khác; giả mạo tên thƣơng mại hoặc tên thƣơng
phẩm hàng hóa; giả mạo mã số đăng ký lƣu hành, mã vạch hoặc giả mạo bao
bì hàng hóa của thƣơng nhân khác;

10



- Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo về
nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa;
- Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005 (Hàng hố giả mạo về sở hữu trí tuệ bao gồm hàng hoá
giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (sau đây gọi là hàng hoá giả mạo
nhãn hiệu). Hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hố có
gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý
đang đƣợc bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà khơng đƣợc phép của chủ
sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý);
- Tem, nhãn, bao bì giả. "Tem, nhãn, bao bì giả" gồm đề can, nhãn
hàng hóa, bao bì hàng hóa, các loại tem chất lƣợng, phiếu bảo hành, niêm
màng co hàng hóa hoặc vật phẩm khác của cá nhân, tổ chức kinh doanh có chỉ
dẫn giả mạo tên và địa chỉ của thƣơng nhân khác; giả mạo tên thƣơng mại, tên
thƣơng phẩm hàng hóa, mã số đăng ký lƣu hành, mã vạch hoặc bao bì hàng
hóa của thƣơng nhân khác.
Nhƣ vậy, để xác định là hàng giả khi hàng đó thỏa mãn một tong
những dấu hiệu nêu trên.
Cũng theo quy định tại Điều 3, Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày
15/11/2013 của Chính phủ, hành vi "Sản xuất" là việc thực hiện một, một số
hoặc tất cả các hoạt động chế tạo, chế bản, in ấn, gia công, đặt hàng, sơ chế,
chế biến, chiết xuất, tái chế, lắp ráp, pha trộn, san chia, sang chiết, nạp, đóng
gói và hoạt động khác làm ra hàng hóa” [7]. Từ quy định này, có thể hiểu "sản
xuất hàng giả" là thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động chế tạo, chế
bản, in ấn, gia công, đặt hàng, sơ chế, chế biến, chiết xuất, tái chế, lắp ráp,
pha trộn, san chia, sang chiết, nạp, đóng gói và hoạt động khác làm ra hàng
hóa có một trong các tình tiết đƣợc quy định tại khoản 8 Điều 3, Nghị định số
185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ.
Theo quy định tại Điều 3, Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày
15/11/2013 của Chính phủ, hành vi "Bn bán" là việc thực hiện một, một số
11



hoặc tất cả các hoạt động chào hàng, bày bán, lƣu giữ, bảo quản, vận chuyển,
bán buôn, bán lẻ, xuất khẩu, nhập khẩu và hoạt động khác đƣa hàng hóa vào
lƣu thơng" [7]. Cho nên, có thể hiểu bn bán hàng giả là thực hiện một, một
số hoặc tất cả các hoạt động chào hàng, bày bán, lƣu giữ, bảo quản, vận
chuyển, bán buôn, bán lẻ, xuất khẩu, nhập khẩu và hoạt động khác đƣa hàng
hóa có một trong các tình tiết đƣợc quy định tại khoản 8 Điều 3, Nghị định số
185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ, vào lƣu thơng.
Qua đó, chúng ta có thể thấy sản xuất hàng giả và buôn bán hàng giả
là hai hành vi vi phạm độc lập. Đây cũng là hai tội phạm độc lập đƣợc quy
định tại Điều 156 BLHS năm 1999: Tội sản xuất hàng giả và tội buôn bán
hàng giả. Điều đó có nghĩa là chỉ cần thực hiện hành vi sản xuất hàng giả
hoặc buôn bán hàng giả với đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm này thì
ngƣời có hành vi này đã bị coi là phạm tội mà khơng cần phải thực hiện hành
vi cịn lại. Điểm khác biệt của hai tội này nằm ở mặt khách quan của tội phạm
thể hiện ở hành vi phạm tội đó là hành vi sản xuất hàng giả và hành vi buôn
bán hàng giả.
Nếu khái niệm cho chúng ta nhận biết tổng thể đối tƣợng nghiên cứu
một cách chung nhất, thì đặc điểm giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về đối
tƣợng nghiên cứu, minh họa cho khái niệm, làm cho khái niệm trở lên bớt khô
cứng và sinh động hơn. Để nhận thức sâu và áp dụng chính xác tội sản xuất,
buôn bán hàng giả theo quy định tại Điều 156 BLHS vào thực tiễn cuộc sống
chúng ta cùng nghiên cứu về đặc điểm của tội phạm này.
1.1.2. Đặc điểm của tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Điều 156
Bộ luật hình sự
Theo Luật hình sự Việt Nam, hành vi bị coi là tội phạm đƣợc phân
biệt với những hành vi không phải là tội phạm qua bốn dấu hiệu: tính nguy
hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu hình
phạt. Đó là những đặc điểm của tội phạm nói chung mà tội sản xuất, bn bán

hàng giả khơng phải là ngoại lệ. Mỗi trƣờng hợp phạm tội cụ thể của một loại
12


tội khác nhau về nội dung biểu hiện của tội phạm, khơng trƣờng hợp nào
giống hồn tồn trƣờng hợp nào. Tuy vậy, tất cả những trƣờng hợp phạm tội
của một loại tội phạm đều có những nội dung biểu hiện đặc điểm, phản ánh
tính chất đặc trƣng của tội phạm đó mà khơng thể nhầm lẫn sang tội phạm
khác. Nghiên cứu về tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Điều 156 BLHS
cho thấy, tội danh này có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, tội sản xuất, buôn bán hàng giả là tội danh có tính chất bao
qt, chung đối với hành vi sản xuất buôn bán hàng giả. Bởi vì, trong BLHS
cịn có nhiều điều luật khác quy định tội sản xuất, bn bán hàng giả có tính
chất đặc thù. Ví dụ, Tội sản xuất, bn bán hàng giả là lƣơng thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh đƣợc quy định tại Điều 157 BLHS;
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón,
thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi đƣợc quy định
tại Điều 158 BLHS; Tội làm tem giả, vé giả, tội buôn bán tem giả, vé giả
đƣợc quy định tại Điều 164 BLHS; Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
đƣợc quy định tại Điều 171 BLHS.
Nhƣ vậy, ngƣời nào có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả không
phải là lƣơng thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phịng bệnh; khơng
phải là thức ăn dùng để chăn ni, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực
vật, giống cây trồng, vật nuôi; không phải là tem giả, vé giả; khơng phải là có
kiểu dáng cơng nghiệp, nhãn hiệu hàng hố, tên gọi, xuất xứ hàng hố hoặc
các đối tƣợng sở hữu cơng nghiệp khác đang đƣợc bảo hộ tại Việt Nam thì bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 156 BLHS.
Thứ hai, có thể phân loại hàng giả là đối tƣợng của tội sản xuất, buôn
bán hàng giả thành ba loại, hàng giả về nội dung, hàng giả về hình thức và
hàng giả cả về nội dung và hình thức. Để xác định hàng giả về nội dung hay

giả về hình thức, hay giả cả về nội dung, hình thƣc trong quá trình áp dụng
pháp luật cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ những văn bản pháp luật khác
nhau tƣơng ứng mỗi loại hàng giả, cụ thể:

13


- Hàng giả về nội dung gồm: Hàng giả không có giá trị sử dụng, cơng
dụng; Hàng giả có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc tự
nhiên, tên gọi của hàng hóa; Hàng giả có giá trị sử dụng, công dụng không
đúng với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký; Hàng hóa có
hàm lƣợng, định lƣợng chất chính, tổng các chất dinh dƣỡng hoặc đặc tính kỹ
thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lƣợng,
quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì
hàng hố. Đây là các trƣờng hợp giả về chất lƣợng, kỹ thuật hàng hóa, xâm
phạm trật tự quản lý nhà nƣớc về chất lƣợng, kỹ thuật hàng hóa đƣợc bảo vệ
theo Luật tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật chất lƣợng sản phẩm, hàng
hóa và các văn bản hƣớng dẫn thi hành.
- Hàng giả về hình thức bao gồm: Nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa giả
mạo tên thƣơng nhân, địa chỉ của thƣơng nhân khác; Hàng giả mạo tên thƣơng
mại, tên thƣơng phẩm hàng hóa, mã số đăng ký lƣu hành, mã vạch hoặc bao bì
hàng hóa của thƣơng nhân khác; Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa
ghi chỉ dẫn giả mạo về nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói hàng hóa,
lắp rắp hàng hóa; Hàng hóa sao chép lậu là bản sao đƣợc sản xuất mà không
đƣợc phép của chủ thể quyền tác giả hoặc quyền liên quan theo quy định tại
Điều 213 Luật sở hữu trí tuệ; Nhãn, bao bì giả. Quản lý nhà nƣớc về nội dung
này có Luật sở hữu trí tuệ, Nghị định 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của
Chính phủ về nhãn hàng hóa và các văn bản hƣớng dẫn thi hành.
- Hàng giả cả về nội dung về hình thức là hàng giả vừa khơng có giá
trị sử dụng, cơng dụng và giả cả về nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa giả mạo

tên thƣơng nhân, địa chỉ của thƣơng nhân khác… nhƣ đã nêu ở phần trên.
Thứ ba, giá cả bán hàng giả không nhất thiết phải bán theo giá của
hàng thật để lừa dối ngƣời tiêu dùng, mà còn có thể bán với giá rẻ, thậm chí
rất rẻ mà khơng có mục đích lừa dối ngƣời tiêu dùng. Thậm chí, có các loại
hàng giả khi đƣợc mang ra tiêu thụ, ngƣời tiêu dùng vẫn biết đó là hàng giả,
nhƣng họ vẫn cứ mua và mang về sử dụng. Tuy nhiên, dù bán với giá nào và

14


có mục đích lừa dối ngƣời tiêu dùng hay khơng thì ngƣời sản xuất, bn bán
hàng giả vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 156 BLHS.
Thứ tư, nguồn gốc của hàng có thể sản xuất tại Việt Nam và có thể sản
xuất ở nƣớc ngồi đƣợc nhập khẩu hoặc bằng các cách khác nhau đƣa vào
Việt Nam tiêu thụ. Tuy nhiên, để xác định đó là hàng giả thì phải có hàng thật
để so sánh. Điều đó có nghĩa trong trƣờng hợp hàng giả đƣợc sản xuất ở nƣớc
ngồi và đƣa vào Việt Nam tiêu thụ thì phải có hàng thật đang tiêu thụ ở Việt
Nam mà hàng thật này đã đƣợc đăng ký bản quyền sở hữu cơng nghiệp, đăng
ký chất lƣợng hàng hóa và đã đƣợc Cục sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và
Công nghệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, tên thƣơng mại... Ví dụ,
phụ tùng ơ tơ, xe máy đƣợc sản xuất tại Trung Quốc có ghi nhãn hiệu Honda
của Nhật Bản đƣợc mang vào Việt Nam tiêu thụ. Để xác định phụ tùng ô tô,
xe máy này đƣợc sản xuất tại Trung Quốc có phải là hàng giả hay khơng thì
phải có phụ tùng ơ tơ, xe máy của hãng Honda đã đăng ký bản quyền tại Việt
Nam đƣa ra so sánh đối chiếu về chất lƣợng và nhãn hiệu.
Tƣơng tự nhƣ thế, đối với hàng hóa sản xuất tại Việt Nam đƣợc xác
định là hàng giả thì phải so sánh với chủng loại hàng hóa đó sản xuất tại Việt
Nam đã đăng ký bản quyền tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Ví dụ, có
loại bột giặt có nhãn hiệu OMO tiêu thụ trên thị trƣờng bị nghi là giả thì phải
lấy bột giặt có nhãn hiệu OMO của chính hãng đã đăng ký bản quyền tại Việt

Nam đƣa ra so sánh, đối chiếu để xác định loại bột giặt có nhãn hiệu OMO
tiêu thụ trên thị trƣờng bị nghi là giả có phải là hàng giả hay khơng. Điều đó
có nghĩa rằng, để xác định hàng giả thì phải có kết quả giám định của cơ quan
giám định có thẩm quyền. Đây là chứng cứ đặc biệt quan trọng mà các cơ
quan điều tra, kiểm sát, tịa án dựa vào đó để quyết định việc truy cứu trách
nhiệm hình sự hay khơng theo Điều 156 BLHS.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY
ĐỊNH VỀ TỘI SẢN XUẤT HÀNG GIẢ, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ

15


1.2.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Cách mạng Tháng Tám thành công - nƣớc Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời. Dân tộc Việt Nam bƣớc vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự
do và chủ nghĩa xã hội. Ngày 09 tháng 11 năm 1946, Quốc hội khóa I nƣớc
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến
pháp năm 1946. Hiến pháp năm 1946 ra đời có ý nghĩa quan trọng về nhiều
phƣơng diện và là nguồn có tính chất định hƣớng của luật hình sự Việt Nam
trong giai đoạn 1945-1959. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời
Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 47/SL quy định:
Cho đến khi ban hành những bộ pháp luật duy nhất cho toàn
cõi nƣớc Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ
vẫn tạm thời giữ nguyên nhƣ cũ, nếu những luật lệ ấy không trái với
những điều theo đổi ấn định trong Sắc lệnh này.
Những điều khoản cụ thể trong luật lệ cũ đƣợc tạm giữ lại
do Sắc luật này, chỉ thi hành khi nào không trái với nền độc lập của
nƣớc Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hịa [4].
Về phạm vi nguồn luật cũ đƣợc áp dụng trong chế độ mới gồm Bộ luật

hình An Nam tại Bắc bộ, Bộ Hồng Việt hình luật tại Trung bộ và Bộ hình
Pháp tu tại Nam bộ. Bên cạnh việc duy trì pháp luật của chế độ cũ nhƣ một
giải pháp tình thế, chính quyền cách mạng đã khẩn trƣơng xây dựng pháp luật
của chế độ mới, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của cuộc kháng chiến cứu nƣớc. Do
bị chi phối bởi đặc điểm lịch sử đất nƣớc, trong thời kỳ này nguồn của luật
hình sự chủ yếu tồn tại dƣới dạng Sắc lệnh do Chủ tịch nƣớc - đồng thời là
Chủ tịch Chính phủ ban hành.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc đƣợc giải
phóng, nhiệm vụ cách mạng có sự thay đổi cơ bản, Hiến pháp năm 1959 đƣợc
ban hành để ghi nhận những quan hệ xã hội mới đang tồn tại, đồng thời định
hƣớng cho sự phát triển tiếp theo của đất nƣớc, nguồn của luật hình sự cũng
16


có những bƣớc phát triển mới, trong hệ thống luật hình sự Việt Nam khơng
cịn có các văn bản pháp luật ban hành dƣới chế độ cũ, Pháp lệnh, Sắc luật lại
giữ vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự.
Tuy nhiên cho đến trƣớc năm 1976, đất nƣớc ta liên tục có chiến tranh
cả nƣớc tập trung toàn bộ sinh lực cho chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, các văn
bản pháp luật hình sự mang tính thời sự ra đời tập trung quy định các tội liên
quan đến cuộc chiến tranh nhƣ: tội phản cách mạng, tội xâm phạm tài sản
XHCN nhƣ tội tàng trữ, lƣu hành tiền cũ, từ chối sử dụng, làm giả hay phá
hoại tiền mới, tội vi phạm thể lệ mậu dịch, tội đầu cơ hàng hóa,... Giai đoạn
này, nền kinh tế nƣớc ta còn bao cấp, cả nƣớc tập trung cho chiến tranh, hàng
hóa lƣu thơng trên thị trƣờng đều do các doanh nghiệp nhà nƣớc sản xuất
hoặc do các nƣớc viện trợ, chính vì vậy hàng giả gần nhƣ là khơng có cơ sở
để phát triển nên pháp luật hình sự nƣớc ta giai đoạn này khơng có quy định
về tội sản xuất, bn bán hàng giả.
Đại thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam đƣợc giải phóng, Bắc,
Trung, Nam thống nhất một nhà, đất nƣớc độc lập hoàn toàn. Nền kinh tế

nƣớc ta sau chiến tranh hết sức nghèo nàn và lạc hậu, bọn tƣ sản mại bản
đƣợc sự tiếp tay của tƣ sản nƣớc ngồi khơng ngừng gây rối loạn thị trƣờng,
nạn hàng giả xuất hiện. Trƣớc tình hình đó, ngày 15/3/1976 Chính phủ cách
mạng lâm thời đã kịp thời ban hành Sắc luật số 03/SL quy định về tội phạm
và hình phạt nhằm ổn định thị trƣờng, đảm bảo sự quản lý của nhà nƣớc đối
với nền kinh tế. Tội sản xuất hàng giả cũng đƣợc quy định tại Sắc luật này là
một trong các tội kinh tế:
Điều 6. Tội kinh tế: Tội kinh tế là tội gây thiệt hại về tài
chính cho Nhà nƣớc, cho Hợp tác xã hoặc cho tập thể nhân dân, gây
trở ngại cho việc khôi phục và phát triển sản xuất, cho việc ổn định
đời sống nhân dân, gồm các tội, trong đó có: Sản xuất hàng giả cố ý
lừa gạt ngƣời tiêu thụ; Làm bạc giả, hoặc tiêu thụ bạc giả.... Phạm
một trong các tội trên đây, thì bị phạt tù sáu tháng đến năm năm và

17


phạt tiền đến năm mƣơi nghìn đồng Ngân hàng hoặc một trong hai
hình phạt đó. Trong trƣờng hợp nghiêm trọng, thì phạt tù đến hai
mƣơi năm, tù chung thân hoặc xử tử hình và bị tịch thu một phần
hoặc tồn bộ tài sản [24].
Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, tội sản xuất hàng giả đƣợc quy
định đáp ứng phần nào yêu cầu của cuộc đấu tranh chống hàng giả. Theo quy
định này, hình phạt đƣợc áp dụng đối với tội sản xuất hàng giả là rất nghiêm
khắc với mức cao nhất là tử hình đã thể hiện tính chất, mức độ đặc biệt nguy
hiểm của hành vi sản xuất hàng giả đối với Nhà nƣớc và xã hội trong thời
gian này. Tuy nhiên, Sắc luật số 03 còn bộc lộ những hạn chế nhất định, quy
định về tội sản xuất hàng giả cũng vậy. Sắc luật chƣa quy định cụ thể về các
dấu hiệu cấu thành tội phạm và hình phạt đối với từng tội phạm cụ thể trong
nhóm tội kinh tế. "Tội sản xuất hàng giả cố ý lừa gạt người tiêu thụ" mới chỉ

đƣợc liệt kê trong số các tội kinh tế một cách chung chung, chƣa quy định cụ
thể nhƣ thế nào là hành vi sản xuất hàng giả cố ý lừa gạt ngƣời tiêu thụ và
nhƣ thế nào là hàng giả. Hành vi buôn bán hàng giả khơng bị coi là tội
phạm. Về hình phạt, loại và khung hình phạt áp dụng đối với "tội sản xuất cố
ý lừa gạt ngƣời tiêu thụ" đồng thời cũng là loại và khung hình phạt áp dụng
đối với các tội về kinh tế nói chung. Việc quy định không đầy đủ, thiếu cụ
thể của Sắc luật về tội sản xuất hàng giả nói riêng và các tội về kinh tế nói
chung đã gây ra khơng ít khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật của các
cơ quan tiến hành tố tụng.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1980, để khắc phục những hạn chế, thiếu
sót của Sắc luật số 03/SL, ngày 10/7/1982 Pháp lệnh số 07-LCT/HĐNN7 về
trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép đƣợc
ban hành là bƣớc tiến về kỹ thuật lập pháp hình sự của nƣớc ta. Tội sản xuất,
buôn bán hàng giả đƣợc quy định trong một điều luật riêng, hành vi buôn bán
hàng giả đƣợc coi là hành vi phạm tội với tính chất và mức độ nguy hiểm cho

18


xã hội tƣơng đƣơng với hành vi sản xuất hàng giả đƣợc quy định trong cùng
một điều luật và giống nhau về hình phạt. Điều 5 của Pháp lệnh quy định:
Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả: Ngƣời nào làm
hàng giả hoặc buôn bán hàng giả nhằm thu lợi bất chính thì bị phạt
tù từ sáu tháng đến năm năm và bị phạt tiền từ năm nghìn đồng đến
năm vạn đồng; Phạm tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả là
lƣơng thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh hoặc phạm tội trong
trƣờng hợp nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 9 pháp lệnh
này thì bị phạt tù từ ba năm đến mƣời hai năm, bị phạt tiền đến năm
trăm nghìn đồng và có thể bị tịch thu một phần tài sản; Phạm tội
làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả có chất độc hại hoặc các chất

khác có thể nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng ngƣời tiêu dùng,
hoặc phạm tội trong trƣờng hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
Khoản 2 Điều 9 Pháp lệnh này thì bị phạt tù từ mƣời năm đến hai
mƣơi năm hoặc tù chung thân, bị phạt tiền đến một trăm triệu đồng
và có thể bị tịch thu một phần hoặc tồn bộ tài sản [24].
Khơng cịn là quy định chung chung mang tính chất liệt kê về tội
phạm nhƣ ở Sắc luật số 03/SL, Pháp lệnh số 07-LCT/HĐNN7 đã phân định
hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả thành ba mức căn cứ vào tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, mà cụ thể là căn
cứ vào đối tƣợng của tội phạm (loại hàng giả) và hậu quả của tội phạm, tƣơng
ứng với ba khung hình phạt. Theo đó, hành vi làm hàng giả hoặc buôn bán
hàng giả là lƣơng thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, hàng giả có chất độc hại
hoặc các chất khác có thể nguy hiểm đến sức khỏe tính mạng ngƣời tiêu dùng
đƣợc xác định có tính nguy hiểm cao hơn so với các hàng hóa khác vì vậy,
mức và loại hình phạt đƣợc áp dụng là nghiêm khắc hơn theo quy định tại
khoản 2 và khoản 3 của điều luật, với mức hình phạt cao nhất ở khoản 3 là
đến tù chung thân. Trƣờng hợp nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng cũng bị
áp dụng hình phạt nghiêm trọng hơn so với các trƣờng hợp phạm tội quy định

19


tại khoản 1. Tuy nhiên, quy định về mức hình phạt đối với ngƣời phạm tội
làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả trƣờng hợp đặc biệt nghiêm trọng tại
Điều 5 Pháp lệnh thể hiện sự không nhất quán với quy định tại Điều 8 của
Pháp lệnh. Theo quy định tại Điều 8 Pháp lệnh phạm tội thuộc trƣờng hợp đặc
biệt nghiêm trọng thì hình phạt cao nhất là tử hình. Bên cạnh đó, Pháp lệnh
chƣa phân định tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Để xác định hành vi làm
hàng giả, buôn bán hàng giả là tội phạm hay vi phạm hành chính, các cơ quan
chức năng phải căn cứ vào Nghị định số 46/HĐBT ngày 10/5/1983 quy định

về việc xử lý bằng biện pháp hành chính hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm hàng
giả, kinh doanh trái phép. Theo quy định của Nghị định số 46/HĐBT thì:
Mọi hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái
phép thuộc loại vi phạm nhỏ chƣa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự đều bị xử lý bằng biện pháp hành chính theo quy định của
Nghị định này. Vi phạm nhỏ là vi phạm trong trƣờng hợp giá trị
hàng phạm pháp dƣới hai vạn đồng, tính chất việc vi phạm không
nghiêm trọng, tác hại gây ra cho sản xuất, đời sống nhân dân, trật tự
và an toàn xã hội là khơng nhiều, ngƣời vi phạm khơng có tiền án,
tiền sự, khi bị phát hiện khơng có hành vi chống lại cán bộ, nhân
viên làm nhiệm vụ [23].
Nghị định cũng quy định: "hàng giả thuộc loại lƣơng thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh thì bất cứ trƣờng hợp nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình
sự" [23], do tính chất nguy hiểm của loại hàng giả này là nghiêm trọng hơn so
với các loại hàng giả khác, cũng nhƣ tầm quan trọng của loại hàng hóa này
đối với Nhà nƣớc và xã hội.
Pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985 đƣợc đánh giá là
pháp luật hình sự cách mạng, dân chủ, nhân đạo và nhân dân, thể hiện tính tự
thân phát triển, gắn bó với thực tiễn và đa dạng về loại hình nguồn. Với
những điều kiện khách quan khơng thuận lợi về hồn cảnh chiến tranh ác liệt,
những khó khăn của nền kinh tế, sự cứng nhắc, giáo điều trong tƣ duy về pháp

20


luật XHCN, pháp luật hình sự giai đoạn 1945 - 1985 không thể tránh khỏi
những hạn chế nhất định nhƣ tình trạng chồng chéo, lẻ tẻ, rời rạc, thiếu tính
thống nhất, việc áp dụng nguyên tắc tƣơng tự gây nên tình trạng khơng thống
nhất, tùy tiện của hoạt động áp dụng pháp luật. Trong giai đoạn này, nạn hàng
giả đã xuất hiện từ sau năm 1975, đã đƣợc kịp thời xử lý bằng biện pháp hình

sự với sự ra đời của Sắc luật số 03/SL, tiếp đó là Pháp lệnh số 07LCT/HĐNN7 với những đặc điểm, hạn chế của pháp luật hình sự giai đoạn
này. Thực tiễn đó cần thiết phải ban hành một văn bản pháp luật hình sự
thống nhất ở tầm bộ luật để quy định cụ thể về tội phạm và trách nhiệm hình
sự, trong đó cần giải quyết những bất cập trong quy định của pháp luật hình
sự về tội sản xuất, bn bán hàng giả.
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
Sau khi Hiến pháp năm 1980 đƣợc ban hành, vào năm 1982, Hội đồng
nhà nƣớc Việt Nam đã quyết định "Kế hoạch năm năm xây dựng pháp luật
1982-1985" xác định phải ban hành nhiều bộ luật lớn, trong đó có BLHS.
BLHS năm 1985 đƣợc ban hành ngày 27/6/1985 là BLHS đầu tiên của nƣớc
ta và là nguồn cơ bản của luật hình sự Việt Nam giai đoạn 1985-1999, chấm
dứt tình trạng quy định các vấn đề tội phạm, hình phạt trong các văn bản pháp
luật đơn hành mà thống nhất vào một văn bản duy nhất là BLHS, loại trừ
hoàn toàn việc áp dụng nguyên tắc pháp luật tƣơng tự trong lĩnh vực hình sự
với việc quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định
trong BLHS.
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả đƣợc quy định tại Điều 167, chƣơng
VII, BLHS năm 1985 là một trong các tội phạm về kinh tế với tên gọi "Tội
làm hàng giả, tội bn bán hàng giả" có nội dung:
Ngƣời nào làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả thì bị phạt
tù từ sáu tháng đến năm năm. Phạm tội thuộc một trong các trƣờng
hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mƣời hai năm: Hàng giả là
21


lƣơng thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phịng bệnh; Có tổ chức;
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc danh nghĩa Nhà nƣớc, tổ chức xã
hội; Hàng giả có số lƣợng lớn; thu lợi bất chính lớn; Tái phạm nguy
hiểm. Phạm tội trong trƣờng hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù

từ mƣời năm đến hai mƣơi năm, tù chung thân hoặc tử hình [23].
Bộ luật hình sự năm 1985, đƣợc sửa đổi, bổ sung 4 lần, trong đó Điều
167 đƣợc sửa đổi bổ sung 2 lần. Năm 1992, trong lần sửa đổi bổ sung Điều
167 lần thứ hai, hình phạt đối với tội làm giả, buôn bán hàng giả đƣợc sửa đổi
theo hƣớng tăng hình phạt ở mức cao hơn và bổ sung thêm đối tƣợng hàng giả
mới là "Vật liệu xây dựng, phân bón, thuốc trừ sâu" vào Điểm a, khoản 2.
Điều luật quy định:
Ngƣời nào làm hàng giả hoặc bn bán hàng giả thì bị phạt
tù từ một năm đến bảy năm. Phạm tội thuộc một trong các trƣờng
hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm năm đến mƣời lăm năm: Hàng giả
là lƣơng thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh, vật liệu
xây dựng, phân bón, thuốc trừ sâu; Có tổ chức hoặc có tính chất
chuyên nghiệp; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh
nghĩa cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức xã hội; Hàng giả có số lƣợng lớn;
thu lợi bất chính lớn; Tái phạm nguy hiểm. Phạm tội trong trƣờng
hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mƣời hai năm đến hai
mƣơi năm, tù chung thân hoặc tử hình [23].
Những sửa đổi, bổ sung trên đây xuất phát từ tình trạng gia tăng và
diễn biến ngày càng phức tạp của nạn hàng giả, cùng với sự gia tăng về tính
chất, mức độ nguy hiểm của hàng giả đối với xã hội và trật tự quản lý Nhà
nƣớc về kinh tế, thể hiện đƣờng lối xử lý nghiêm khắc của Nhà nƣớc đối với
tội phạm này.
Về đối tƣợng tác động của tội phạm: BLHS năm 1985 quy định tội
phạm và hình phạt đối với hành vi sản xuất buôn bán hàng giả thuộc mọi lĩnh
vực trong cùng một điều luật. Trong đó hành vi sản xuất, bn bán hàng giả là
22


lƣơng thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh, vật liệu xây dựng, phân
bón, thuốc trừ sâu đƣợc quy định là tình tiết định khung tăng nặng đƣợc quy

định tại khoản 2, Điều 167 BLHS năm 1985. Hàng giả là thức ăn dùng để
chăn nuôi, thuốc thú ý, thuốc bảo vệ thực vật nói chung và giống vật ni cây
trồng là đối tƣợng của tội sản xuất buôn bán hàng giả, khơng phải là tình tiết
tăng nặng định khung do tại thời điểm ban hành BLHS năm 1985 tình trạng
sản xuất, buôn bán hàng giả đối với các mặt hàng này về tình trạng, tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội không cao hơn so với các loại hàng giả khác.
Về hình phạt bổ sung: Hình phạt bổ sung đối với tội làm hàng giả, tội
sản xuất hàng giả đƣợc quy định trong BLHS năm 1985 cùng với các tội
thuộc nhóm tội về kinh tế. Theo đó, tùy trƣờng hợp ngƣời thực hiện hành vi
phạm tội làm hàng giả, bn bán hàng giả có thể bị phạt tiền đến mƣời lần giá
trị hàng phạm pháp hoặc số lợi bất chính, có thể bị tịch thu một phần hoặc
tồn bộ tài sản, có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề
hoặc những công việc nhất định từ hai đến năm năm.
Việc xác định nhƣ thế nào là hàng giả, BLHS năm 1985 và pháp luật
tại thời điểm ban hành BLHS năm 1985 đã không quy định về vẫn đề này.
Đến năm 1991, sau gần 6 năm BLHS có hiệu lực định nghĩa hàng giả, các dấu
hiệu nhận biết hàng giả mới đƣợc quy định tại Nghị định 140/HĐBT ngày
25/4/1991 của Hội đồng Bộ trƣởng về kiểm tra xử lý việc sản xuất, buôn bán
hàng giả và Thông tƣ liên bộ số 1254-TTLB ngày 08/11/1991 của Ủy ban
khoa học Nhà nƣớc, Bộ thƣơng mại và du lịch hƣớng dẫn thực hiện Nghị định
số 140/HĐBT. Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 140/HĐBT:
Hàng giả theo Nghị định này, là những sản phẩm, hàng hoá
đƣợc sản xuất ra trái pháp luật có hình dáng giống nhƣ những sản
phẩm, hàng hoá đƣợc Nhà nƣớc cho phép sản xuất, nhập khẩu và
tiêu thụ trên thị trƣờng; hoặc những sản phẩm, hàng hố khơng có
giá trị sử dụng đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và
công dụng của nó [15].

23



Tại Điều 4 Nghị định 140/HĐBT quy định:
Sản phẩm, hàng hố có một trong những dấu hiệu dƣới đây
đƣợc coi là hàng giả: Sản phẩm, hàng hoá (kể cả hàng nhập khẩu)
có nhãn sản phẩm giả mạo hoặc nhãn sản phẩm của một cơ sở sản
xuất khác mà không đƣợc chủ nhãn đồng ý; Sản phẩm, hàng hoá
mang nhãn hiệu hàng hố giống hệt hoặc tƣơng tự có khả năng làm
cho ngƣời tiêu dùng nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hố của cơ sở sản
xuất, bn bán khác đã đăng ký với cơ quan bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp (Cục sáng chế), hoặc đã đƣợc bảo hộ theo Điều ƣớc
quốc tế mà Việt Nam tham gia; Sản phẩm, hàng hố mang nhãn
khơng đúng với nhãn sản phẩm đã đăng ký với cơ quan tiêu chuẩn
đo lƣờng chất lƣợng; Sản phẩm, hàng hoá ghi dấu phù hợp tiêu
chuẩn Việt Nam khi chƣa đƣợc cấp giấy chứng nhận và dấu phù
hợp tiêu chuẩn Việt Nam; Sản phẩm, hàng hoá đã đăng ký hoặc
chƣa đăng ký chất lƣợng với cơ quan Tiêu chuẩn Đo lƣờng chất
lƣợng mà có mức chất lƣợng thấp hơn mức tối thiểu cho phép; Sản
phẩm, hàng hố có giá trị sử dụng không đúng với nguồn gốc, bản
chất, tự nhiên, tên gọi và cơng dụng của nó [15].
Với quy định này, lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật về phòng chống
hàng giả, định nghĩa hàng giả và các dấu hiệu để nhận biết hàng giả đƣợc quy
định. Theo đó, hàng giả gồm hai loại: hàng giả về hình thức và hàng giả về nội
dung. Hàng giả về hình thức là hàng sử dụng nhãn giả, bao bì mang nhãn giả
hoặc sử dụng nhãn của nhà sản xuất khác mà khơng đƣợc phép của nhà sản
xuất đó (bao gồm: nhãn sản phẩm, nhãn hiệu hàng hóa, dấu hiệu phù hợp tiêu
chuẩn chất lƣợng Việt Nam). Hàng giả về nội dung là hàng khơng có giá trị sử
dụng hoặc không đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và cơng dụng
của nó, hoặc có mức chất lƣợng dƣới mức tối thiểu do Nhà nƣớc quy định.
Nghị định 140/HĐBT với việc đƣa ra định nghĩa hàng giả và các dấu hiệu
nhận biết hàng giả là một bƣớc tiến mới góp phần hồn thiện pháp luật về


24


phòng, chống hàng giả, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh chống tội
phạm về hàng giả, nguồn bổ sung của pháp luật hình sự về tội phạm hàng giả
và là căn cứ pháp lý cụ thể để các cơ quan tiến hành tố tụng xác định hàng giả.
Bên cạnh đó, BLHS năm 1985 và Nghị định số 140/HĐBT còn bộc lộ
một số hạn chế cả về nội dung và kỹ thuật lập pháp: theo quy định tại Điều
167, BLHS năm 1985 khó có thể phân biệt hành vi sản xuất hàng giả là hành
vi phạm tội với hành vi sản xuất hàng giả là hành vi vi phạm pháp luật khác
do nhà làm luật chƣa định lƣợng hoặc định tính để xác định tính chất và mức
độ nguy hiểm của hành vi nhƣ thế nào thì bị coi là tội phạm và phải chịu trách
nhiệm hình sự. Mặc dù, Nghị định 140/HĐBT đã là nguồn bổ sung những
thiếu sót của Điều 167 BLHS năm 1985 về hàng giả lại tồn tại hạn chế là:
Việc quy định "mức chất lượng tối thiểu" giúp phân biệt hàng giả và hàng
kém chất lƣợng song trên thực tế đây là quy định khơng khả thi do hầu hết các
sản phẩm hàng hóa của nƣớc ta giai đoạn này chƣa có quy định về mức chất
lƣợng tối thiểu nên việc áp dụng pháp luật gặp khơng ít khó khăn.
Bộ luật hình sự năm 1985 đƣợc xây dựng trên nền tảng các quy định
của Hiến pháp năm 1980 - Bản Hiến pháp mang nặng tƣ duy của chế độ kế
hoạch hóa tập trung nên mặc dù là một bƣớc phát triển về chất so với pháp
luật hình sự giai đoạn trƣớc song trong bối cảnh đất nƣớc có những chuyển
biến mạnh mẽ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là năm 1986
Đảng ta đã thông qua Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đổi mới tồn diện
đất nƣớc thì BLHS năm 1985, ngay từ lúc mới ban hành phải đối mặt với
nguy cơ lạc hậu, quy định về tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả đƣợc quy
định tại Điều 167 với những phân tích trên đây đến cuối thập niên 90 đã
khơng cịn phù hợp với tình hình tội phạm về hàng giả. Việc xây dựng một bộ
luật mới, trong đó tội làm hàng giả, bn bán hàng giả đƣợc hồn thiện phù

hợp với tình hình mới là hết sức cần thiết.
1.3. NGHIÊN CỨU SO SÁNH CÁC QUY ĐỊNH TRONG PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ MỘT SỐ NƯỚC VỀ TỘI SẢN XUẤT HÀNG GIẢ, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ

25


×