Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

(Luận văn thạc sĩ) trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế đối với các hành vi vi phạm pháp luật hải quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.42 KB, 102 trang )

ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
KHOA LUậT

Đào Thịnh Vinh

TRáCH NHIệM PHáP Lý CủA ĐốI TƯợNG NộP THUế
ĐốI VớI CáC HàNH VI VI PHạM PHáP LUậT HảI QUAN Về
THUế XUấT KHẩU, THUế NHậP KHẩU

Luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2010


ĐạI HọC QuốC GIA Hà NộI
KHOA LUậT

Đào Thịnh Vinh

TRáCH NHIệM PHáP Lý CủA ĐốI TƯợNG NộP THUế
ĐốI VớI CáC HàNH VI VI PHạM PHáP LUậT HảI QUAN Về
THUế XUấT KHẩU, THUế NHậP KHẩU

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
MÃ số:
60 38 50

Luận văn thạc sĩ luật học

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Anh Sơn


Hµ Néi - 2010


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố tại bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Đào Thịnh Vinh


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

01

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ XUẤT KHẨU, 06

THUẾ NHẬP KHẨU, TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA ĐỐI TƯỢNG
NỘP THUẾ VỚI HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT HẢI QUAN VỀ
THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU.

1.1.

Quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

06

1.1.1 Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

06

1.1.2 Hoạt động quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

11

1.2.

Đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và trách nhiệm 14
pháp lý do vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hải quan về thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu.

1.2.1 Đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

14

1.2.2 Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan về thuế xuất khẩu, 16
thuế nhập khẩu

1.2.3 Trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật 18
hải quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
1.3

Pháp luật hải quan một số nước về vấn đề trách nhiệm pháp lý của 23
đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu.
Chương 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA 28
ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ DO VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ THUẾ
XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM.

2.1.

Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật trong lĩnh vực hải 28
quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và trách nhiệm pháp lý
của đối tượng nộp thuế.

2.1.1 Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945- 1954)

28

2.1.2 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải 31
phóng miền Nam thống nhất đất nước (1954 - 1975)


2.1.3 Thời kỳ thống nhất đất nước - trước cải cách hệ thống chính sách 34
thuế (1975 - 1989)
2.1.4 Thời kỳ thành lập ngành thuế nhà nước thống nhất (từ năm 1990 36
đến nay)
2.2.


Thực trạng việc thực hiện trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp 39
thuế do vi phạm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

2.2.1 Hiệu quả thực hiện trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế do 39
vi phạm pháp luật HQ về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
2.2.2 Thực tiễn thi hành, áp dụng trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp 44
thuế khi vi phạm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TRÁCH NHIỆM 58
PHÁP LÝ CỦA ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ DO VI PHẠM PHÁP LUẬT
HẢI QUAN VỀ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU.

3.1.

Giải pháp hồn thiện chính sách pháp luật, giải quyết triệt để các 58
vi phạm phát sinh liên quan thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

3.1.1 Về cơ chế, chính sách

58

3.1.2 Hỗ trợ thơng tin về chính sách, pháp luật thuế và vấn đề trách 63
nhiệm pháp lý liên quan đến thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
3.1.3 Hoàn thiện pháp luật về vấn đề trách nhiệm pháp lý hành chính

64

3.2.

Nghiên cứu, hoàn thiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Hải 71

quan trong áp dụng trách nhiệm pháp lý với vi phạm về thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu

3.3.

Về công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật về thuế 73
xuất khẩu, thuế nhập khẩu

3.4

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hải quan trong áp 74
dụng trách nhiệm pháp lý với đối tượng nộp thuế vi phạm pháp
luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

3.5

Nâng cao ý thức của cá nhân, doanh nghiệp trong việc thực hiện 78
pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

3.6

Tuyên tuyền, phổ biến, giáo dục pháp luật liên quan đến vấn đề 80
trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế
KẾT LUẬN

85

DANH MỤC TÀI LỆU THAM KHẢO

87



BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1. BTC

Bộ Tài chính

2. HQ

Hải quan

3. TNPL

Trách nhiệm pháp lý

4. TXK

Thuế xuất khẩu

5. TNK

Thuế nhập khẩu

6. VPPL

Vi phạm pháp luật


DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 2.1: Số vụ vi phạm dẫn đến chênh lệch thuế


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là loại thuế có vị trí, vai trị rất quan
trọng trong việc đảm bảo thực hiện nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Vì
vậy, để tăng cường nguồn thu, nhà nước cần có những biện pháp đẩy mạnh
việc quản lý nguồn thu từ TXK, TNK tránh thất thu cho ngân sách.
Theo Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Trung ương
Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách quản lý nhà nước về hải quan
được định hướng phát triển theo xu hướng hội nhập quốc tế nhưng phải giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thời gian qua, Việt Nam đã tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế, thương
mại quốc tế như: Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp
tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO)… quá trình tham gia vào các tổ chức này, đã từng bước tháo gỡ
những cản trở đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ chế
kinh tế mới dựa trên những nguyên tắc của thị trường có định hướng xã hội
chủ nghĩa. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngồi, giảm
thiểu và dần xóa bỏ các hàng rào thuế quan, phi thuế quan và các rào cản khác
để việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới
phù hợp với những cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Trong xu hướng
chung đó, Hải quan Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Hải quan thế giới (WCO),
từng bước đẩy mạnh cải cách thủ tục HQ, hiện đại hóa các hoạt động của
mình nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới nền kinh tế, phục vụ tốt cho phát triển
xuất nhập khẩu, đầu tư ...
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ban đầu nguồn thu từ TXK,
TNK có thể giảm xuống, nhưng sẽ làm tăng lên số lượng các đối tượng tham

gia hoạt động xuất nhập khẩu, các loại mặt hàng xuất nhập khẩu cũng được

1


khuyến khích phát triển đa dạng về mặt hàng và loại hình. Chính vì lẽ đó các
hành vi vi phạm pháp luật về TXK, TNK ngày càng tăng cả về số lượng, quy
mơ, tính chất và mức độ. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải có một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, thống nhất để điều chỉnh, ngăn chặn và chống lại những vi
phạm pháp luật phát sinh, đây là một yêu cầu bức thiết đang được đặt ra với
BTC, Tổng cục Hải quan và các bộ, ngành trong việc quản lý TXK, TNK.
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005, Luật Quản lý thuế
năm 2006 ra đời là một q trình pháp điển hóa rất lớn các quy phạm pháp
luật về TXK, TNK, tạo tiền đề cho việc quản lý HQ với các loại hàng hóa
trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu. Quá trình thực hiện các luật này thực sự
đã tạo ra một hành lang pháp lý hiệu quả cho việc thu thuế và thực hiện các
nội dung liên quan đến chính sách xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của nước
ta.
Tác giả chọn đề tài: “Trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế đối
với các hành vi vi phạm pháp luật hải quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu” làm đề tài luận văn thạc sĩ vì những lý do sau đây:
- Trong thời gian qua, vi phạm pháp luật về TXK, TNK xảy ra càng
nhiều, quy mô càng lớn với những hành vi tinh vi, phức tạp, có hiện tượng
câu kết để trốn thuế nhằm trục lợi. Vì vậy, nhu cầu cấp thiết hiện nay của xã
hội là cần hoàn thiện pháp luật HQ về TNPL liên quan đến TXK, TNK. Tác
giả mong muốn nghiên cứu, phân tích và làm rõ những quy định của pháp luật
Việt Nam nói chung và pháp luật trong lĩnh vực HQ nói riêng về TNPL của
đối tượng nộp thuế do vi phạm về TXK, TNK.
- Bản thân hiện đang công tác tại Vụ Pháp chế thuộc Tổng cục Hải
quan, là đơn vị tham mưu cho ngành Hải quan về xây dựng, thực hiện chính

sách pháp luật về TXK, TNK nên có thể tiếp cận nhiều vấn đề liên quan đến
TXK, TNK, tác giả có thể tham khảo được kinh nghiệm pháp luật nước ngoài

2


về vấn đề TNPL khi vi phạm về TXK, TNK từ đó có sự so sánh với pháp luật
trong nước, nhằm chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng
TNPL của đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật về TXK, TNK tại Việt
Nam và đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần hồn thiện hệ thống pháp
luật này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài và ý nghĩa của việc nghiên cứu
Hiện nay, tại Việt Nam có một số cơng trình nghiên cứu về pháp luật
HQ và xử phạt vi phạm hành chính, có những bài viết theo quan niệm khoa
học pháp lý có đề cập đến vấn đề xử phạt vi phạm hành chính nhưng cũng chỉ
ở mức độ khái lược. Ví dụ: “Tìm hiểu về xử phạt vi phạm hành chính” của tác
giả Phạm Dũng - Hoàng Sao hay luận án “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về
hải quan ở nước ta hiện nay” của tiến sĩ Vũ Ngọc Anh, luận án “Tiếp tục cải
cách, hiện đại hóa hải quan Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế” hay một số bài nghiên cứu trên Tạp chí Luật học, cũng như một số chuyên
đề giảng dạy môn xử lý vi phạm pháp luật, đấu tranh chống tội phạm trong
lĩnh vực HQ của Tổng cục Hải quan có đề cập đến việc xử lý do vi phạm
pháp luật HQ về TXK, TNK nhưng ở mức độ sơ lược, chưa tập trung vào
TNPL của đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật HQ về TXK, TNK.
Chính vì vậy, luận văn này là cơng trình nghiên cứu đầu tiên, tương đối
đầy đủ và toàn diện về vấn đề TNPL của đối tượng nộp thuế khi vi phạm pháp
luật về TXK, TNK, Luận văn thực hiện các nội dung sau:
- Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật hải quan Việt Nam về vấn
đề TNPL của đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật hải quan về TXK,
TNK để đưa ra các luận cứ khoa học và những lý giải mang tính lý luận nhằm

góp phần định hướng hồn thiện về TNPL nói chung.
- Đưa ra một số đề xuất, giải pháp hoàn thiện pháp luật về TNPL của
đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật hải quan về TXK, TNK nói riêng.

3


- Kết quả nghiên cứu có thể được dùng như tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu khoa học và thực tiễn áp dụng vấn đề này với ngành Hải quan và
với mỗi cán bộ, cơng chức Hải quan.
3. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của luận văn là để làm rõ một số nội dung pháp
lý, cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề TNPL của đối tượng nộp thuế do vi
phạm pháp luật HQ về TXK, TNK. Qua đó, đánh giá tổng thể thực trạng áp
dụng trong những năm qua, chỉ ra những tồn tại, đồng thời có sự so sánh quy
định này với quy định của một số nước trên thế giới để kiến nghị việc hoàn
thiện pháp luật về HQ khi thực hiện việc quản lý TXK, TNK trước yêu cầu
đổi mới và hoàn thiện các quy định pháp luật này tại Việt Nam.
Với phạm vi của một luận văn thạc sỹ Luật học, cũng như kinh nghiệm
có hạn, người viết luận văn khơng đi sâu tìm hiểu hết các quy định về TNPL
nói chung như: TNPL hình sự, TNPL dân sự, TNPL kỷ luật…mà chỉ đi sâu
tìm hiểu, làm rõ một số vấn đề có tính chất cơ bản, cốt lõi và còn nhiều bất
cập xung quanh vấn đề TNPL hành chính của đối tượng nộp thuế khi vi phạm
pháp luật về TXK, TNK.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu, hoàn thiện trên cơ sở sử dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật trong việc xây dựng và hoàn
thiện chế định về hành vi vi phạm pháp luật hải quan về TXK, TNK.
Việc nghiên cứu được sử dụng kết hợp từ lý luận đến thực tiễn, giữa

các phương pháp như: phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích, thống kê,
đối chiếu và dự đoán để giải quyết những vấn đề đã được xác định trong luận
văn.

4


5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu,
trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế với hành vi vi phạm pháp luật hải
quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
Chương 2: Thực trạng vấn đề trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp
thuế do vi phạm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam;
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của đối
tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật hải quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ XUẤT KHẨU,
THUẾ NHẬP KHẨU, TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
CỦA ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ VỚI HÀNH VI VI PHẠM
PHÁP LUẬT HẢI QUAN VỀ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
1.1 Quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
1.1.1 Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Quá trình hình thành, phát triển của xã hội, của mỗi nhà nước cho thấy,

thuế ra đời, tồn tại và phát triển là đòi hỏi cần thiết, khách quan gắn liền với
sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi
tiêu, các nhà nước thường sử dụng ba hình thức động viên là quyên góp của
dân, vay của dân, và dùng quyền lực bắt dân phải đóng góp. Trong đó việc
qun góp và vay của dân là những hình thức khơng mang tính ổn định lâu
dài, thường chỉ được sử dụng giới hạn trong trường hợp đặc biệt. Vì vậy, để
đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, nhà nước phải dùng quyền lực chính
trị buộc dân phải đóng thuế.
Trong thời cổ đại và trung cổ, TXK, TNK còn được các chính quyền
địa phương thu, nhưng hiện nay điều này là rất hiếm và thông thường được
nhà nước giao cho một tổ chức nhà nước chuyên trách về TXK, TNK là hải
quan kiểm tra, tính và thu thuế. Về mặt nguyên tắc, TXK, TNK phải được nộp
trước khi thông quan để người xuất khẩu có thể giao hàng hóa cho người
chuyên chở hay người nhập khẩu đưa mặt hàng nhập khẩu vào lưu thơng
trong nội địa, trừ khi có các chính sách ân hạn thuế hay có bảo lãnh nộp thuế,
nên chúng có thể coi là một trong những loại thuế dễ thu nhất và chi phí để
thu TXK, TNK là khá nhỏ.
Khi nói về thuế C.Mác đã từng viết: “Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy
nhà nước, là thủ đoạn giản tiện cho kho bạc thu tiền”. Và Ph.Ăng ghen viết:
“Đặc trưng thứ hai của nhà nước là sự thiết lập một trật tự công cộng… Để
6


duy trì quyền lực cơng cộng đó cần phải có sự đóng góp của cơng dân, của
nhà nước, đó là thuế má”. V.I. Lê nin cho rằng: “Thuế là cái nhà nước thu của
dân mà không bù lại”.
Theo Đại từ điển Kinh tế thị trường: “Thuế là một hình thức phân phối
thu nhập tài chính của nhà nước để thực hiện chức năng của mình, dựa vào
quyền lực chính trị, tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã hội một
cách cưỡng chế bắt buộc, khơng hồn lại”.

Theo Ngơn ngữ tiếng Việt thì: “Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà
người dân hoặc các tổ chức kinh doanh tùy theo tài sản, thu nhập, nghề
nghiệp v.v… buộc phải nộp cho nhà nước theo mức quy định” [39, tr 501].
Như vậy, tùy theo góc độ đề cập, quan niệm về thuế cịn nhiều ý kiến
khác nhau. Dưới góc nhìn mới về thuế, việc tổ chức, cá nhân nộp thuế cho
nhà nước không phải chỉ để thực hiện nghĩa vụ được quy định trong hiến
pháp, nộp thuế còn là quyền lợi của mọi người dân trong xã hội. Xuất phát từ
cách tiếp cận như trên có thể hiểu: thuế là một khoản tiền, hoặc hiện vật mà
các tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi đóng góp theo luật định
cho nhà nước theo những mức độ và thời hạn cụ thể nhằm đáp ứng nhu cầu
chi của nhà nước, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, phân phối lại một phần thu nhập
và của cải của xã hội, kiểm sốt q trình phân phối và mức chi tiêu trong nền
kinh tế, thay đổi tập quán tiêu dùng của xã hội và khơng mang tính hồn trả
trực tiếp cho người nộp thuế. Một phần thuế là các tổ chức và cá nhân đóng
góp cho nhà nước được trả về với người dân một cách gián tiếp dưới các hình
thức như: trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội và các quỹ tiêu dùng khác.
Theo Luật thuế xuất nhập khẩu hiện hành của Việt Nam thì TXK, TNK
với hàng hóa mậu dịch mang tính chất gián thu, cịn đối với hàng hóa khác thì
tùy từng trường hợp cụ thể có tính chất trực thu hoặc có tính chất gián thu.

7


TXK là một công cụ mà các nước đang phát triển thường sử dụng để
đánh vào một số mặt hàng nhằm tăng lợi ích quốc gia. Trái lại, ở nhiều nước
phát triển người ta không sử dụng TXK do họ không đặt mục tiêu tăng nguồn
thu ngân sách từ TXK. Vì vậy, ở những nước đó khi nói tới thuế quan người
ta đồng nhất nó với TNK.
Cho đến thời điểm hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam chưa có
một khái niệm đồng nhất về TXK, TNK. Theo Từ điển Luật học: “TXK, TNK

là một loại thuế gián thu đánh vào các loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua
biên giới”. Còn theo Từ điển Kinh tế học (Anh - Việt - Giải thích): “Thuế
xuất khẩu (import duty), là khoản thuế mà Chính phủ đánh vào sản phẩm
nhập khẩu. Thuế xuất khẩu được sử dụng để tăng nguồn thu cho Chính phủ và
bảo vệ các ngành sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài”.
Qua xem xét các khái niệm trên ta thấy, những nội hàm chứa đựng
trong đó vẫn chưa phản ánh đúng bản chất, nội dung của TXK, TNK. Chẳng
hạn, khái niệm nêu tại từ điển Luật học chưa nêu được các đặc điểm, vai trò
và chưa bao quát hết đối tượng chịu thuế, chỉ nêu được đặc điểm của TXK,
TNK với tư cách là loại thuế gián thu. Hay khái niệm của Từ điển kinh tế học
(Anh - Việt - Giải thích) tuy đã hàm chứa những vai trò của TNK nhưng chưa
nêu được những đặc thù của TNK so với các loại thuế khác.
Từ những khái niệm trên đây, qua đánh giá những nội hàm của TXK,
TNK ta có thể hiểu: TXK, TNK là một loại thuế gián thu; một yếu tố cấu
thành trong giá cả hàng hóa, do các tổ chức, cá nhân xuất nhập khẩu hàng hóa
thuộc đối tượng chịu thuế đóng góp theo luật định cho nhà nước. TXK, TNK
là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế tài chính, thương
mại vĩ mơ tổng hợp, gắn liền với cơ chế quản lý xuất nhập khẩu và chính sách
đối ngoại của một quốc gia.
* Đặc điểm của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:

8


Từ cách hiểu về TXK, TNK như trên, chúng ta có thể nhận thấy một số
đặc điểm của chúng như sau:
TXK, TNK là một loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá cả
hàng hóa; Phạm vi áp dụng của TXK, TNK là với hàng hóa được phép xuất
nhập khẩu, bao gồm cả hàng hóa xuất khẩu từ thị trường vào khu chế xuất và
xuất khẩu ra nước ngoài hoặc nhập khẩu từ khu chế xuất và từ nước ngồi vào

thị trường trong nước; TXK, TNK có những đặc điểm khác biệt so với các
loại thuế khác ở chỗ “nó” khơng áp dụng đối với hàng hóa được sản xuất và
tiêu thụ trong nước mà chỉ đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu và ln gắn với
hoạt động xuất nhập khẩu để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu và do vậy
thuế xuất nhập khẩu là một trong những cơng cụ thuộc chính sách kinh tế
thương mại quốc tế của một quốc gia.
* Vai trị, tính chất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Mỗi một sắc thuế được ban hành đều có vị trí vai trị nhất định trong
đời sống kinh tế, xã hội. Việc ban hành TXK, TNK tại Việt Nam trong từng
thời kỳ có những nội dung nhất định thể hiện rõ vai trò với nền kinh tế. Tại
thời điểm hiện nay, TXK, TNK được xác định với tính chất và vai trị cụ thể
như sau:
- Là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, điều tiết nền kinh
tế. Chúng ta biết, trong tình hình hiện nay, nguồn thu từ nước ngoài đã giảm
nhiều, kinh tế đối ngoại chịu sức ép của “mua bán sòng phẳng”, “có vay, có
trả”, TXK, TNK là cơng cụ quan trọng giảm bội chi ngân sách, ổn định kinh
tế xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho phát triển kinh tế lâu dài.
- Là loại thuế được cấu thành trong giá cả hàng hóa, làm tăng giá hàng
hóa xuất nhập khẩu. Do đó, có tác dụng điều tiết xuất khẩu, nhập khẩu, hướng
tới tiêu dùng nội địa.

9


- Có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước. Việc đánh thuế cao hàng
nhập khẩu giúp hàng hóa trong nước có thể cạnh tranh được với hàng hóa
nhập khẩu. Giúp các doanh nghiệp cịn non trẻ có thời gian trưởng thành, lớn
mạnh và cạnh tranh được với các mặt hàng nhập khẩu của doanh nghiệp nước
ngoài.
- Giảm bớt sự thất nghiệp vì đánh thuế cao hàng nhập khẩu giảm, để bù

đắp lượng hàng hóa lẽ ra phải nhập khẩu thì nhà nước phải thực hiện mở rộng
sản xuất trong nước từ đó tạo cơ hội việc làm cho người lao động trong nước.
- Là công cụ để Nhà nước thực hiện chính sách phân biệt đối xử trong
quan hệ thương mại với các nước. Giúp mở rộng quan hệ đối ngoại giữa Việt
Nam và các nước trên thế giới.
* Mục đích của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
- TNK có thể được dùng như cơng cụ bảo hộ mậu dịch: Khi nhà nước
thiết chặt quản lý hàng hóa nhập khẩu bằng việc giảm thiểu nhập khẩu làm
cho chúng trở nên đắt hơn so với các mặt hàng thay thế có trong nước và điều
này làm giảm thâm hụt trong cán cân thương mại.
- TXK có thể được dùng để giảm xuất khẩu do nhà nước khơng khuyến
khích xuất khẩu các mặt hàng sử dụng các nguồn tài nguyên khan hiếm đang
bị cạn kiệt hay các mặt hàng mà tính chất quan trọng của nó đối với sự an
tồn lương thực hay an ninh quốc gia được đặt lên trên hết.
Tóm lại, TNK dẫn đến cả thu nhập chuyển giao từ người tiêu dùng sang
chính phủ và nhà sản xuất trong nước đồng thời gây tổn thất lợi ích rịng của
tồn xã hội. Do những tác động ấy, nó khuyến khích sản xuất trong nước, làm
cho người tiêu dùng giảm sút độ thỏa dụng do phải tiêu dùng ít đi nhưng nó
tạo ra nguồn thu cho chính phủ.
Tuy nhiên, thuế quan sẽ khơng cịn là một biện pháp để bảo hộ hàng
hóa sản xuất trong nước thời gian tới nữa. Vì trong lộ trình triển khai thỏa

10


thuận ưu đãi thuế quan chung hướng tới Khu vực Tự do Mậu dịch ASEAN
(AFTA) và cuối cùng là xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN, theo lộ trình
đã xác định, đến năm 2015, cơ chế cắt giảm thuế quan chung sẽ được mở
rộng đến tất cả các nước thành viên ASEAN, trong đó sẽ có 54.457 loại thuế,
chiếm 99,11% tổng số các loại thuế quan buôn bán nội khối được cắt giảm.

1.1.2 Hoạt động quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu
Để bảo vệ lợi ích, nhà nước đã tự quy định những biện pháp có lợi nhất
cho mình trong việc kiểm sốt trao đổi hàng hóa để bảo vệ sản xuất, đồng thời
thu được nhiều lợi ích nhất trong quan hệ với các cộng đồng, nhà nước khác,
đó chính là bản chất của hoạt động HQ. Có thể nói, khơng có trao đổi hàng
hóa giữa các cộng đồng dân cư, và ngày nay là giữa các quốc gia, thì cũng
khơng có hoạt động HQ. Chính sách thuế quan của các nhà nước, lãnh thổ
được đặt ra rất sớm nhằm phục vụ các yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, cộng
đồng và cùng với nó là sự xuất hiện của hiện tượng TNPL do vi phạm các
chính sách này.
Hải quan là một cơng cụ để thực hiện việc bảo vệ an ninh, chính trị, trật
tự an tồn xã hội của mỗi nước. Vai trị này được thể hiện thông qua các hoạt
động phát hiện, xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực HQ,
đảm bảo các nguyên tắc quản lý nhà nước về HQ được tôn trọng, bảo vệ an
ninh tư tưởng, văn hóa, kịp thời ngăn chặn những hành động đe dọa lợi ích,
chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi ích của người kinh doanh [43, tr 14].
Hiện nay, Hải quan của các nước, đã thực hiện tốt các chức năng hiện
đại như kiểm tra việc thực hiện các quy định của quản lý nhà nước đối với
hàng hóa xuất, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh
và quá cảnh như các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, các luật lệ về tài
chính, hạn ngạch xuất nhập khẩu; bảo vệ an ninh nội địa, chống khủng bố,

11


bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng... bên cạnh đó các chức năng truyền thống,
cơ bản như kiểm tra hàng hóa, đấu tranh chống bn lậu, gian lận thương mại
và nhất là chức năng thu thuế vẫn được duy trì và triển khai thực hiện một
cách hiệu quả và thường xuyên.

Tại Việt Nam, cơ quan Hải quan, thông qua việc làm thủ tục HQ và
thực hiện kiểm tra, giám sát HQ, có nghĩa vụ đảm bảo cho hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, quá cảnh theo đúng các quy định của Nhà nước:
các chế độ về giấy phép và hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh,
quá cảnh; các chế độ về thuế và nghĩa vụ tài chính khác; các quy định về tiêu
chuẩn kỹ thuật đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; các quy định về tiêu
chuẩn vệ sinh, môi trường, an toàn thực phẩm, sức khoẻ người tiêu dùng...
Đối với hệ thống TXK, TNK ở nước ta hiện nay được thực hiện theo
chế độ quản lý nhà nước đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà cơ quan
HQ chịu trách nhiệm thực hiện việc kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo việc
tuân thủ pháp luật và được tổ chức như sau:
Chính phủ thống nhất quản lý cơng tác thu TXK, TNK trên toàn quốc;
quy định thẩm quyền, thủ tục miễn thuế, xét miễn thuế, xét giảm thuế, hoàn
thuế, truy thu thuế và xử lý vi phạm về thuế. Bộ trưởng BTC có trách nhiệm
chỉ đạo tổ chức, quản lý thu TXK, TNK đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu. Chủ tịch ẹy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
trách nhiệm chỉ đạo việc phối hợp tổ chức thu TXK, TNK tại địa phương.
Cơ quan HQ là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, giúp Bộ trưởng BTC
thực hiện chức năng chuyên ngành quản lý nhà nước về HQ, thực thi pháp
luật HQ trên cả nước, có trách nhiệm kiểm tra và thu thuế theo quy định của
pháp luật về TXK, TNK và pháp luật HQ, theo các nội dung cụ thể sau:

12


- Tổng cục Hải quan có trách nhiệm đơn đốc chỉ đạo, kiểm tra việc thu
thuế thống nhất trong toàn Ngành. Hướng dẫn Cục Hải quan các tỉnh, thành
phố và Hải quan cửa khẩu thực hiện đúng quy định về đăng ký tờ khai khi tổ
chức, cá nhân có hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cung cấp đầy đủ các chứng

từ hợp lệ để tính thuế; tính đúng số thuế mà tổ chức, cá nhân phải nộp thuế,
đảm bảo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân thực hiện việc nộp thuế.
- Cung cấp và hướng dẫn đối tượng nộp thuế khai báo mẫu biểu, tờ
khai, căn cứ tính thuế.
- Kiểm tra việc kê khai, tính thuế, nộp thuế của đối tượng nộp thuế theo
đúng quy định của pháp luật. Thực hiện tham vấn bằng cách đối thoại trực
tiếp, tạo điều kiện để đối tượng nộp thuế giải trình và cung cấp các tài liệu,
chứng từ có liên quan để làm rõ việc kê khai, tính thuế, nộp thuế và các khoản
thu khác đúng quy định.
- Phối hợp với Cục Thuế cấp tỉnh và các cơ quan nhà nước có liên quan
trong việc thu TXK, TNK nhằm đảm bảo cho việc thu TXK, TNK đảm bảo
chỉ tiêu, kế hoạch được giao. Góp phần đấu tranh phịng chống bn lậu và
gian lận thương mại.
- Tổ chức thu thập, cập nhật các thông tin, dữ liệu về đối tượng nộp
thuế, căn cứ để tính thuế đầy đủ, kịp thời, chính xác theo một hệ thống nhất
định, được lưu giữ tại Trung tâm dữ liệu của cơ quan HQ và được cung cấp
cho các đơn vị có liên quan khai thác và sử dụng.
- Yêu cầu đối tượng nộp thuế cung cấp đầy đủ, kịp thời hồ sơ, tài liệu,
chứng từ, sổ sách kế tốn để kiểm tra việc kê khai, tính thuế, nộp thuế khi có
cơ sở nghi ngờ về căn cứ tính thuế, cách tính số tiền thuế phải nộp, số tiền
thuế được miễn, xét miễn, giảm, hồn, khơng thu theo quy định của pháp luật.
- Ấn định TXK, TNK trong các trường hợp: đối tượng nộp thuế khơng
tự tính được số tiền thuế phải nộp; Đối tượng nộp thuế phải dựa vào các tài

13


liệu khơng hợp pháp để kê khai và tính thuế; khơng kê khai hoặc kê khai
khơng đầy đủ, chính xác căn cứ tính thuế theo quy định của pháp luật; Đối
tượng nộp thuế từ chối, trì hỗn hoặc kéo dài quá thời hạn quy định việc cung

cấp các tài liệu liên quan cho cơ quan HQ để xác định chính xác số tiền thuế
phải nộp.
- Áp dụng các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo việc thu đủ tiền thuế,
tiền phạt; xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại về thuế.
Theo pháp luật các nước, tùy từng nước, với những điều kiện kinh tế xã
hội khác nhau TXK, TNK được quản lý khác nhau. Chẳng hạn, thuế có thể
được nộp ở thời điểm đầu (tức là trước khi xuất trình tờ khai hải quan đã được
ký cho bộ phận tiếp nhận hồ sơ của HQ) hoặc vào thời điểm cuối trong tồn
bộ quy trình (tức là sau khi hồ sơ khai hải quan đã được kiểm tra, tính thuế
lại, giám định và phê duyệt để giải phóng hàng - đợi nộp thuế). Một số nước,
HQ muốn doanh nghiệp nhập khẩu nộp thuế vào thời điểm đầu của quy trình
thơng quan như một hình thức cam kết chính thức với nội dung khai báo. Nếu
kết quả kiểm tra chứng từ hoặc kiểm hóa cho thấy phải nộp thêm thuế thì sau
đó doanh nghiệp nhập khẩu/khai thuê hải quan phải tiến hành sửa đổi, bổ
sung hồ sơ hải quan và nộp bổ sung thuế hải quan.
Cũng có nước, thuế chỉ phải nộp sau khi đã hoàn thành xác minh chứng
từ và kiểm hóa. Đây là cách làm hiệu quả tại các nước có mức độ tuân thủ
pháp luật của doanh nghiệp thấp và khối lượng yêu cầu điều chỉnh nhỏ. Duy
trì hệ thống này có thể chứa đựng trong đó những hoạt động tham nhũng khi
doanh nghiệp nhập khẩu có thể thương lượng để giảm nghĩa vụ nộp thuế
trong quá trình thông quan và chỉ nộp mức thuế thương lượng được cuối cùng
vào thời điểm cuối của q trình thơng quan.

14


Việt Nam áp dụng cả hai hình thức này, vì theo quan điểm của chúng
ta, vấn đề quan trọng nhất là phải nộp thuế trước khi được phép giải phóng
hàng.
1.2. Đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và trách nhiệm

pháp lý do vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hải quan về thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu
1.2.1 Đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Để hiểu được thế nào là đối tượng nộp thuế thì chúng ta cần hiểu khái
niệm và nội dung của các vấn đề liên quan đến đối tượng chịu thuế.
Theo đó, hàng hóa được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên
giới Việt Nam, kể cả hàng hóa trong nước đưa vào trong khu chế xuất và từ
khu chế xuất ra thị trường trong nước đều là đối tượng chịu TXK, TNK. Đối
tượng chịu thuế là những hành vi, hàng hóa, dịch vụ thuộc phạm vi điều chỉnh
của một sắc thuế. Đối tượng chịu thuế chính là mục đích của sắc thuế nhằm
tác động lên để điều tiết một phần thu nhập từ các hoạt động này vào Ngân
sách Nhà nước.
Theo quy định tại Điều 2 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện
hành, đối tượng chịu thuế gồm có:
“1. Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam
2. Hàng hóa được đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan
và từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước”.
Theo nội dung khoản 1 Điều 2 nêu trên thì đối tượng chịu TXK, TNK
bao gồm: hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu đường bộ, đường
sông, cảng biển, cảng hàng không, đường sắt liên vận quốc tế, bưu điện quốc
tế và địa điểm làm thủ tục HQ khác được thành lập theo quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.

15


Khu phi thuế quan theo nội dung khoản 2 Điều 2 nêu trên bao gồm: khu
chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, khu bảo thuế, kho ngoại quan,
khu kinh tế thương mại đặc biệt, khu thương mại - công nghiệp và các khu
vực kinh tế khác được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ,

có quan hệ mua bán trao đổi hàng hóa giữa khu này với bên ngoài là quan hệ
xuất khẩu, nhập khẩu.
Để động viên hợp lý TXK, TNK vào ngân sách nhà nước và phù hợp
thông lệ quốc tế, Điều 3 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định các
hàng hóa khơng phải chịu TXK, TNK khi đã làm đầy đủ thủ tục HQ trong các
trường hợp sau đây:
“Hàng hóa vận chuyển quá cảnh qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam,
hàng hóa chuyển khẩu theo quy định của Chính phủ.
Hàng hóa viện trợ nhân đạo, hàng hóa viện trợ khơng hồn lại của các
Chính phủ, các tổ chức thuộc Liên hợp quốc, các tổ chức liên chính phủ, các
tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ nước ngồi (NGO), các tổ chức
kinh tế hoặc cá nhân người nước ngoài cho Việt Nam và ngược lại, nhằm phát
triển kinh tế - xã hội, hoặc các mục đích nhân đạo khác được thực hiện thơng
qua các văn kiện chính thức giữa hai Bên, được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
các khoản trợ giúp nhân đạo, cứu trợ khẩn cấp nhằm khắc phục hậu quả chiến
tranh, thiên tai, dịch bệnh.
Hàng hóa từ khu phi thuế quan xuất khẩu ra nước ngồi; hàng hóa nhập
khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế
quan; hàng hóa đưa từ khu phi thuế quan này sang khu phi thuế quan khác.
Hàng hóa là phần dầu khí thuộc thuế tài nguyên của Nhà nước khi xuất
khẩu”.
Như vậy, căn cứ đối tượng nộp thuế nói chung thì có thể thấy đối tượng
nộp TXK, TNK chính là các tổ chức, cá nhân có hàng hóa xuất khẩu, nhập

16


khẩu thuộc đối tượng chịu thuế. Đối tượng nộp TXK, TNK là tổ chức, cá
nhân trong nước thuộc mọi thành phần kinh tế và cũng có thể là cá nhân tổ
chức nước ngoài. Trường hợp xuất khẩu, nhập khẩu ủy thác thì tổ chức nhận

ủy thác là đối tượng nộp TXK, TNK.
1.2.2 Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan về thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu
Theo quy định tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính; Nghị định số
97/2007/NĐ-CP ngày 07/6/2007 của Chính phủ và Nghị định số 18/2009/NĐCP ngày 18/2/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 97/2007/NĐ-CP quy định việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan thì vi phạm hành chính về hải quan là loại vi phạm pháp luật,
xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước về hải quan. Mục đích của việc xử lý
vi phạm hành chính về hải quan nhằm ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi
vi phạm hành chính, bảo đảm kỷ cương, giữ vững trật tự pháp luật và đấu
tranh có hiệu quả với hành vi vi phạm hành chính.
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đã quy định cụ thể các nội dung
liên quan đến xử lý vi phạm hành chính như trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong đó, cán bộ, cơng chức HQ
có thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực quản lý của mình.
Theo quy định của Pháp lệnh và Nghị định quy định về xử phạt hành
chính trong lĩnh vực HQ, người có thẩm quyền trong cơ quan HQ có thẩm
quyền phạt tiền, áp dụng các hình thức phạt bổ sung và các biện pháp khắc
phục hậu quả nếu tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quy định tại Nghị định
xử phạt này. Bên cạnh đó, người có thẩm quyền trong cơ quan HQ có thể áp
dụng các biện pháp ngăn chặn để đảm bảo việc xử phạt, áp dụng các biện
pháp cưỡng chế buộc tổ chức, cá nhân vi phạm thi hành quyết định xử phạt.

17


Tuy nhiên, quá trình thực hiện pháp luật về hải quan nói chung, pháp
luật về TXK, TNK trong lĩnh vực HQ nói riêng ln có những hành vi cố ý
hay vô ý vi phạm các quy định của Nhà nước đối với các chế độ quản lý, các
quy trình thủ tục hay việc kiểm tra, giám sát của cơ quan HQ. Các vi phạm đó

xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước về HQ và diễn ra phổ biến ở hầu hết
các khâu nghiệp vụ của quá trình kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan. Các
hành vi vi phạm pháp luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, đều bị xử
phạt, có hành vi bị xử lý vi phạm hình sự như các hành vi bn lậu, hay vận
chuyển trái phép hàng hóa, hành lý qua biên giới (bị xử lý theo quy định của
các Điều 153 và 154 Bộ luật Hình sự), nhưng đa số bị xử phạt theo các quy
định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.
Như vậy, vi phạm hành chính về HQ là một dạng cụ thể của vi phạm
hành chính, xâm hại các quy định trong hoạt động quản lý của Nhà nước, gồm
các hành vi thuộc các nhóm khác nhau, trong đó có hành vi gian lận thuế, trốn
thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Đây là hành vi trái pháp luật do
cá nhân hoặc tổ chức thực hiện do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm các quy định
của pháp luật về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực HQ mà không phải là tội
phạm và phải bị xử lý hành chính theo quy định của pháp luật.
1.2.3 Trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp
luật hải quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Một tất yếu khách quan là khi cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật thì Nhà nước có những phản ứng tiêu cực, tức là tiến hành áp
dụng những hình thức, biện pháp xử lý chống lại những hành vi vi phạm để
lập lại trật tự quản lý xã hội đã bị xâm hại bởi những hành vi này. Những hình
thức, biện pháp xử lý của Nhà nước đối với những hành vi vi phạm pháp luật
tương ứng luôn được xác định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật.
1.2.3.1 Trách nhiệm pháp lý hành chính

18


×