Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

(Luận văn thạc sĩ) về pháp luật trọng tài thương mại ở nước ta hiện nay luận văn ths luật 60 38 50

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (778.93 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU THỦY

Về pháp luật trọng tài thương mại ở nước ta
hiện nay

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2003


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực. Các tài liệu tham khảo có nguồn trích dẫn rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Thu Thủy

1


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cám ơn
Lời cam đoan


1

Mục lục

2

Phần Mở đầu

4
Chƣơng 1

9

TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG
MẠI

1.1 Trọng tài thƣơng mại - một thiết chế khách quan của nền kinh tế

9

thị trƣờng
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của trọng tài

9

1.1.2 Ưu thế của trọng tài

14

1.2 Khái niệm và đặc điểm của pháp luật trọng tài thƣơng mại


17

1.2.1 Khái niệm pháp luật về trọng tài thương mại

17

1.2.2 Đặc điểm pháp luật về trọng tài thương mại

18

1.3 Những yếu tố chi phối chất lƣợng của pháp luật về trọng tài

19

1.3.1 Trình độ phát triển kinh tế của đất nước

19

1.3.2 Cơ chế quản lý kinh tế

20

1.3.3 Thể chế chính trị

22

1.3.4 Mức độ hoàn thiện của các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan đến

22


trọng tài
1.3.5 Sự ảnh hưởng của quá trình hội nhập quốc tế và khu vực

2

23


Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

2.1 Thực trạng pháp luật của trọng tài kinh tế và tình hình tổ chức,

24
24

hoạt động của các trung tâm trọng tài kinh tế nƣớc ta trƣớc ngày ban
hành Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại
2.1.1 Thực trạng pháp luật về trọng tài kinh tế

24

2.1.2 Tình hình hoạt động của trọng tài kinh tế

27

2. 2 Pháp lệnh Trọng tài thƣơng mại - một bƣớc phát triển mới của


31

pháp luật trong tài thƣơng mại ở nƣớc ta
2.2.1 Sự cần thiết phải ban hành Pháp lệnh Trọng tài Thương mại

31

2.2.2 Những điểm mới cơ bản của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại

34

Chƣơng 3

66

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM GÓP PHẦN THỰC THI
PHÁP LỆNH TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀO CUỘC SỐNG

3.1 Ban hành kịp thời các văn bản hƣớng dẫn chi tiết thi hành Pháp

67

lệnh Trọng tài Thƣơng mại
3.2 Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của

72

trọng tài
3.3 Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc liên


74

quan đến hoạt động của trọng tài thƣơng mại
3.4 Đào tạo trọng tài viên, tuyên truyền Pháp lệnh, giúp đỡ về mặt cơ

77

sở vật chất ban đầu cho các trung tâm trọng tài.
PHẦN KẾT LUẬN

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

83

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, các
thành phần kinh tế được tự do và bình đẳng trong kinh doanh. Để đảm bảo quyền
tự do cho các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, chúng
ta cần phải làm nhiều việc, trong đó, việc tạo dựng một cơ chế giải quyết tranh
chấp có hiệu quả đóng vai trị đặc biệt quan trọng. Thực tế cho thấy giải quyết
các tranh chấp kinh tế thơng qua trọng tài là hình thức có nhiều ưu việt: đảm bảo
được bí mật kinh doanh, giữ được uy tín cho các doanh nghiệp và tiết kiệm được
chi phí, thời gian, cơng sức cho tất cả các bên có liên quan. Việt Nam đã có một
hệ thống các văn bản điều chỉnh hoạt động của trọng tài. Tuy nhiên trong bối

cảnh mới, các văn bản này đã bộc lộ những bất cập trong quá trình giải quyết
những vấn đề của thực tiễn.
Để khắc phục những hạn chế của các văn bản pháp luật về trọng tài hiện
hành, ngày 25 tháng 2 năm 2003, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua
Pháp lệnh Trọng tài Thương mại. Sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại
đã đưa pháp luật về trọng tài của nước ta lên một tầm cao mới, không chỉ phù
hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước mà còn làm cho pháp luật Việt
Nam tiếp cận gần hơn với pháp luật về trọng tài của các nước trên thế giới.
Những nội dung đề cập trong Pháp lệnh có nhiều điểm mới, hoàn chỉnh
hơn, khắc phục được những khiếm khuyết của các văn bản pháp lý về trọng tài
trước đây. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu và vận dụng đúng các quy định của
Pháp lệnh Trọng tài Thương mại chắc chắn sẽ hỗ trợ không chỉ cho các nhà kinh
doanh mà cịn cho nhiều người khác có quan tâm. Mặt khác, việc tìm ra các biện
pháp để đưa Pháp lệnh Trọng tài đi vào cuộc sống cũng là một trong những công
việc rất quan trọng và cấp bách hiện nay. Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên
cứu đề tài : "Về pháp luật trọng tài thương mại ở nước ta hiện nay" có một ý
4


nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Các vấn đề liên quan đến trọng tài luôn thu hút sự quan tâm không chỉ của
giới kinh doanh mà còn là vấn đề quan tâm của các nhà khoa học pháp lý. Chính
vì vậy, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau về những vấn
đề liên quan đến trọng tài.
Ở cấp bộ, có thể kể đến các đề tài như: „„Báo cáo chuyên đề về các lĩnh vực
của khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam‟‟ - Dự án VIE/94/003 của Bộ Tư pháp
có phần nghiên cứu pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế ; Đề tài khoa học
cấp bộ của Bộ Tư pháp „„Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế ở Việt
Nam hiện nay‟‟ (1999); Đề tài khoa học cấp bộ do Tòa án nhân dân tối cao chủ

trì năm 2001 „„Tính đặc thù trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, lao động Những vấn đề lý luận và thực tiễn‟‟. Bên cạnh đó cịn có một số luận văn thạc sĩ
và luận án tiến sĩ cũng đề cập đến các nội dung liên quan đến vấn đề trọng tài
như: Luận văn thạc sĩ „„Trọng tài kinh tế phi chính phủ - Cơ quan giải quyết
tranh chấp kinh tế ở Việt Nam‟‟ của Nguyễn Thị Thuận, năm 1996; Luận văn
thạc sĩ „„Hồn thiện pháp luật về hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế bằng
trọng tài ở Việt Nam‟‟ của Bùi Thị Thanh Tuyết; Luận văn thạc sĩ „„Những vấn
đề pháp lý về Trọng tài kinh tế trong nền kinh tế thị trường‟‟ của Đỗ Thị Mai
Hương, năm 1998. Luận án tiến sĩ: "Pháp luật về trọng tài ở Việt Nam - Thực
trạng và phương hướng hoà thiện" của Nguyễn Tiến Lộc, năm 2000; Luận án
tiến sĩ „„Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam các quyết định của trọng tài
kinh tế‟‟ của Nguyễn Trung Tín, năm 2002; Luận án tiến sĩ „„Giải quyết tranh
chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam‟‟ của Đào Văn Hội,
năm 2003.
Ngồi ra, cịn có nhiều bài viết của một số nhà khoa học đăng trên các tạp
chí có nghiên cứu về trọng tài như: Bài viết „„Trọng tài kinh tế, cơ quan tài phán
5


mới trong kinh doanh ở nước ta‟‟ của TS. Dương Đăng Huệ, tạp chí Dân chủ và
Pháp luật số 7 năm 1995; Bài viết „„Một số đặc điểm của Trọng tài phi chính phủ
nước ta hiện nay của TS. Nguyễn Am Hiểu, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7
năm 1995; Bài viết „„Một số ý kiến về thực trạng và phương hướng hoàn thiện
pháp luật Trọng tài kinh tế ở nước ta hiện nay‟‟ của TS. Đoàn Năng, Tạp chí
Luật học số 1 năm 1995 ; Bài viết „„Về cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay‟‟ của PGS.TS Phạm Hữu Nghị ; Bài viết „„Việc
tiếp nhận Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại ở một số nước và
việc xây dựng dự thảo Pháp lệnh Trọng tài của Việt Nam‟‟ của TS. Dương
Thanh Mai; Các vấn đề cơ bản trong việc soạn thảo pháp lệnh Trọng tài, Trần
Hữu Huỳnh, tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2 năm 2002.
Tuy vậy, cho đến nay, chưa có cơng trình nào đề cập tới những nội dung

mới của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại. Nói cách khác những nội dung chủ
yếu của đề tài là chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và sâu sắc trong các
cơng trình nghiên cứu về trọng tài trước đây.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Việc nghiên cứu đề tài nhằm đạt được 02 mục đích chủ yếu là:
Thứ nhất, thơng qua các quy định mới, chứng minh rằng, với sự ra đời của
Pháp lệnh Trọng tài Thương mại thì pháp luật về trọng tài ở Việt Nam đã có một
bước phát triển mới, vượt bậc không chỉ phù hợp với đặc thù của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mà còn ghi nhận được những
thông lệ chung của pháp luật quốc tế về trọng tài.
Thứ hai, tìm kiếm và kiến nghị một số giải pháp nhằm góp phần đưa Pháp
lệnh Trọng tài Thương mại vào cuộc sống. Đây là một mục đích quan trọng của
đề tài vì thực tiễn vừa qua cho thấy, một văn bản pháp luật tốt cũng có thể khơng
phát huy được hiệu quả nếu thiếu những điều kiện vật chất và những nỗ lực chủ
quan của con người.

6


Để đạt được những mục tiêu trên đề tài sẽ tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cơ bản sau đây:
Thứ nhất, là làm rõ tại sao trọng tài kinh tế phi chính phủ ở Việt Nam trong
thời gian vừa qua lại hoạt động kém hiệu quả.
Thứ hai, phân tích những nội dung mới cơ bản nhất trong Pháp lệnh Trọng
tài Thương mại năm 2003.
Thứ ba, dự kiến những khó khăn có thể phát sinh trong q trình thực hiện
Pháp lệnh Trọng tài Thương mại và đề xuất một số giải pháp nhằm đưa Pháp
lệnh vào cuộc sống.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Đề tài là những nội dung mới của Pháp

lệnh Trọng tài Thương mại và những vấn đề thực tiễn có ảnh hưởng tới quá trình
thực thi pháp lệnh này vào cuộc sống.
Những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
duy vật lịch sử là nền tảng lý luận của việc nghiên cứu đề tài. Ngồi ra, để thực
hiện thành cơng đề tài, tác giả sử dụng một cách tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Pháp lệnh Trọng tài Thương mại là một văn bản pháp luật có phạm vi điều
chỉnh rất rộng lớn, giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động
của trung tâm trọng tài thương mại nước ta. Tuy nhiên, do điều kiện có hạn nên
đề tài sẽ chỉ tập trung phân tích những nội dung mới, cơ bản nhất của bản Pháp
lệnh này nhằm khẳng định tính ưu việt của nó so với các văn bản pháp luật về
trọng tài trước đây ở nước ta. Giới hạn này cho phép đảm bảo tính khả thi của đề
tài và phù hợp với năng lực của tác giả.
Trên cơ sở nghiên cứu những mặt tích cực của Pháp lệnh, tác giả sẽ tập
trung đưa ra một số kiến nghị nhằm đưa Pháp lệnh vào thực tiễn một cách có
7


hiệu quả hơn.
6. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được, đề tài có thể được sử dụng làm
tài liệu tham khảo cho những cán bộ làm công tác nghiên cứu và giảng dậy về
trọng tài ở Việt Nam. Trong một phạm vi khiêm tốn hơn, đề tài cũng là tài liệu
tham khảo cho các cơ quan lập quy Việt Nam trong quá trình hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh Trọng tài Thương mại. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng có thể được
các nhà kinh doanh tham khảo phục vụ cho quá trình giải quyết tranh chấp phát
sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Kết cấu của đề tài bao gồm:

- Phần Mở đầu
- Phần Nội dung có 03 chương:
• Chương 1: Trọng tài thương mại và pháp luật về trọng tài thương mại
• Chương 2: Thực trạng pháp luật trọng tài thương mại ở nước ta hiện nay
• Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần thực thi Pháp lệnh Trọng tài
Thương mại vào cuộc sống
- Phần Kết luận

8


Chƣơng 1
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI
1.1 Trọng tài thƣơng mại - một thiết chế khách quan của nền kinh tế
thị trƣờng
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của trọng tài
Khái niệm “Trọng tài” từ lâu đã rất quen thuộc trong đời sống kinh tế ở
các nước, nhưng ở Việt Nam, do những điều kiện đặc thù riêng nên mức độ phổ
biến cũng như nhận thức về khái niệm này cịn nhiều hạn chế.
Có nhiều định nghĩa về trọng tài. Theo giáo trình Tư pháp quốc tế của
Liên Xô (cũ): “Trọng tài bao gồm những cá nhân được các bên lựa chọn để giải
quyết tranh chấp phát sinh từ các vụ việc dân sự của họ”. Theo Giáo sư Philip
Phusa, trường Đại học Tổng hợp Pari II: “Trọng tài là một phương pháp nhằm uỷ
thác bằng thỏa thuận cho một tư nhân (một trọng tài viên) quyền giải quyết một
tranh chấp đối lập giữa các bên trong thỏa thuận ấy” [69, tr.16]. Hay: “Trọng tài
thương mại là cơ quan trung gian được các bên đương sự giao tranh chấp cho để
xét xử” [14]
Theo Khoản 1, Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại ngày 25 tháng 2
năm 2003 thì “Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong

hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự,
thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này quy định”.
Có thể nhận thấy, từ nhiều góc độ khác nhau, thuật ngữ “Trọng tài” được
định nghĩa rất đa dạng. Tuy nhiên, bản chất của trọng tài vẫn chỉ là một, đó là:
Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp hay bất đồng giữa các bên
thơng qua “người thứ ba”, theo đó, người thứ ba được quyền xem xét và ra phán
quyết có tính ràng buộc đối với các bên và nếu phán quyết đó khơng được tự
nguyện thi hành thì sẽ được Nhà nước bằng cách này hay cách khác cưỡng chế
thi hành.
9


Ở Việt Nam, đa số các nhà khoa học pháp lý đều quan niệm hoạt động
trọng tài cũng là hoạt động tài phán, hoạt động xét xử, thủ tục trọng tài cũng là
thủ tục tài phán, thủ tục xét xử. GS.TSKH Đào Trí Úc mặc dù khơng trực tiếp
khẳng định bản chất tài phán của trọng tài nhưng đã nhấn mạnh vai trò đặc biệt
quan trọng của trọng tài: “Xây dựng một hệ thống tài phán kinh tế phù hợp với
yêu cầu của thị trường vừa có khả năng bảo đảm phát huy hiệu quả của hoạt
động kinh doanh vừa bảo đảm pháp chế và kỷ luật” trong đó: “hệ thống trọng tài
làm nền tảng cho hoạt động của tư pháp kinh tế” [68, tr.465]
Thể chế trọng tài luôn thể hiện bản chất hai mặt: thỏa thuận và tài phán.
Do đó, nếu pháp luật quy định việc phải đưa các tranh chấp, bất đồng ra giải
quyết tại một tổ chức trọng tài mà không phải do các bên thỏa thuận thì tổ chức
này khơng phải là một cơ quan trọng tài theo đúng nghĩa. Chính bản chất hai mặt
này của trọng tài làm nên sự khác biệt của hình thức giải quyết tranh chấp bằng
con đường trọng tài so với hình thức khác. Hình thức giải quyết bằng trọng tài có
thể áp dụng đối với mọi loại tranh chấp. Song với những đặc điểm của nó, hình
thức trọng tài đặc biệt phù hợp với các tranh chấp trong kinh doanh. Trên thế
giới hầu hết các trung tâm trọng tài đều là trọng tài thương mại.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trọng tài kinh tế nhà nước là một

loại cơ quan nhà nước, được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước
đối với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Nhiệm vụ chủ yếu của các cơ quan
này là hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc ký kết và thực hiện hợp đồng
kinh tế giữa các đơn vị kinh tế; giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế chỉ là
nhiệm vụ thứ yếu. Trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, trọng tài
kinh tế nhà nước đóng vai trị như một “cơ quan xét xử” của nhà nước mang
danh nghĩa trọng tài, chúng không phải là những cơ quan trọng tài đích thực. Do
vậy, các phán quyết của trọng tài phần nhiều bị chi phối bởi ý chí nhà nước, bảo
vệ lợi ích nhà nước. Những đặc điểm đó khơng còn phù hợp với yêu cầu của việc
giải quyết tranh chấp trong kinh tế thị trường, cho nên mơ hình trọng tài kinh tế
10


ở các nước này đã bị giải thể ngay sau khi chế độ tư bản đã thắng thế.
Ngược lại với mơ hình trên, ở các nước có nền kinh tế thị trường, các
trung tâm trọng tài thương mại thường ra đời trên cơ sở sáng kiến và sự tự
nguyện của các trọng tài viên. Trọng tài thương mại là cơ quan tài phán được
luật pháp của các nước có nền kinh tế thị trường thừa nhận. Các trung tâm này
nằm ngoài các thiết chế nhà nước, chúng tồn tại với tư cách những tổ chức xã hội
- nghề nghiệp, có quy tắc tố tụng riêng và được nhà nước hỗ trợ hoạt động ở
nhiều phương diện. Sự xuất hiện của các trung tâm này là xuất phát từ nhu cầu
của xã hội mà trước hết là của giới thương gia và do chính xã hội tổ chức nên.
Với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp, trọng tài thương mại là những
tổ chức xã hội - nghề nghiệp, được lập ra một cách tự nguyện bởi các trọng tài
viên để tham gia vào giải quyết các tranh chấp trong hoạt động thương mại theo
yêu cầu của các bên tranh chấp.
Với tư cách là một cơ quan tài phán, trọng tài thương mại được tổ chức
theo những mơ hình rất đa dạng. Đó có thể là những trung tâm trọng tài đặt bên
cạnh phịng thương mại và cơng nghiệp như Viện trọng tài Thụy Điển bên cạnh
Phòng Thương mại và Công nghiệp Stockhom, Uỷ ban Trọng tài Thái Lan nằm

bên cạnh Phòng Thương mại Thái Lan và Phòng Thương mại nước ngồi đặt tại
Thái Lan. Đó cũng có thể là các trung tâm trọng tài đứng độc lập dưới hình thức
các cơng ty hoặc các hiệp hội (theo Luật về cơng ty hoặc hiệp hội), ví dụ như:
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) với tính chất một công ty trách
nhiệm hữu hạn, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kông (HKIAC), Hiệp hội
Trọng tài Thương mại Nhật Bản, Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ (AAA), Trung tâm
Trọng tài Thương mại Quốc tế Australia. Mặc dù mơ hình tổ chức có thể khác
nhau, song các trung tâm trọng tài thương mại đều có những đặc điểm như sau
[07]:
Thứ nhất, các tổ chức trọng tài đều là các tổ chức phi chính phủ. Tính
chất phi chính phủ của các tổ chức trọng tài thương mại được thể hiện:
11


- Các tổ chức trọng tài không phải là cơ quan nhà nước, không thực hiện
quyền lực nhà nước. Sự độc lập về tổ chức đã cho phép các trung tâm trọng tài
độc lập trong hoạt động. Các trung tâm trọng tài hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật, trong sự quản lý của nhà nước nhưng không được đặt dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của nhà nước. Sự độc lập thể hiện cao nhất trong hoạt động tố tụng, trong
việc tự xác lập quy tắc tố tụng trên nguyên tắc đảm bảo tối đa quyền tự định đoạt
của các bên đương sự. Các tổ chức trọng tài tồn tại với tư cách là những tổ chức
xã hội - nghề nghiệp, không phải là một cơ quan tài phán tư pháp như tịa án
kinh tế. Các tổ chức này khơng chịu sự can thiệp trực tiếp của nhà nước về tổ
chức, nhân sự, tài chính.
- Các trọng tài viên của các tổ chức trọng tài không phải là công chức nhà
nước, không hưởng lương từ ngân sách nhà nước (trừ một vài biệt lệ như ở Thái
Lan, nhân viên Viện trọng tài thuộc Bộ Tư pháp được hưởng lương từ ngân sách
nhà nước) [24]. Trọng tài viên chỉ tham gia giải quyết các vụ tranh chấp khi
được các đương sự lựa chọn hoặc được trung tâm trọng tài chỉ định. Mức thu
nhập của mỗi trọng tài viên vì vậy tùy thuộc rất nhiều vào uy tín của họ.

- Các tổ chức (trung tâm) trọng tài hoạt động trên nguyên tắc tự hạch
tốn, tự trang trải về tài chính, lấy thu bù chi; không phải là các tổ chức kinh
doanh mà chỉ là các tổ chức phi lợi nhuận.
Tuy là một tổ chức phi chính phủ nhưng các tổ chức trọng tài lại rất cần sự
giúp đỡ, hỗ trợ của nhà nước. Trước hết là của tòa án trong việc áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời, cưỡng chế thi hành phán quyết,... Đối với những nước
mới chuyển đổi như Việt Nam, các tổ chức trọng tài cần được hỗ trợ nhiều hơn
cả về vật chất và pháp lý. Mặt khác, trọng tài phi chính phủ thuộc đối tượng quản
lý của nhà nước. Nội dung quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của
trọng tài thể hiện thông qua việc nhà nước cho phép thành lập, đình chỉ hoạt
động, việc phê chuẩn điều lệ của các trung tâm trọng tài; cấp và thu hồi thẻ trọng
tài viên..
12


Thứ hai, khác với tòa án, các trung tâm trọng tài tồn tại và hoạt động
hoàn toàn độc lập với nhau. Giữa các trung tâm trọng tài khơng có mối quan hệ
trực thuộc lẫn nhau ngoài quan hệ hợp tác. Mỗi trung tâm đều có một vị trí bình
đẳng với nhau cho dù đó là trọng tài trong nước hay trọng tài quốc tế. Các đương
sự có thể thỏa thuận yêu cầu bất kỳ một trung tâm trọng tài nào đứng ra giải
quyết tranh chấp với một đảm bảo chắc chắn rằng mọi phán quyết của các trung
tâm trọng tài khác nhau đều có giá trị pháp lý như nhau. Mỗi trung tâm trọng tài
có một bản quy tắc tố tụng riêng do trung tâm xây dựng, trong đó quy định đầy
đủ các bước cần thiết cho việc giải quyết tranh chấp và không được trái với các
quy định của pháp luật.
Nhìn chung, các bản quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài hầu hết
được xây dựng trên cơ sở Bản quy tắc trọng tài do Uỷ ban của Liên Hợp Quốc
về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL) ban hành năm 1976, hoặc Bản quy
tắc của Phòng Thương mại Quốc tế có hiệu lực từ năm 1988 và một số Cơng ước
Quốc tế có liên quan. Vì vậy, tố tụng trọng tài hiện nay trên thế giới đang có xu

hướng nhất thể hố vì đa phần các trung tâm trọng tài quốc tế và trung tâm trọng
tài nội địa đều vận dụng quy tắc trọng tài của UNCITRAL.
Thứ ba, xuất phát từ bản chất của tài phán trọng tài là hình thành trên cơ sở
do các đương sự thỏa thuận lựa chọn, không mang quyền lực nhà nước nên tố
tụng trọng tài mang những đặc điểm hoàn toàn khác so với tòa án, thể hiện bản
chất trọng tài như:
- Trọng tài chỉ xét xử một lần, một cấp và quyết định của trọng tài mang
tính chung thẩm. Đây là đặc điểm cơ bản nhất làm cho tố tụng trọng tài khác với
tố tụng tòa án là loại tố tụng có nhiều cấp xét xử. Các phán quyết của trung tâm
trọng tài đều là chung thẩm, các bên không thể kháng cáo, kháng nghị lên bất cứ
một tòa án hoặc một cơ quan nào khác. Để đảm bảo tính độc lập của trọng tài,
các cơ quan xét xử của nhà nước cũng chỉ có quyền kiểm tra tính hợp pháp của
phán quyết trọng tài chứ không được xem xét lại về mặt nội dung của các phán
13


quyết đó. Luật pháp của hầu hết các nước đều ghi nhận nguyên tắc xét xử một
lần của trọng tài
- Trong tố tụng trọng tài khơng có vấn đề thẩm quyền về mặt lãnh thổ.
Điều này có nghĩa là các bên tranh chấp có quyền chọn bất cứ trọng tài viên của
bất cứ trung tâm trọng tài kinh tế nào để giải quyết tranh chấp cho mình miễn là
trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận rõ ràng về yêu cầu
đó. Đây là một vấn đề khơng hề có trong tố tụng tịa án là loại tố tụng mà ở đó
đương sự, về nguyên tắc, khơng có quyền chọn tịa án cũng như đích danh thẩm
phán nào tham gia xét xử tranh chấp của mình.
- Các phiên họp giải quyết tranh chấp của trọng tài được tiến hành bí mật.
Xuất phát từ lợi ích chính đáng của các nhà kinh doanh, từ nhu cầu bảo vệ một
cách nghiêm ngặt các bí quyết nghề nghiệp của họ mà pháp luật không bắt buộc
các phiên họp xét xử của trọng tài phải được tiến hành công khai. Những quy
định của pháp luật về vấn đề này đã tạo nên những ưu thế của việc giải quyết

tranh chấp kinh doanh bằng trọng tài so với những hình thức tài phán khác, nhất
là với tịa án.
- Trọng tài khơng có nguyên tắc xét xử trực tiếp. Điều này thể hiện ở chỗ,
khi xét thấy chứng cứ đã đầy đủ và được sự đồng ý của các bên thì trọng tài viên
duy nhất hoặc hội đồng trọng tài có thể đem vụ tranh chấp ra giải quyết mà
không cần phải có sự có mặt của các bên. Nguyên tắc này là hồn tồn xa lạ đối
với tố tụng tịa án là loại tố tụng mà ở đó mọi chứng cứ đều phải kiểm chứng và
xem xét lại tại phiên tòa cơng khai thì mới có giá trị pháp lý.
1.1.2 Ƣu thế của trọng tài
Mỗi quốc gia, tùy thuộc vào những điều kiện, hồn cảnh cụ thể, có thể có
nhiều phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau. Mỗi phương thức giải quyết
tranh chấp kinh tế đó đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Chỉ có các
bên tranh chấp mới có thể quyết định lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp nào trong từng hoàn cảnh cụ thể. Việc lựa chọn phương thức thích hợp
14


được cân nhắc trên hàng loạt các vấn đề như mục tiêu đặt ra, bản chất loại hình
tranh chấp, mối quan hệ và uy tín bạn hàng, chi phí thời gian và tính hiệu quả
thiết thực của phương thức giải quyết đó. Trong số các hình thức giải quyết tranh
chấp kinh tế hiện nay thì phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng
tài là phương thức được các nhà doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển rất ưa chuộng. Sở dĩ có được sự hấp dẫn này là vì trọng tài có
những ưu thế mà các hình thức giải quyết tranh chấp khác khơng có được.
Những ưu thế cơ bản đó là:
Thứ nhất: Bảo đảm bí mật và uy tín kinh doanh của các bên tranh chấp
cũng như duy trì quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa các bên.
Tâm lý của các nhà kinh doanh là các tranh chấp phát sinh cần phải được
giải quyết một cách kín đáo, khơng ồn ào, bảo đảm được uy tín của các doanh
nghiệp và đặc biệt là sau khi tranh chấp được giải quyết thì mối quan hệ làm ăn

hữu hảo vẫn phải được bảo toàn. Chỉ có trọng tài mới thỏa mãn được nhu cầu có
tính nghề nghiệp này của các nhà kinh doanh. Các buổi họp xét xử của trọng tài
có thể tiến hành khơng cơng khai, trọng tài viên có trách nhiệm đảm bảo bí mật
các vấn đề có liên quan đến các bên, quyết định của trọng tài chỉ được công bố
rộng rãi khi các bên đồng ý. Các trọng tài viên khơng được quyền tiết lộ những
vấn đề có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp cho bên thứ ba biết nếu chưa
được các bên tranh chấp chấp nhận. Việc giữ bí mật trong giải quyết tranh chấp
kinh tế đã trở thành nguyên tắc được thể hiện trong hầu hết quy tắc tố tụng của
các tổ chức trọng tài và có thể nói ngun tắc này là đối lập hồn tồn với
ngun tắc xét xử cơng khai của tịa án.
Thứ hai, đảm bảo giải quyết nhanh chóng các tranh chấp, tiết kiệm được
thời gian.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh tế cho thấy, các tranh chấp kinh tế
thường liên quan đến giá trị tài sản lớn và bên thực hiện nghĩa vụ thường cố tình
trì hỗn việc thực hiện nghĩa vụ để chiếm dụng vốn của đối tác. Bởi vậy, một
15


yêu cầu hàng đầu trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế là nhanh chóng, dứt
điểm, tránh dây dưa, kéo dài. Thời gian tạo ra cơ hội kinh doanh, nếu quá tập
trung vào việc giải quyết tranh chấp, các bên có thể bỏ lỡ cơ hội kinh doanh mà
giá trị có thể cịn lớn hơn giá trị đang tranh chấp. Hơn nữa, việc giải quyết tranh
chấp khơng nhanh chóng, dứt điểm sẽ gây tâm lý căng thẳng kéo dài cho các nhà
kinh doanh và chắc chắn điều này sẽ ảnh hưởng rất xấu đến hiệu quả kinh doanh.
Thủ tục tố tụng của tịa án là khó có thể thỏa mãn nhu cầu này, vì tố tụng của tịa
án vốn là một loại tố tụng được đặc trưng bởi nhiều thủ tục xét xử khác nhau: sơ
thẩm, phúc thẩm, tái thẩm đến giám đốc thẩm. Trọng tài với nguyên tắc xét xử
một lần đương nhiên có khả năng đáp ứng được nhu cầu có tính nghề nghiệp của
các nhà kinh doanh.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài linh hoạt, tạo ra tâm lý thoải

mái và tạo quyền chủ động hơn cho các bên.
Đặc trưng của hầu hết các hệ thống tòa án là ở các quy tắc tố tụng chặt
chẽ. Q trình giải quyết tranh chấp, bản thân tịa án và các chủ thể tham gia tố
tụng đều phải triệt để tuân thủ các quy tắc này. Trong khi tố tụng tịa án thể hiện
tính cứng nhắc, thì trọng tài lại được tiến hành với quy tắc mềm dẻo, linh hoạt.
Các bên tranh chấp có quyền lựa chọn giải quyết tranh chấp tại hội đồng trọng
tài do các bên thành lập hoặc bất kỳ trung tâm trọng tài nào mà hai bên đồng ý.
Như vậy, các bên có quyền lựa chọn hình thức trọng tài (trọng tài thể chế hay
trọng tài Adhoc) để giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, các bên có thể xây dựng quy
tắc tố tụng riêng hoặc áp dụng quy tắc tố tụng của một trung tâm trọng tài trong
trường hợp các bên lựa chọn trọng tài vụ việc để giải quyết tranh chấp. Trong thủ
tục xét xử ở tịa án, các bên khơng có cơ hội để lựa chọn cho mình một người xét
xử mà do tòa án chỉ định. Ngược lại, trọng tài viên là do các bên lựa chọn, do đó,
các bên có điều kiện để lựa chọn cho mình những người có năng lực, có chun
mơn giỏi và phù hợp để giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp không tin tưởng
trọng tài viên đã chọn thì các bên tranh chấp cũng được quyền thay đổi bằng một
16


trọng tài viên khác.
Đồng thời các bên tranh chấp cũng có quyền thỏa thuận về thời gian, địa
điểm giải quyết tranh chấp, cũng như ngôn ngữ áp dụng trong quá trình giải
quyết tranh chấp. Điều này tạo cho các nhà doanh nghiệp khả năng sắp xếp thời
gian một cách hợp lý để vừa tham gia tố tụng giải quyết tranh chấp vừa có thể
điều hành việc kinh doanh của mình một cách tốt nhất và đây chính là một trong
những lực hút cơ bản của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
1.2 Khái niệm và đặc điểm của pháp luật trọng tài thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm pháp luật về trọng tài thƣơng mại
Pháp luật trọng tài thương mại là toàn bộ các văn bản pháp luật do nhà
nước ban hành, trong đó quy định về cơ cấu tổ chức, về trọng tài viên, về thỏa

thuận trọng tài, về giá trị pháp lý cũng như việc thi hành các quyết định của
trọng tài và trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp thương mại.
Như vậy, thông thường pháp luật trọng tài thương mại bao gồm các quy
phạm pháp luật quy định về một số vấn đề chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên để đưa ra trọng tài giải
quyết tất cả hoặc một phần tranh chấp, đã phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa họ
từ một quan hệ pháp lý xác định, quan hệ hợp đồng hoặc không phải hợp đồng.
Các quy định về thỏa thuận trọng tài phải đề cập tới nội dung, hình thức của thỏa
thuận trọng tài; các trường hợp thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu.
Thứ hai, trọng tài viên
Pháp luật trọng tài cần quy định rõ những tiêu chuẩn của trọng tài viên,
cũng như các quyền và nghĩa vụ của trọng tài viên trong quá trình giải quyết
tranh chấp.
Thứ ba, trung tâm trọng tài.
Pháp luật về trọng tài cần quy định rõ về việc thành lập, công nhận, cơ cấu
17


tổ chức, tính chất của các trung tâm trọng tài.
Thứ tư, tố tụng trọng tài
Tố tụng trọng tài được hiểu là trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp tại
trọng tài hay nói cách khác, đó là quy trình giải quyết một vụ tranh chấp thương
mại bằng trọng tài. Vì tố tụng trọng tài là một vấn đề quan trọng bậc nhất trong
quá trình giải quyết một vụ tranh chấp thương mại nên các quy định của pháp
luật về vấn đề này được coi là phần nội dung cốt yếu của pháp luật trọng tài. Nó
quy định rõ về việc thành lập, lựa chọn hội đồng hay trung tâm trọng tài; thay
đổi, khước từ trọng tài viên; hồ sơ tranh chấp; địa điểm và phương thức tiến
hành trọng tài; nội dung và hình thức của quyết định trọng tài…
Thứ năm, huỷ quyết định của trọng tài

Pháp luật trọng tài cần quy định rõ thủ tục cần tiến hành nhằm yêu cầu tòa
án hủy quyết định của trọng tài nếu quyết định đó được đưa ra một cách bất hợp
pháp. Quan trọng hơn, pháp luật còn phải quy định những căn cứ để tịa án dựa
vào đó mà hủy quyết định của trọng tài. Đơn yêu cầu hủy quyết định của trọng
tài chỉ được chấp thuận nếu có những bằng chứng xác đáng về những vi phạm đã
có trong q trình tố tụng trọng tài.
Thứ sáu, công nhận và thi hành quyết định của trọng tài
Tính cưỡng chế thi hành của quyết định trọng tài có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng đối với hiệu quả của trọng tài. Vì vậy, pháp luật về trọng tài cần có những
quy định về thời hạn thi hành, thủ tục, trình tự thi hành cũng như trách nhiệm
của các cơ quan thi hành án đối với các phán quyết của trọng tài.
Thông thường, trên cơ sở những nội dung cơ bản của Luật mẫu về Trọng
tài Thương mại Quốc tế được Uỷ ban của Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại
Quốc tế thông qua ngày 21 tháng 6 năm 1985, các quốc gia tiến hành xây dựng
pháp luật trọng tài phù hợp với thể chế chính trị, trình độ phát triển kinh tế và
đặc điểm văn hố xã hội của đất nước mình. Chính vì vậy, pháp luật trọng tài
thương mại có giá trị xã hội sâu sắc, nó có tính dân tộc và tính thời đại. Pháp luật
18


trọng tài chịu sự chi phối sâu sắc của một loạt các yếu tố được phân tích trong
phần 1.3 của chương này.
1.2.2 Đặc điểm pháp luật về trọng tài thƣơng mại
Một trong những đặc điểm khá nổi bật của pháp luật trọng tài là chúng
thường được ban hành dưới hình thức một đạo luật của cơ quan lập pháp, trong
đó chứa đựng cả quy định pháp luật nội dung và quy định pháp luật hình thức.
Điểm này hồn tồn khác với pháp luật về tịa án vì ở đó, luật nội dung và luật
hình thức được quy định tách biệt nhau. Ví dụ như ở Việt Nam, có Bộ luật Dân
sự và Bộ luật Tố tụng Dân sự; Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự; Pháp
lệnh Hợp đồng Kinh tế và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế…

Có thể nhận thấy hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc pháp luật trọng tài
được ban hành dưới hình thức một văn bản pháp luật trong đó bao gồm cả các
quy định về luật nội dung và quy định về luật hình thức. Nguyên nhân thứ nhất
là tính khơng thể tách rời của hai nội dung này trong pháp luật trọng tài. Tính
chất của các vụ tranh chấp kinh tế đòi hỏi các quy phạm về hình thức và nội
dung của trọng tài thương mại cần phải đi đôi với nhau. Nguyên nhân thứ hai là
pháp luật trọng tài thương mại cũng không quá phức tạp đến mức đòi hỏi phải
tách riêng các quy phạm về nội dung ra khỏi các quy phạm về hình thức. Tuy
vậy, ở một số quốc gia phát triển, tố tụng trọng tài được quy định trong Bộ luật
Tố tụng Dân sự.
Một đặc điểm khác của pháp luật trọng tài là tính mở và tính hội nhập cao
của nó. Pháp luật trọng tài mang tính thơng lệ quốc tế sâu sắc. Đặc điểm này
càng thể hiện rõ nét hơn trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, khi mà hàng
ngày hàng giờ đang xảy ra quá trình loại bỏ dần dần các hàng rào thuế quan và
phi thuế quan, việc gia tăng của các luồng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và
các luồng đầu tư ra nước ngoài, sự tăng trưởng của các hoạt động xuất nhập
khẩu, chun mơn hố trong sản xuất. Các doanh nghiệp thường khơng sản xuất
tồn bộ (100%) một sản phẩm hồn chỉnh trong phạm vi một quốc gia mà có thể
19


phân chia thành nhiều công đoạn khác nhau và tiến hành từng công đoạn ở các
quốc gia khác nhau để khai thác lợi thế cạnh tranh có hiệu quả nhất. Phân công
lao động quốc tế (thông qua FDI) đang tạo ra một sự phụ thuộc lẫn nhau rất lớn
giữa các quốc gia. “Trật tự kinh tế quốc tế đang chuyển mình thành một hệ thống
liên kết và gắn kết cao” [40, tr.115]. Thị trường trong nước là một phần gắn bó
khơng thể tách rời của thị trường thế giới. Nói cách khác, ngày nay các hoạt
động thương mại của một quốc gia đã nhuốm màu quốc tế một cách sâu sắc và
sự hội nhập của pháp luật trọng tài thương mại với quốc tế là hệ quả lơ gíc của
q trình này.

1.3. Những yếu tố chi phối chất lƣợng của pháp luật về trọng tài
1.3.1 Trình độ phát triển kinh tế của đất nƣớc
Pháp luật về trọng tài là một trong những công cụ hữu hiệu mà xã hội tạo ra
để góp phần phát triển nền kinh tế một cách có hiệu quả nhất. Nội dung của pháp
luật trọng tài, vì vậy, gắn bó chặt chẽ với trình độ phát triển của nền kinh tế.
Trước hết, trình độ phát triển kinh tế sẽ quy định trình độ của cơ quan lập pháp
và đó chính là sự bảo đảm cao nhất cho tính hồn thiện, chặt chẽ của pháp luật
trọng tài.
Ngồi ra, sự ảnh hưởng của trình độ phát triển kinh tế đối với pháp luật về
trọng tài còn thể hiện ở chỗ, khi kinh tế phát triển cao thì các quan hệ thương mại
càng trở nên đa dạng và phức tạp, cuộc đấu tranh giữa các lợi ích càng trở nên
sâu sắc và khốc liệt. Thực trạng này buộc nhà lập pháp phải dày công nghiên cứu
để làm sao pháp luật phải quy định được một cơ chế giải quyết các tranh chấp đó
có hiệu quả hơn. Và đó chính là tiền đề, là nguyên nhân làm cho pháp luật về
trọng tài được xây dựng sát với cuộc sống hơn, ngang tầm với thực tiễn sản xuất
kinh doanh hơn, tức là ngày một trở nên hồn thiện hơn.
Một khía cạnh khác cũng cần được quan tâm là sự phát triển của khoa học
công nghệ cũng gây ra những tác động tới hệ thống pháp luật kinh tế nói chung
và pháp luật trọng tài nói riêng. Với chữ ký điện tử đựơc chấp nhận, tính hợp
20


pháp của các hợp đồng kinh tế có thể bước sang một trang hồn tồn mới. Hình
thức và bản chất của các mối quan hệ giữa các đối tác kinh tế có thể biến đổi
nhanh chóng. Tiến bộ của khoa học cơng nghệ có thể làm thay đổi một cách tồn
diện q trình xét xử của trọng tài từ việc xem xét các chứng cứ pháp lý tới hình
thức (quá trình) của tố tụng trọng tài. Khi pháp luật trọng tài thể hiện được sự
thay đổi này thì chính nó đã phát triển nên một tầm cao mới.
1.3.2 Cơ chế quản lý kinh tế
Kinh tế thị trường là một phương thức tổ chức vận hành kinh tế xã hội phổ

biến. Kinh tế thị trường hình thành từ kinh tế hàng hoá và là giai đoạn phát triển
cao của kinh tế hàng hố. Nói đến kinh tế thị trường, thực chất là nói đến cơ chế
thị trường, tức là cơ chế vận hành của nền kinh tế. Theo P.A. Samuelson, cơ chế
thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó cá nhân người tiêu dùng và
các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung
tâm của tổ chức kinh tế là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho
ai? Đó là “một cơ chế tinh vi để phối hợp mọi người, mọi hoạt động và mọi
doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả thị trường” [57, tr.68].
Cơ chế thị trường theo một cách hiểu chung là một cơ chế mà trong đó
tổng thể các nhân tố và quan hệ cơ bản của kinh tế thị trường vận động dưới sự
chi phối của quy luật thị trường trong mơi trường cạnh tranh vì mục tiêu lợi
nhuận [09, tr.71]. Trên phương diện lý luận, hiện nay còn có hai khái niệm khác
nhau là: “Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” và “Kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa”. Các nhà kinh tế học Trung Quốc sử dụng hai khái niệm này với hàm ý
phân biệt bản chất giữa kinh tế thị trường của các nước theo chủ nghĩa tư bản và
kinh tế thị trường của các nước theo chủ nghĩa xã hội [70, tr.112-113].
Cơ chế quản lý kinh tế có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới pháp luật trọng
tài thơng qua việc chi phối tồn bộ các mối quan hệ giữa các thành phần của nền
kinh tế. Như đã phân tích, cơ chế kinh tế có khả năng quyết định tới tồn bộ việc
vận hành nền kinh tế từ phân bổ nguồn lực tới cách thức sản xuất và phân phối
21


sản phẩm. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các chủ thể (doanh nghiệp)
quan hệ với nhau thông qua các chỉ thị và mệnh lệnh của các cơ quan quản lý
cấp trên. Ngược lại, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp quan hệ chủ
yếu thông qua các hợp đồng tự nguyện. Như vậy, bản chất của các tranh chấp
giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hoàn toàn khác với nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung. Quyền tự chủ của các chủ thể trong nền kinh tế với
các cơ chế quản lý khác nhau cũng hồn tịan khác nhau và thực tế cho thấy

trong nền kinh tế thị trường thì người kinh doanh được nhiều quyền tự do hơn so
với các doanh nghiệp trong nền kinh tế kế hoạch hố tập trung. Chính vì có tự do
và muốn thực thi được quyền tự do đó mà các doanh nhân trong cơ chế kinh tế
thị trường thích hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hơn là ở các nước
khác. Điều đó lý giải tại sao tính chất của cơ chế kinh tế cũng có ảnh hưởng
khơng nhỏ đến chất lượng của pháp luật về trọng tài. Chỉ có trong cơ chế thị
trường thì trọng tài mới có “đất” để tồn tại, phát triển và đương nhiên, khi trọng
tài phát triển thì cũng kéo theo sự phát triển, sự hoàn thiện của pháp luật về nó,
tức là pháp luật về trọng tài cũng vì thế mà được phát triển và được coi trọng
trong xã hội.
1.3.3 Thể chế chính trị
Thể chế chính trị của một quốc gia có ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động
trọng tài. Sự ảnh hưởng này được thực hiện thông qua đường lối chính trị của
đảng cầm quyền. Pháp luật là phương tiện chuyển hố đường lối chính trị của
đảng cầm quyền, ý chí của giai cấp thống trị vào cuộc sống. Với mỗi quốc gia có
thể chế chính trị khác nhau thì hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về trọng
tài cũng khác nhau nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Ví dụ hoạt
động trọng tài tại các nước xã hội chủ nghĩa trước đây như Liên Xô, Trung
Quốc, Việt Nam mang bản chất của một cơ quan tài phán của nhà nước. Hệ
thống trọng tài này được hình thành đều xuất phát từ mục đích bảo vệ vai trị chi
phối mạnh mẽ của nhà nước đối với mọi hoạt động của xã hội, trong đó có hoạt
22


động giải quyết tranh chấp. Hoạt động trọng tài tại các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển thường được tổ chức theo hướng đảm bảo tính hiệu quả tối đa
cho các doanh nghiệp, thành viên quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường và
xã hội tư bản.
1.3.4 Mức độ hoàn thiện của các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan
đến trọng tài.

Tính hiệu quả của pháp luật về trọng tài khơng chỉ được quyết định bởi
tính hồn thiện của nó mà cịn phụ thuộc rất nhiều vào thực trạng của cả hệ thống
pháp luật của một quốc gia, nhất là các lĩnh vực pháp luật cận kề với pháp luật
về trọng tài. Ví dụ, pháp luật về trọng tài sẽ khơng có mấy tác dụng trên thực tế
nếu pháp luật về thi hành án dân sự khơng được hồn thiện. Tại sao lại như vậy?
Bởi vì các quyết định của trọng tài trên thế giới, nhìn chung sau khi có hiệu lực
thì được cưỡng chế thi hành như một phán quyết của tòa án. Nếu pháp luật về thi
hành án dân sự khơng hồn thiện, cơ quan thi hành án không đủ mạnh về tổ chức
và quyền lực thì dù có được quy định trong pháp luật về trọng tài là có tính được
cưỡng chế thi hành đi chăng nữa thì các quyết định trọng tài cũng không thể
được thi hành một cách nghiêm túc. Rõ ràng là, chất lượng, hiệu quả của pháp
luật trọng tài phụ thuộc rất nhiều vào tính hồn thiện của các lĩnh vực pháp luật
khác.
1.3.5 Sự ảnh hƣởng của quá trình hội nhập quốc tế và khu vực
Nền kinh tế càng phát triển thì mức độ hội nhập và tính mở của nó càng
cao. Mở cửa và hội nhập kinh tế buộc các quốc gia phải có một sự tương đồng
đáng kể về pháp luật kinh tế trong đó pháp luật trọng tài cũng không phải là một
ngoại lệ. Những nội dung cơ bản của pháp luật trọng tài ngày càng được chuẩn
hoá và quốc tế hoá một cách cao độ và mức độ hồn thiện của nó phụ thuộc rất
nhiều vào mức độ quốc tế hoá, mức độ hội nhập của một quốc gia vào tiến trình
chung của thế giới. Điều đó giải thích tại sao khi Việt Nam chưa hội nhập (chưa

23


gia nhập ASEAN) thì chúng ta chỉ có một văn bản về trọng tài là Nghị định
116/CP năm 1994 với rất nhiều quy định không đúng với bản chất của trọng tài.
Điều đó cũng giải thích tại sao năm 2003, khi chúng ta ngày càng tham gia tích
cực vào quá trình hội nhập và chuẩn bị gia nhập WTO thì lại có Pháp lệnh Trọng
tài Thương mại với nhiều quy định và cơ chế tiên tiến, hiện đại như ở các nước

tư bản chủ nghĩa. Rõ ràng, hội nhập cũng là một yếu tố có vai trị rất lớn, quyết
định tính hồn thiện của pháp luật trọng tài của bất cứ quốc gia nào, trong đó có
Việt Nam.

24


×