Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

(Luận văn thạc sĩ) trách nhiệm dân sự của pháp nhân theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ VĂN QUÂN

TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA PHÁP NHÂN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2018

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ VĂN QUÂN

TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA PHÁP NHÂN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Anh Tuấn

HÀ NỘI – 2018


ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

LÊ VĂN QUÂN

iii


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP NHÂNVÀ TRÁCH NHIỆM
DÂN SỰ CỦA PHÁP NHÂN ......................................................................... 9
1.1.Khái quát chung về pháp nhân ................................................................ 9
1.1.1.

Khái niệm pháp nhân...................................................................... 9


1.1.2.

Ý nghĩa và vai trò của sự ra đời pháp nhân.................................. 12

1.1.3.

Các học thuyết lý giải về pháp nhân ............................................ 14

1.1.4.

Các đặc trƣng cơ bản của pháp nhân............................................ 17

1.2.Nền tảng lý luận cho sự ra đời và phát triển của pháp nhân .............. 26
1.2.1.

Quyền tự do ý chí ......................................................................... 26

1.2.2.

Quyền tự do lập hội ...................................................................... 28

1.3.Khái quát chung về trách nhiệm dân sự ............................................... 30
1.3.1.

Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm dân sự ................................. 30

1.3.2.

Các nguyên tắc chung và phân loại trách nhiệm dân sự .............. 34


1.3.3.
dân sự

Cơ sở phát sinh, xác định trách nhiệm và chủ thể của trách nhiệm
...................................................................................................... 36

1.4.Trách nhiệm dân sự của pháp nhân ...................................................... 43
1.4.1.
Lịch sử phát triển chế định pháp nhân và trách nhiệm dân sự của
pháp nhân trong pháp luật ở Việt Nam ........................................................... 43
1.4.2.

Khái niệm trách nhiệm dân sự của pháp nhân ............................. 47

1.4.3.

Các đặc trƣng trách nhiệm dân sự của pháp nhân........................ 48

1.4.4.

Trách nhiệm dân sự của pháp nhân phát sinh từ hợp đồng .......... 50

1.4.5.
Trách nhiệm dân sự của pháp nhân phát sịnh từ quan hệ bồi
thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng ..................................................................... 51

iv



1.5.Kinh nghiệm pháp luật của một số nƣớc quy định về trách nhiệm dân
sự của pháp nhân........................................................................................... 52
1.5.1.

Pháp luật Thái Lan ....................................................................... 52

1.5.2.

Pháp luật của Nhật Bản ................................................................ 54

1.5.3.

Pháp luật của Pháp ....................................................................... 55

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 57
CHƢƠNG 2.THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬTVÀ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰCỦA PHÁP NHÂN
Ở VIỆT NAM ................................................................................................ 58
2.1.Thực trạng pháp luật về cơ sở phát sinh trách nhiệm dân sự của pháp
nhân ................................................................................................................ 58
2.1.1.
Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên
xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân ....................................... 59
2.1.2.
Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự do ngƣời đại diện xác lập,
thực hiện nhân danh pháp nhân. ...................................................................... 60
2.1.3.
Trách nhiệm dân sự của pháp nhân do ngƣời của pháp nhân gây ra
trong khi thực hiện nhiệm vụ đƣợc pháp nhân giao........................................ 67
2.1.4.

Thực trạng quy định pháp luật về tài sản chịu trách nhiệm dân sự
của pháp nhân .................................................................................................. 71
2.2.Thực trạng giải quyết các vụ án về trách nhiệm dân sự của pháp nhân
................................................................................................................. 73
2.3. Đánh giá pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm
dân sự của pháp nhân ................................................................................... 78
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 82
CHƢƠNG 3.MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬTVIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA PHÁP NHÂN . 83
3.1.Cơ sở định hƣớng nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm dân sự
của pháp nhân................................................................................................ 83
3.1.1.

Cơ sở về nhu cầu sự phát triển của nền kinh tế - xã hội .............. 83

3.1.2.

Cơ sở của xu hƣớng cải cách hệ thống pháp luật ở Việt Nam ..... 84

3.1.3.

Cơ sở về sự đòi hỏi của hội nhập quốc tế .................................... 85

v


3.2. Các định hƣớng chủ yếu hoàn thiện pháp luật và áp dụng pháp luật
về trách nhiệm dân sự của pháp nhân ........................................................ 85
3.2.1.
Định hƣớng hoàn thiện quy định pháp luật về pháp nhân- từ bản

chất của các học thuyết pháp nhân .................................................................. 85
3.2.2.
Định hƣớng hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự
của pháp nhân. ................................................................................................. 87
3.2.3.
Định hƣớng nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp liên quan đến
trách nhiệm dân sự của pháp nhân .................................................................. 88
3.3. Các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và áp dụng pháp luật
về trách nhiệm dân sự của pháp nhân ........................................................ 88
3.3.1.
Các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm
dân sự của pháp nhân ...................................................................................... 89
3.3.2.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chế định
trách nhiệm dân sự của pháp nhân .................................................................. 93
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 94
KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96

vi


MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài

Trong hệ thống các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự ở Việt Nam, ngồi
chủ thể thể nhân (con ngƣời cụ thể) cịn có các chủ thể pháp lý khác có tƣ

cách chủ thể giống nhƣ con ngƣời đƣợc pháp luật gọi là pháp nhân. Các pháp
nhân tham gia tích cực và là chủ thể chủ yếu trong các hoạt động kinh tế, hoạt
động quản lý của nhà nƣớc trên cơ sở nhà nƣớc tơn trọng quyền tự do ý chí,
tự do lập hội của cơng dân.
Quyền tự do ý chí, tự do lập hội của công dân đƣợc ghi nhận và đảm
bảo hơn kể từ khi Hiến pháp 2013 đƣợc ban hành và có hiệu lực thi hành.
Điều 14 của Hiến pháp 2013 quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp
và pháp luật”. Cùng với đó, Bộ luật Dân sự 2015 (có hiệu lực từ ngày
01/01/2017) thay thế Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Doanh nghiệp 2015 (có
hiệu lực từ ngày 01/7/2016) đã tạo lên một khung pháp lý cho các chủ thể
trong quan hệ pháp luật hoạt động và phát triển.
Trong các chủ thể quan hệ pháp luật, pháp nhân là một thực thể pháp lý
trìu tƣợng, đƣợc thiết lập hay tổ chức bởi những ngƣời sáng lập theo một cách
hợp pháp, hoạt động bởi mục đích lợi nhuận hay phi lợi nhuận, và dƣới hình
thức sở hữu tƣ nhân hay nhà nƣớc. Chế định pháp nhân đƣợc quy định trong
nhiều ngành luật, bởi pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật ở nhiều
lĩnh vực pháp luật của đời sống xã hội, đặc biệt các quan hệ pháp luật trong
lĩnh vực dân sự, kinh tế. Khi tham gia các quan hệ pháp luật, pháp nhân phát
sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý và chịu trách nhiệm đối với việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ pháp lý với tƣ cách là một chủ thể độc lập của quan hệ

1


pháp luật. Trong đó, vấn đề trách nhiệm dân sự của pháp nhân phát sinh từ
các quan hệ pháp luật đƣợc các nhà làm luật của nƣớc ta hết sức trú trọng
nhằm tạo ra sân chơi bình đẳng cho các loại hình chủ thể pháp luật khác.
Với tƣ cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân phải chịu trách nhiệm

dân sự từ các giao dịch dân sự mà pháp nhân xác lập, thực hiện. Trách nhiệm
dân sự của pháp nhân phải tuân thủ các quy định pháp luật về trách nhiệm dân
sự tại Điều 93 và từ Điều 302 đến Điều 308 và một số quy định trách nhiệm
bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng (Chƣơng XXI) của Bộ luật dân sự năm
2005). Cũng nhƣ đƣợc quy định tại điều 87, từ Điều 351 đến Điều 364 và các
quy định về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng (Chƣơng XX)
của Bộ luật Dân sự 2015.
Nhƣ vậy,trách nhiệm dân sự của pháp nhân có thể phát sinh từ nghĩa vụ
ngoài hợp đồng (trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng) hoặc từ nghĩa vụ theo
hợp đồng (trách nhiệm dân sự theo hợp đồng). Khi ngƣời đại diện (ngƣời đại
diện theo pháp luật hoặc ngƣời đại diện theo ủy quyền) thực hiện các hành vi
nhân danh pháp nhân thì làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, đồng
thời cũng làm phát sinh trách nhiệm dân sự của pháp nhân. Cho nên, pháp
nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự
cho ngƣời đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
Tuy vậy, một thực trạng của pháp luật Việt Nam khi quy định về chế
định pháp nhân nói chung và trách nhiệm dân sự của pháp nhân nói riêng đang
nảy sinh những bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo giữa luật chung và luật chuyên
ngành dẫn đến nhiều hệ quả mà phải kể đến sự xa rời về mặt lý luận và thực
tiễn đời sống, gây khó khăn trong thực thi pháp luật, làm mất đi tính ổn định
cần thiết của pháp luật. Một trong những hệ quả của sự bất cập của pháp luật
ấy, đó là sự thối thác trách nhiệm của pháp nhân khi mà ngƣời đại diện nhân
danh pháp nhân tham gia các giao dịch bằng việc hình sự hóa trách nhiệm cá

2


nhân của ngƣời đại diện. Hậu quả làm cho các chủ thể khác giao dịch với pháp
nhân bị xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp nghiêm trọng.
Cho đến nay, tuy việc nghiên cứu về pháp nhân và trách nhiệm dân sự

của pháp nhân hết sức quan trọng nhƣ vậy, nhƣng trong giới học thuật Việt
Nam chƣa có nghiên cứu cụ thể, chi tiết về tất cả các vấn đề liên quan đến
trách nhiệm dân sự của pháp nhân trong các quan hệ pháp luật dân sự. Điều
này, dẫn tới sự khó khăn khi tiếp cập các quy định về trách nhiệm dân sự của
pháp nhân trên cơ sở khoa học pháp lý, thiếu nền tảng lý luận cho các quy
định pháp luật về pháp nhân và trách nhiệm dân sự của pháp nhân.
Với mục đích tiếp cận trách nhiệm dân sự của pháp nhân trên cơ sở
nghiên cứu toàn diện các mặt về lý luận và thực tiễn quy định của pháp luật ở
Việt Nam, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu vấn đề“Trách nhiệm dân sự của
pháp nhân trong pháp luật Việt Nam” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở các nƣớc trên thế giới, chế định về pháp nhân đã đƣợc hình thành từ
khá sớm trong lịch sử và trở thành nội dung trong hệ thống pháp luật dân sự
của mỗi quốc gia. Bên cạnh chủ thể quan hệ pháp luật là cá nhân, pháp nhân
là chủ thể do tạo ra do đòi hỏi cần đáp ứng các hoạt động của con ngƣời khi
nền kinh tế xã hội phát triển.
Ở nƣớc ta, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về quan hệ pháp luật, chủ
thể quan hệ pháp luật và pháp nhân làm tiền đề lý luận cho các quy định pháp
luật phù hợp với đời sống thực tiễn hơn.
Các cơng trình nghiên cứu về pháp nhân, ngay từ khi nƣớc ta còn là
thuộc địa của thực dân Pháp, mơ hình pháp nhân đã đƣợc các thƣơng gia
ngƣời Pháp du nhập, và áp dụng trong hoạt động của mình tại các thuộc địa.
Các nhà luật học thời bấy giờ đã nghiên cứu về các học thuyết pháp nhân, tìm
ra các đặc tính của pháp nhân. Tiêu biểu là các tác giả nhƣ: Vũ Văn Mẫu

3


(1957), Dân luật khái luận, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản; Lê Tài Triển
(1959), Luật Thương mại toát yếu, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản. Gần đây,

có các bài nghiên cứu, TS Ngô Huy Cƣơng (2001), Pháp nhân, Tạp chí
nghiên cứu lập pháp, số 01, năm 2001; Nguyễn Ngọc Bích- Nguyễn Đình
Cung (2008), Cơng ty: vốn, quản lý và tranh chấp, NXB Trí Thức 2008; Lê
Việt Anh (2008), Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh, TCNCLP số 113,
tháng 1/2008; TS Phạm Hồng Hải (1999), Pháp nhân có thể là chủ thể của tội
phạm hay khơng?, tạp chí Luật học số 6 năm 1999; GS.TS Hồ Trọng Ngũ
(2009), vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự pháp nhân trong
sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 143 ngày
20/03/2009. Các cơng trình nghiên cứu này, đã phần nào làm rõ những vấn đề
cơ bản của pháp nhân, và những bất cập của bộ luật dân sự và luật doanh
nghiệp, bộ luật Dân sự và những hoàn thiện các quy định về chế định pháp
nhân, trong đó có đề cập đến trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong quan
hệ pháp luật.
Ngồi ra, cịn có các cơng trình đƣợc nghiên cứu ở các luận văn thạc sĩ
luật học nhƣ: Nguyễn Thị Tuyết Nhung (2011), Pháp nhân - Chủ thể quan hệ
pháp luật dân sự, luận văn thạc sĩ tại Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Văn Lâm (2011), Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ
pháp luật, luận văn thạc sĩ tại Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. Cả hai
luận văn ghiên cứu về các vấn đề: cơ sở lý luận của việc hình thành và phát
triển pháp nhân căn cứ vào quyền tự do ý chí và quyền tự do lập hội của cơng
dân. Phân tích khái niệm, đặc điểm và phân loại pháp nhân của các nƣớc trên
thế giới và quá trình du nhập vào Việt Nam. Đánh giá thực trạng hệ thống
pháp luật về pháp nhân và tƣ cách pháp nhân của một tổ chức từ việc phân
tích và đối chiếu các văn bản pháp luật và quá trình thực thi pháp luật. Kiến

4


nghị một số định hƣớng và giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật về
pháp nhân.

Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hƣơng (2008), “trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra”, tại Khoa Luật – Đại học
Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã đề cập các cơ sở lý luận và thực tiễn để nghiên
cứu một loại trách nhiệm dân sự của pháp nhân là trách nhiệm bồi thƣờng
thiệt hại do ngƣời của pháp nhân gây ra.
Nguyễn Văn Lâm (2017),Bàn về trách nhiệm dân sự của pháp nhân,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số định kỳ tháng 2 (299) năm 2017, trang 8-14.
Trong bài nghiên cứu, tác giả đã phân tích, bàn luận cơ sở lý luận trách nhiệm
dân sự của pháp nhân, phân tích quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 dựa trên cơ
sở lý luận và thực tiễn để giải quyết tình huống xảy ra trong thực tế cịn có
quan điểm khác nhau về trách nhiệm dân sự của pháp nhân. Tuy nhiên, các
vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật chƣa đƣợc tác giả phân tích tồn diện.
Tuy vậy, đến nay lại chƣa có một cơng trình nghiên cứu một cách tồn
diện, sâu sắc, mang tính hệ thống liên quan đến trách nhiệm dân sự của pháp
nhân trong các quan hệ pháp luật. Cũng chƣa có một cơng trình nghiên cứu
nào đi từ bản chất vấn đề trách nhiệm dân sự của pháp nhân, thực trạng các
quy định của pháp luật và áp dụng pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp
nhân trong thực tiễn nƣớc ta hiện nay, làm cơ sở đƣa ra những kiến nghị, giải
pháp cho việc hành thiện pháp luật. Vì thế, tác giả luận văn này, mong muốn
sẽ góp một phần nhỏ tìm ra những nguyên nhân của bất cập trong các quy
định của pháp luật về pháp nhân và định hƣớng, đƣa ra giải pháp toàn diện để
hoàn thiện chế định này.
3.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Hiện nay, pháp nhân đƣợc quy định tại các ngành luật khác nhau, bao
quát các quan hệ pháp luật trong đời sống xã hội. Vì thế, khi nhắc đến pháp

5



nhân với tƣ cách chủ thể quan hệ pháp luật ngƣời ta thƣờng nhắc đến đầu tiên
trong pháp luật dân sự theo nghĩa rộng bao gồm cả pháp luật kinh doanh,
thƣơng mại; bên cạnh đó, là những lĩnh vực luật chuyên ngành điều chỉnh
quan hệ pháp luật của chủ thể pháp nhân mang tính đặc thù hơn. Ngồi ra,
pháp nhân trong lĩnh vực công cũng chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp, của
lĩnh vực luật hành chính.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung giải quyết các vấn đề pháp lý
về trách nhiệm dân sự của pháp nhân trong quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa
rộng. Quan hệ đó có thể pháp sinh từ hợp đồng hoặc ngồi hợp đồng.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lý luận của nền luật học nƣớc ta, dựa
trên những chủ trƣơng, đƣờng lối và chính sách xây dựng kinh tế - xã hội hội
nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện. Luận văn đặt mục đích nghiên cứu
các vấn đề lý luận trên cơ sở các học thuyết về pháp nhân với tƣ cách là chủ
thể cơ bản của quan hệ pháp luật tơn trọng quyền tự do ý chí và quyền tự do
lập hội của cơng dân. Nêu tồn diện thực trạng các quy định pháp luật hiện
nay về pháp nhân, và những định hƣớng, giải pháp hoàn thiện quy định pháp
luật về vấn đề này.
Bởi mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ sau:
-

Nêu và phân tích các học thuyết về nguồn gốc hình thành pháp

nhân đã trở lên phổ biến trên thế giới. Nghiên cứu cơ sở nền tảngtrên cơ sở
quyền tự do ý chí và quyền tự do lập hội của cơng dân;
-

Phân tích khái niệm, đặc điểm và phân loại pháp nhân của các


nƣớc trên thế giới và q trình du nhập vào Việt Nam.
-

Phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của trách nhiệm dân sự

nói chung và trách nhiệm dân sự của pháp nhân nói riêng.

6


-

Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về trách nhiệm dân sự

của pháp nhân trên cơ sở phân tích và đối chiếu các văn bản pháp luật và quá
trình áp dụng pháp luật để tìm ra nguyên nhân, bất cập trong thực tiễn.
-

Kiến nghị một số định hƣớng và giải pháp nhằm xây dựng, hoàn

thiện pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học và các phƣơng pháp
luận của triết học Mác - Lênin; Lý luận chung về nhà nƣớc - pháp luật; các
quan điểm của Đảng và tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và
pháp luật.
Các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng trong luận văn chủ yếu sử
dụng: phân tích tài liệu, tổng hợp và phân tích thực tiễn chứng minh cho lý
luận, bên cạnh đó, luận văn cịn sử dụng phƣơng pháp của luật so sánh. Và

các phƣơng pháp nghiên cứu riêng biệt của khoa học pháp lý: phân tích quy
phạm, phân tích hệ thống, so sánh pháp luật….
6. Những đóng góp của luận văn
Những đóng góp của luận văn gồm có:
Một là, về lý luận: luận văn tập trung nghiên cứu có hệ thống các khái
niệm về pháp nhân, các học thuyết về sự hình thành pháp nhân, qua đó, thấy
đƣợc các đặc tính của pháp nhân so với các chủ thể khác. Từ đó, tác giả đi
luận giải các vấn đề cơ bản về trách nhiệm dân sự mà pháp nhân phải thực
hiện trong quan hệ pháp luật.
Hai là,về thực tiễn: Thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm dân
sự của pháp nhân trong Bộ luật dân sự, và các luật chuyên ngành nhằm tìm ra
các tồn tại, hạn chế của các quy định pháp luật về chế định này. Hơn hết, tác
giả sẽ phân tích tình hình thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật về trách

7


nhiệm dân sự của pháp nhân để đƣa ra các vƣớng mắc, khó khăn trong thực
tiễn.
Ba là,về định hướng hồn thiện: từ phân tích lý luận, tìm hiểu thực tiễn
quy định pháp luật và thực hiện pháp luật, tác giả sẽ nêu lên các cơ sở hình
thành các định hƣớng và các định hƣớng, giải pháp mang tính tồn diện nhằm
hoàn thiện quy định pháp luật và thực hiện pháp luật về chế định trách nhiệm
dân sự của pháp nhân trong thực tiễn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn bao gồm 3 chƣơng:
Chương 1. Cơ sở lý luận về pháp nhân và trách nhiệm dân sự của pháp
nhân
Chương 2. Thực trạng các quy định pháp luật và áp dụng pháp luật về

trách nhiệm dân sự của pháp nhân ở Việt Nam
Chương 3. Cơ sở định hướng và giải pháp hoàn thiện quy định pháp
luật và áp dụng pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân ở Việt Nam

8


Chƣơng 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP NHÂN
VÀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA PHÁP NHÂN
1.1.

Khái quát chung về pháp nhân

1.1.1. Khái niệm pháp nhân
Trong đời sống xã hội các quan hệ đƣợc hình thành khơng chỉ hình
thành từ các cá nhân riêng biệt, mà còn bao gồm rất nhiều các hoạt động của
những hội, những tổ chức, đoàn thể (bao gồm nhiều cá nhân liên kết với
nhau). Nhu cầu của pháp luật mỗi quốc gia cần thiết phải điều chỉnh các hoạt
động của những nhóm ngƣời đó, hay nói cách khác cần tạo ra thực thể pháp lý
có tƣ cách chủ thể độc lập với những ngƣời hình thành.
Trong lịch sử các nghiên cứu về vấn đề pháp nhân, những học thuyết
pháp lý về pháp nhân đƣợc ra đời, đã lý giải theo nhiều hƣớng khác nhau về
sự xuất hiện, phát triển của pháp nhân trong mối tƣơng quan với các chủ thể
quan hệ pháp luật khác. “Thuật ngữ Pháp nhân có nguồn gốc theo tiếng latinh
nghĩa là một nhóm hoặc hội đồng người. Một thực thể thực hiện các hoạt
động kinh doanh và là chủ thể có các quyền năng pháp lý xuất hiện từ thời La
Mã cổ đại và đế chế Maya ở Ấn độ cổ đại” [57].
Tuy ra đời từ rất sớm do nhu cầu liên kết của con ngƣời, nhƣng đến
nay, pháp nhân có rất nhiều các định nghĩa khác nhau. Nhìn chung, các định

nghĩa đều nêu ra rằng, pháp nhân là một thực thể pháp lý đƣợc ra đời nhằm
đáp ứng điều kiện của đời sống xã hội và hoạt động lập pháp của nhà nƣớc.
Có thể kể đến các định nghĩa sau:
Pháp nhân là một định nghĩa trong luật pháp về một thực
thể mang tính hội đồn, thƣờng dùng trong luật kinh tế. Về pháp

9


nhân có rất nhiều quan điểm và học thuyết nhƣ: có thuyết cho
pháp nhân là một chủ thể giả tạo, có thuyết cho nó là một chủ thể
thực sự v.v.. nhƣng quan trọng nhất pháp nhân chỉ ra đƣợc các
thực thể hội đồn có những biểu hiện tƣơng tự nhƣ thể nhân [56].
Theo định nghĩa trên, pháp nhân là một thực thể mang tính hội đồn
gồm tập hợp nhiều ngƣời, có đời sống đầy đủ giống nhƣ một thể nhân. Trong
các quan hệ pháp luật, pháp nhân có thể đƣợc tổ chức dƣới các hình thức khác
nhau, hoạt động vì lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận. Vì thế, trong quy định của
Hiệp định thƣơng mại giữa Cộng hoà XHCN Việt Nam và Chính phủ Hợp
Chủng Quốc Hoa Kỳ về thƣơng mại năm 2001 cho rằng:
Pháp nhân là một thực thể pháp lý bất kỳ đƣợc thiết lập hay tổ
chức một cách hợp pháp theo luật áp dụng, bất kể vì mục đích lợi
nhuận hay phi lợi nhuận, và dƣới hình thức sở hữu tƣ nhân hay nhà
nƣớc, bao gồm mọi cơng ty, cơng ty tín thác, cơng ty hợp danh, liên
doanh, doanh nghiệp một chủ hay hiệp hội [7, chƣơng 3 điều 11].
Tuy vậy, pháp nhân không phải là một sản phẩm của luật pháp cận đại,
bởi trong pháp luật thời kỳ La Mãcổ đại và đế chế Maya ở Ấn độ cổ đại, pháp
nhân đã đƣợc pháp luật ghi nhận và quy định đáp ứng nhu cầu của xã hội:
Trong cổ luật La Mã, tuân theo xu hƣớng nhân hóa, luật
pháp đã đồng hóa những đồn thể cá nhân hay tập hợp tài sản
này với những ngƣời thƣờng và công nhận cho các thực thể ấy

một nhân cách pháp lý hoặc một nhân cách dân sự, các thực thể
ấy gọi là pháp nhân [33, tr 368-369].
Pháp nhân là sản phẩm do pháp luật nhân cách hóa để chỉmột chủ thể
mà chung ta “khơng nhìn thấy được, cũng chẳng sờ mó được; tuy nhiên, nó
được làm một số việc giống như một con người bình thường và có trách
nhiệm lẫn quyền lợi” [1, tr65-66].Chứng ta có thể chỉ xác định đƣợc các pháp

10


nhân thơng qua sự hình thành dƣới một tên riêng, có trụ sở hoạt động ổn
định, có tài sản riêng độc lập với tài sản của các sáng lập viên sinh ra chúng,
thông qua ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân khi tham gia các quan
hệ pháp luật.
Trong pháp nhân,các chủ sở hữu tham gia cùng góp vốn thành lập và
hoạt động của pháp nhân, họ không phải là các đồng sở hữu chung của các tài
sản đó, mà hình thành một thực thể (là pháp nhân) sẽ là chủ sở hữu của tất cả
các tài sản mà các thành viên đã góp vào và pháp nhân sẽ chịu trách nhiệm
pháp lý trên toàn bộ tài sản trong các quan hệ pháp luật.
Pháp nhân là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, về bản chất
là một phƣơng thức đặc thù về tổ chức hoạt động kinh tế, thể
hiện ở sự tách bạch, cá thể hoá tài sản, nghĩa là tách ra một phần
tài sản riêng biệt để tạo nên một chủ thể riêng biệt, độc lập.
Chính sự cá thể hoá tài sản đã tạo cho pháp nhân sự độc lập về
mặt pháp lý trong quan hệ với cá nhân những ngƣời sáng lập ra
pháp nhân và có khả năng tham gia một cách độc lập trong các
giao lƣu dân sự, chịu trách nhiệm một cách độc lập về tài sản với
các đối tác của mình. Điều này tạo cho các chủ thể kinh doanh sự
năng động, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh, trong nền kinh
tế thị trƣờng với sự cạnh tranh khốc liệt [22, tr 104-105].

Các tài sản của pháp nhân đƣợc ban đầu đƣợc hình thành do các thành
viên đóng góp và các tài sản phát sinh trong quá trình hoạt động hợp thành một
khối tài sản riêng biệt với khối tài sản của các thành viên. Trong quá trình hoạt
động của pháp nhân, nếu ngƣời thứ ba có tranh chấp tranh chấp với pháp nhân,
ngƣời đó thay vì khởi kiện từng thành viên sáng lập thực hiện nghĩa vụ với mình,
bên thức ba chỉ phải khởi kiện pháp nhân ra tòa án để thực hiện nghĩa vụ đó.

11


Trong pháp nhân yếu tố tài sản là hết sức quan trọng theo đó, tài sản
của pháp nhân và tài sản của thành viên pháp nhân phải tách bạch nhau. Các
pháp nhân tham gia các quan hệ pháp luật sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ
pháp lý liên quan đến trách nhiệm về tài sản của pháp nhân. “Một pháp nhân
được hưởng được hưởng những quyền và có những nghĩa vụ tương tự như thể
nhân, trừ những quyền và nghĩa vụ, vì tính chất của chúng, chỉ có thể dành
cho hoặc mắc chịu bởi một thể nhân” (4, điều 70 các quyển I-VI).
Nhƣ vậy, “pháp nhân là một khái niệm để chỉ một loại chủ thể quan hệ
pháp luật độc lập với các chủ thể khác và thành viên của pháp nhân, pháp
nhân ra đời đáp ứng điều kiện của đời sống kinh tế-xã hội và hoạt động lập
pháp. Khác với các tự nhiên nhân, pháp nhân là một thực thể, có thể thực
hiện chức năng của mình một cách hợp pháp, có thể kiện hoặc bị kiện và hoạt
động thơng qua vai trị của người đại diện” [25].
1.1.2. Ý nghĩa và vai trò của sự ra đời pháp nhân
Sự ra đời của pháp nhân nhƣ một nhu cầu tất yếu của xã hội khi mà con
ngƣời muốn liên kết lại với nhau tạo lên các sức mạnh mà một thể nhân
khơng có. Các pháp nhân, cá nhân khi tham gia quan hệ pháp luật đều là các
chủ thể độc lập, bình đẳng.
Khi nghiên cứu ý nghĩa và vai trị của pháp nhân trong đời sống xã hội,
giáo sƣ Jean Claude Ricci chỉ ra vai trò của pháp nhân nhƣ sau [8, tr 105-106]:

- Thứ nhất, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp
luật đƣợc đơn giản hóa. Pháp nhân cho phép đơn giản hóa các quan
hệ pháp luật.
- Thứ hai, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp
luật đƣợc ổn định lâu dài. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng.
Ngƣời ta thƣờng hay nói rằng, pháp nhân khơng gặp phải những
thay đổi bất ngờ nhƣ thể nhân. Thời gian tồn tại của một pháp nhân

12


thƣờng dài hơn cuộc sống của một con ngƣời. Và hoạt động của
pháp nhân có thể kéo dài, thậm chí rất dài. Pháp nhân không bị ảnh
hƣởng bởi những biến cố xảy ra đối với thành viên của nó.
Rõ ràng sự xuất hiện của pháp nhân đã làm cho các quan hệ pháp luật
mà con ngƣời tạo ra đƣợc đơn giản hóa, khi mà pháp nhân thay thế cho hai
hoặc rất nhiều các chủ thể cá nhân. Sự ra đời pháp nhân là để bảo vệ tốt lợi
ích chung của nhóm với những ngƣời có quan hệ, cùng mục đích liên kết với
nhau, cũng nhƣ lợi ích của ngƣời thứ ba có quan hệ với nhóm, cần cơng nhận
sự tồn tại độc lập của nhóm so với cá nhân. Vì thế, “nhóm được coi như có
nhân thân của riêng mình, phân biệt với nhân thân của từng thành viên. Được
nhân cách hóa, nhóm có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ,
nghĩa là có năng lực hành vi, và có tài sản riêng bảo đảm cho việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ đó”[18, tr 221-222].
Tổ chức là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự đƣợc gọi
là pháp nhân ra đời và tồn tại là đòi hỏi khách quan của đời sống
xã hội. Các tổ chức đó khơng đơn thuần là sự tập hợp các thành
viên riêng lẻ mà là một thực thể thống nhất, ràng buộc lẫn nhau
giữa các thành viên [29, tr. 98 – 99].
Mặt khác, cũng có thể thấy sự tồn tại của pháp nhân sẽ không bị ảnh

hƣởng bởi sự thay đổi của các thành viên. Một pháp nhân đƣợc hình thành,
hoạt động trong một thời gian dài, qua các thế hệ của cá nhân và tạo lên một
giá trị đối với xã hội mà phải thể nhân có thể khơng bao giờ làm đƣợc.
Tuy nhiên, sự ra đời của pháp nhân sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu khơng
đƣợc pháp luật của nhà nƣớc ghi nhận và điều chỉnh nó. Đã có rất nhiều quan
điểm khác nhau về sự ra đời của pháp nhân là do pháp luật tạo ra hay pháp
luật ghi nhận đời sống. Sự khác nhau này thể hiện trong pháp luật dựa trên ý
chí của các nhà lập pháp của mỗi quốc gia. Các quy định pháp luật nêu lên tƣ

13


cách chủ thể của pháp nhân. Từ đó, thuật ngữ “tƣ cách pháp nhân” trong các
quy phạm pháp luật đƣợc hiểu là là tƣ cách pháp lý đƣợc pháp luật cơng nhận
cho một thực thể có khả năng tồn tại và hoạt động độc lập trƣớc pháp luật.
1.1.3. Các học thuyết lý giải vềpháp nhân
Đến nay, khi nghiên cứu sự ra đời của pháp nhân có rất nhiều quan
điểm khác nhau, đƣợc lý giải trên các cơ sở lý luận khác nhau, từ đó hình
thành các học thuyết về pháp nhân, có thể kể đến:
1.1.3.1. Học thuyết pháp nhân cổ điển
Học thuyết này cho rằng phán nhân là một hƣ cấu pháp lý. Theo thuyết
này, ngoài thể nhân, các chủ thể quyền lợi khác chỉ là những chủ thể quyền
lợi mang tính giả tạo, do luật pháp tạo ra. Tất cả các pháp nhân đƣợc hình
thành đều do pháp luật tạo ra bằng việc quy định trong một sắc lệnh, đạo luật
cụ thể. Từ đó, sự ra đời, tồn tại hoặc mất đi của một hình thức pháp nhân nào
đó là do pháp luật quyết định. Khi một nhà nƣớc muốn khuyến khích sự ra
đời, phát triển của pháp nhân thì quy định trong pháp luật tạo điều kiện thuận
lợi, cịn nếu khơng muốn một hình thức pháp nhân nào đó tồn tại thì pháp luật
hủy bỏ hình thức đó.
“Khi hình thành, các của cải do các thành viên đóng góp hợp thành

một khối tài sản tách biệt khỏi khối tài sản của các thành viên, và bằng một
hư cấu pháp lý khối tài sản này tạo nên một pháp nhân” [28, tr 168]. Trong
thực tế, học thuyết về sự hƣ cấu của pháp nhân có nhiều lợi thế trong quan hệ
pháp luật mà pháp nhân tham gia, khi bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba bằng
việc khởi kiện pháp nhân thay vì khởi kiện từng thành viên sở hữu pháp nhân.
Tuy “học thuyết này bị chỉ trích mạnh mẽ bởi không phải là học
thuyết hợp lý và chưa giải thích tại sao cần đặt ra hư cấu ấy”[33, tr 379-380].
Đồng thời, nếu dựa trên khía cạnh quyền tự do kinh doanh, thì các học giả
đều phê phán quan điểm của học thuyết này bởi “học thuyết này có một hệ

14


quả logic là sự tồn tại của các pháp nhân đều phụ thuộc vào ý chí của nhà
làm luận”. [11, tr. 76]. Có học giả khác cũng nhận định rằng: “Tư cách pháp
nhân của nhóm do nhà làm luận ban cho, như một ân huệ, một món quà tặng,
và có thể bị người làm luật tước bỏ, nếu muốn” [18, tr. 229].
1.1.3.2.

Họ
c thuyết phủ nhận pháp nhân

Học thuyết phủ nhận pháp nhân thì lại nhận định mục đích của sự ra
đời của pháp nhân là mang lại lợi ích cho các cá nhân thành lập lên pháp
nhân. Chính vì vậy, pháp nhân không thể coi là chủ thể của quan hệ pháp luật.
“Quan điểm này cố gắng chứng minh ai là người cuối cùng thu được lợi
nhuận từ các quan hệ pháp lý và đi tới kết luận ngoài thể nhân, không tồn tại
bất cứ một chủ thể nào khác, từ đó khơng cơng nhận pháp nhân là chủ thể
của các quan hệ pháp luật” [28, tr 65].
Học thuyết này cũng phủ nhận quan điểm của học thuyết pháp nhân cổ

điển khi cho rằng cái đƣợc gọi là pháp nhân chẳng qua là hình thức để che
đậy bản chất thực sự bên trong mà thôi. Các cá nhân khi tham gia các quan hệ
pháp luật đều hƣớng đến các quyền lợi riêng của từng ngƣời, vì họ dựa trên
quyền sở hữu cá nhân về tài sản. Nhƣng, họ cũng có các hoạt động mang tính
cộng đồng nhƣ khi họ lập một hội xã hoặc một công ty chẳng hạn. Tuy nhiên,
chỉ các thể nhân mới có thể là chủ thể quyền lợi và quyền lợi đó có thể xử
sựvới danh nghĩa cá nhân hoặc với danh nghĩa cộng đồng, vì thế pháp nhân
không đƣợc công nhận là chủ thể của các quan hệ pháp luật.
Tuy nhiên, “học thuyết này, cũng khơng thốt khỏi chỉ trích vì đã khơng
chú trọng yếu tố thời gian và không thể coi quyền lợi của pháp nhân chỉ là các
quyền lợi của hội viên đƣợc, vì nhiều khi hai quyền lợi này mâu thuẫn với nhau”
[33, tr 380-381]

15


1.1.3.3.

Họ
c thuyết thừa nhận pháp nhân

Theo học thuyết này, các pháp nhân không do các nhà nƣớc hay quyền
lập pháp tạo lập ra mà nhà nƣớc chỉ có thể ghi nhận và điều chỉnh hoạt động của
các pháp nhân. Nhà nƣớc cũng không thể can thiệp vào việc tồn tại hoặc chấm
dứt pháp nhân, mà pháp nhân chỉ chấm dứt khi đã đạt đƣợc mục đích do những
ngƣời thành lập đặt ra ban đầu trong điều lệ của pháp nhân. “Khi một đoàn thể,
bằng cách nào, phát biểu được một ý định, biểu dương những hoạt động độc lập
với ý định, với hoạt động của đồn viên, thì đồn thể ấy là một chủ thể, có quyền
lợi, có nghĩa vụ như một người, tức là có nhân cách, nhân tính” [33, tr 385].
Học thuyết này là tiền đề cho tự do ý chí và tự do lập hội của cơng dân,

pháp nhân là chủ thể quyền và chủ thể nghĩa vụ do pháp luật quy định khi
tham gia các quan hệ pháp luật. “Trong quan hệ xã hội thể nhân khơng biệt lập
mà gắn bó, phụ thuộc nhau và sự phát triển của xã hội loài người là kết quả của
sự liên kết của con người cho bên các tổ chức này phải có địa vị pháp lý, ít nhất
là như địa vị pháp lý của thể nhân” [54, tr. 65-66].
Tiếp cận theo học thuyết này, phải kể đến quy định tại điều 285 Dân
luật Bắc kỳ 1931:“Các pháp nhân có thể thủ đắc tất cả các quyền lợi và đảm
nhiệm tất cả các nghĩa vụ nào” [33, tr. 377- 378].Bộ luât Dân sự và thƣơng
mại Thái Lan quyển I đến quyển VI quy định: “Một pháp nhân được hưởng
được hưởng những quyền và có những nghĩa vụ tương tự như thể nhân, trừ
những quyền và nghĩa vụ, vì tính chất của chúng, chỉ có thể dành cho hoặc
mắc chịu bởi một thể nhân” (4, điều 70 các quyển I-VI).
Pháp nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của pháp nhânvề
các nghĩa vụ pháp lý phát sinh do ngƣời đại diện xác lập, thực hiện nhân danh
pháp nhân khi tham gia các quan hệ pháp luật. Pháp nhân không chịu trách
nhiệm thay cho các thành viên khi họ tham gia các quan hệ pháp luật với tƣ

16


cách cá nhân và ngƣợc lại thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm
pháp lý thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do ngƣời đại diện hợp
pháp của pháp nhân xác lập, thực hiện.
Các học thuyết pháp nhân đƣợc xem xét trên đây đều đƣa ra các quan
điểm khác nhau về pháp nhân, các quốc gia lựa chọn học thuyết pháp nhân để
xây dựng các quy định pháp lý trong luật thực định. Tuy vậy, khi lựa chọn
một học thuyết pháp nhân phải xem xét bản chất pháp lý cơ bản, đặc trƣng
của pháp nhân, đến việc quy định pháp luật thống nhất, phù hợp và khả thi
với đời sống xã hội của mỗi nƣớc.
1.1.4. Các đặc trƣng cơ bản của pháp nhân

1.1.4.1. Tên gọi
Các pháp nhân muốn thành lập, hoạt động đều phải có tên gọi, tên gọi
đƣợc hình thành do quyết định thành lập hoặc điều lệ của pháp nhân quyết
định. Tên gọi dùng để phân biệt các pháp nhân trong lĩnh vực hoạt động, hay
trong lãnh thổ nơi trụ sở của pháp nhân, và phải sử dụng tên gọi trong các
quan hệ pháp luật. Tên gọi của pháp nhân đƣợc pháp luật công nhận và bảo vệ
trƣớc sự xâm hại của các chủ thể khác.
Tên gọi do các chủ sở hữu pháp nhân cùng nhau bàn bạc đƣa ra, không
vi phạm điều cấm của pháp luật về việc đặt tên. Tên của pháp nhân phải đƣợc
viết hoặc gắn tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện của pháp nhân.
Ở Việt Nam, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về tên gọi của
pháp nhân
Pháp nhân phải có tên gọi bằng tiếng Việt.Tên gọi của pháp nhân
phải thể hiện rõ loại hình tổ chức của pháp nhân và phân biệt với các
pháp nhân khác trong cùng một lĩnh vực hoạt động.Pháp nhân phải sử
dụng tên gọi của mình trong giao dịch dân sự.Tên gọi của pháp nhân
đƣợc pháp luật công nhận và bảo vệ [Điều 78].

17


Theo luật doanh nghiệp tên doanh nghiệp phải viết đƣợc bằng tiếng
Việt, có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phải phát âm đƣợc và có ít nhất hai
thành tố sau đây: a) Loại hình doanh nghiệp; b) Tên riêng.
Theo Luật doanh nghiệp 2014, những điều cấm trong đặt tên doanh
nghiệp:
Đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh
nghiệp đã đăng ký; Sử dụng tên cơ quan nhà nƣớc, đơn vị vũ
trang nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ

chức xã hội - nghề nghiệp để làm toàn bộ hoặc một phần tên
riêng của doanh nghiệp, trừ trƣờng hợp có sự chấp thuận của cơ
quan, đơn vị hoặc tổ chức đó; Sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm
truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục
của dân tộc [39, Điều 39].
1.1.4.2. Trụ sở của pháp nhân
“Cũng như đối với thể nhân, trung tâm hoạt động của pháp nhân diễn
ra trên một địa bàn nhất định” [54, tr. 81]. “Trụ sở của pháp nhân là nơi đặt
cơ quan điều hành của pháp nhân” [BLDS 2015, Điều 79]. Địa chỉ liên lạc
của pháp nhân là địa chỉ trụ sở của pháp nhân. Pháp nhân có thể chọn nơi
khác làm địa chỉ liên lạc.
Tƣơng tự pháp luật Việt Nam, Bộ luật Dân sự Nhật Bản cũng quy định:
“Trụ sở của pháp nhân là nơi làm việc của cơ quan quản lý chủ yếu của pháp
nhân, cụ thể là nơi làm việc của cơ quan quản lý cao nhất thực hiện quyền chỉ
huy tối cao” [Điều 50]
Luật doanh nghiệp 2014 quy định:
Trụ sở chính của doanh nghiệp là địa điểm liên lạc của
doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam, có địa chỉ đƣợc xác định

18


gồm số nhà, ngách, hẻm, ngõ phố, phố, đƣờng hoặc thơn, xóm, ấp,
xã, phƣờng, thị trấn, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ƣơng; số điện thoại, số fax và thƣ điện
tử (nếu có) [Điều 43].
Trụ sở chính của pháp nhân là căn cứ xác lập thẩm quyền tài phán của
Tòa án. Bởi vậy, ở Việt Nam, căn cứ điểm a, khoản 1, điều 39Bộ luật Tố tụng
Dân sự 2015quy định “…Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá
nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hơn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động ...”.
1.1.4.3. Quốc tịch của pháp nhân
Quốc tịch của pháp nhân là quốc tịch của nƣớc, vùng lãnh thổ nơi pháp
nhân đƣợc thành lập, đăng ký kinh doanh. “Pháp nhân được thành lập theo
pháp luật Việt Nam là pháp nhân Việt Nam.”[BLDS 2015, Điều 80]
Trong lĩnh vực kinh doanh, các pháp nhân nƣớc ngoài chịu sự điều
chỉnh của hai hệ thống pháp luật của nƣớc pháp nhân mang quốc tịch điều
chỉnh: năng lực pháp luật dân sự, điều kiện thủ tục thành lập, hợp nhất, giải
thể, chia tách,thanh lý tài sản khi giải thể pháp nhân. Đồng thời chịu sự điều
chỉnh của pháp luật nƣớc sở tại quy định quyền và nghĩa vụ của pháp nhân,
lĩnh vực hoạt động, phạm vi hoạt động, quy mô ngành nghề…
Ở Việt Nam, các quy chế pháp lý của pháp nhân nƣớc ngoài tại Việt
Nam đƣợc xác định trên cơ sở pháp luật Việt Nam và các Điều ƣớc quốc tế
mà Việt Nam là thành viên.
1.1.4.4. Cơ quan điều hành của pháp nhân
Pháp nhân phải có cơ quan điều hành. Các thức thành lập, cơ cấu tổ
chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành đƣợc quy định trong điều
lệ hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.

19


×