Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

(Luận văn thạc sĩ) xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi theo quy định của bộ luật hình sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRỊNH THỊ HẠNH

XÓA ÁN TÍCH ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI
BỊ KẾT ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRỊNH THỊ HẠNH

XÓA ÁN TÍCH ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI
BỊ KẾT ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH LÊ VĂN CẢM

Hà Nội, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi được
GS.TSKH Lê Văn Cảm hướng dẫn thực hiện. Các kết quả nêu trong Luận văn
chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Đồng
thời tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung khoa học của luận văn này. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời
cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn. Tơi
xin trân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Trịnh Thị Hạnh

i


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... v
DANH MỤC CÁC BẢNG ....................................................................................... vi
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ..................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ..........................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn..............................................3
3.1. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................4
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu .......................................................................................4

4.2. Phạm vi nghiên cứu ..........................................................................................4
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................4
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn ......................................................5
7. Dự kiến kết quả .....................................................................................................5
Chƣơng 1.MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÓA ÁN TÍCH ĐỐI VỚI NGƢỜI
DƢỚI 18 TUỔI BỊ KẾT ÁN....................................................................................7
1.1. Khái niệm, nội hàm của án tích và xóa án tích..............................................7
1.1.1. Án tích ..............................................................................................................7
1.1.2. Xóa án tích.....................................................................................................15
1.2. Quan niệm về ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án và chính sách pháp luật hình
sự của nhà nƣớc ta đối với ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án....................................21
1.2.1. Quan niệm về ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án ...............................................21
1.2.2. Chính sách pháp luật của Nhà nƣớc ta đối với ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết
án ..............................................................................................................................28
ii


1.3. Khái niệm, điều kiện, thủ tục và ý nghĩa của xóa án tích đối với ngƣời
dƣới 18 tuổi bị kết án ..............................................................................................30
1.3.1. Khái niệm xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án ....................30
1.3.2. Điều kiện để ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án đƣợc xóa án tích ...................32
1.3.3. Thủ tục xóa án tích.......................................................................................33
1.3.4. Ý nghĩa của xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án .................35
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .......................................................................................38
Chƣơng 2. CÁC QUY PHẠM VỀ XĨA ÁN TÍCH ĐỐI VỚI ............................39
NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI BỊ KẾT ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM ...........................................................................................39
2.1. Khái quát lịch sử luật hình sự quy định về xóa án tích đối với ngƣời dƣới
18 tuổi bị kết án trƣớc pháp điển hóa lần thứ 3 (năm 2015) .............................39
2.1.1. Giai đoạn trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 ......................39

2.1.2. Giai đoạn thi hành Bộ luật hình sự năm 1985 .........................................41
2.1.3. Giai đoạn thi hành Bộ luật hình sự năm 1999 .........................................43
2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về xóa án tích đối với ngƣời dƣới
18 tuổi bị kết án .......................................................................................................46
2.2.1. Các trƣờng hợp đƣợc coi là không có án tích ...........................................46
2.2.2. Đƣơng nhiên đƣợc xóa án tích ...................................................................52
2.2.3. Xóa án tích trong trƣờng hợp đặc biệt .......................................................61
2.2.4. Cách tính thời hạn xóa án tích ...................................................................63
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .......................................................................................68
CHƢƠNG 3.THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ XĨA ÁN TÍCH....
ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI BỊ KẾT ÁN, NHỮNG VƢỚNG MẮC VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ............................................................................................69

3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi
bị kết án....................................................................................................................69
iii


3.1.1. Đánh giá khái qt về việc xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết
án ..............................................................................................................................69
3.1.2. Những vƣớng mắc trong quá trình áp dụng các quy định về xóa án tích
đối với ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án ......................................................................74

3.2. Những kiến nghị để đảm bảo thi hành, hoàn thiện quy định của pháp
luật liên quan đến xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi bị kết án ..............83
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .......................................................................................88
KẾT LUẬN ..............................................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................90

iv



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT

Cụm từ viết tắt

Cụ từ đầy đủ

1

BLHS:

Bộ luật hình sự

2

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

3

LLTP:

Lý lịch tư pháp

4


TAND:

Tịa án nhân dân

5

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

6

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

7

TTLT-BTP-TANDTC



Thơng tư liên tịch-Bộ tư
pháp-Tịa án nhân dân tối

VKSNDTC-BCA-BQP:

cao-Viện kiểm sát nhân
dân tối cao-Bộ cơng anBộ quốc phịng


v


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1. Bảng thống kê số vụ án, số bị cáo và số bị cáo tái phạm, tái phạm
nguy hiểm là ngƣời dƣới 18 tuổi đã bị xét xử trong giai đoạn 5 năm (từ năm
2014 đến năm 2018)................................................................................................70
Bảng 3.2. Bảng thống kê tổng số ngƣời ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án đƣợc Toà
án cấp giấy chứng nhận xố án tích và quyết định xóa án tích trong giai đoạn
4 năm (từ năm 2014 đến năm 2018) .....................................................................71

vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thanh thiếu niên là thế hệ tương lai của đất nước, là lớp người kế thừa sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc, có vai trị xung kích trong các cuộc cách mạng của
dân tộc ta. Mặc dù đã từng mắc sai lầm dẫn đến phải chịu trách nhiệm hình
sự về hành vi của mình, nhưng sau khi thi hành án xongcần cho họ cơ hội
làm lại cuộc đời, xóa đi cảm giác mặc cảm, bởi quá khứ tội lỗi của mình
và tránh sự kỳ thị của người khác, dễ dàng hòa nhập với cộng đồng. Việc xóa
án tích đối với người dưới 18 tuổicịn mang tính phịng ngừa tội phạm cao,
bởi lẽ xóa án tích đã góp phần động viên người bị kết án tích cực cải tạo, học
tập, lao động và ngăn ngừa họ phạm tội mới để nhanh chóng trở thành người
lương thiện, có ích cho xã hội.
Xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi là một phần trong chế định xóa án
tích được quy định trong Luật hình sự Việt Nam. Xóa án tích là một trong
những quy định ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người bị kết án, bởi

trong một số trường hợp nếu người phạm tội đã bị kết án, thuộc trường hợp
có án tích nhưng chưa được xóa là một trong những cơ sở để định tội, để xem
xét các trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm – là những tình tiết định
khung hình phạt trong một số tội phạm hoặc là tình tiết tăng nặng TNHS
được quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS). Do đó việc nghiên cứu các vấn
đề về xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi là rất cần thiết.
Qua 3 lần pháp điển hóa, BLHS 2015 trên cơ sở kế thừa và phát triển
BLHS 1985 và BLHS 1999 đã sửa đổi cơbản chế định xóa án tích cho người
bị kết án theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người bị kết án tái hòa nhập
cộng đồng, ổn định để làm ăn, sinh sống. Đồng thời BLHS 2015 cũng đã có
những sửa đổi, bổ sung quan trọng liên quan đến quy định về xoá án tích đối
với người dưới 18 tuổi. Hiện nay cũng chưa có nhiều văn bản quy phạm pháp
1


luật hướng dẫn cụ thể về vấn đề này, dẫn đến khó tránh khỏi trường hợp về
cùng nội dung mà có những nhận thức khác nhau. Do đó, nghiên cứu một
cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về xóa án tích đối với
người dưới 18 tuổi, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp để tiếp tục hoàn
thiện BLHS hiện hành và giải quyết những vướng mắc của thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự là việc rất cần thiết, khơng chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt
lý luận mà cịn có ý nghĩa cả về thực tiễn trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Vì tất cả những lý do đó, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài “Xóa án
tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án theo quy định của Bộ luật hình sự
năm 2015” để nghiên cứu thực hiện luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Về xóa án tích, đáng chú ý là một số cơng trình nghiên cứu sau:
Về giáo trình, sách chuyên ngành: “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật
hình sự (Phần chung)”, sách chuyên khảo sau đại học của tác giả Lê Cảm, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2005; “Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam” của Trường

Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2018; “Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự năm 2015 Phần thứ nhất – Những quy định chung” của tác giả Đinh Văn
Quế, Nxb Thông tin và truyền thông, 2017;“Từ điển Luật học năm 1999”, Nxb Từ
điển bách khoa, Hà Nội.
Về luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ gồm có: “Chế định xóa án tích theo luật
hình sự Việt Nam” của Nguyễn Quang Long, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật Đại
học quốc gia, 2013; “Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam” của Nguyễn Cao
Cương, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2015.
Tài liệu nghiên cứu là các bài viết đăng trên tạp chí: “Bất cập trong áp
dụng các quy định về xóa án tích và xác nhận trong lý lịch tư pháp”, Nguyễn
Văn Đồng, tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 5/2017; “Hồn thiện các quy
định về xóa án tích đối với người bị kết án trong Bộ luật hình sự năm 2015”,
2


Phan Thị Phương Hiền, tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1/2017; “Hồn
thiện các quy định về xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi bị kết án trong
Bộ luật hình sự năm 2015”, Phan Thị Phương Hiền, đăng trên tạp chí Dân
chủ và pháp luật…
Tuy nhiên đối với đối tượng đặc biệt là người dưới 18 tuổi thì đây có thể
nói là cơng trình nghiên cứu đầu tiên có sự đầu tư đi sâu vào từng quy định
của pháp luật để đánh giá, phân tích, chỉ ra những vướng mắc và kiến nghị
hoàn thiện các quy định về xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi bị kết án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận
những nội dung cơ bản của chế định xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi
theo quy định của BLHS 2015, nghiên cứu thực tiễn áp dụng để xác định một
số bất cập, qua đó đề ra những giải pháp hoàn thiện quy định về vấn đề này
trong thời gian tới góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh và phòng chống tội

phạm ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Các nội dung nghiên cứu đảm bảo theo sát các mục tiêu đã đề ra bao gồm:
1) Nêu khái niệm và đặc điểm cơ bản về án tích, xóa án tích chung và đối
với người dưới 18 tuổi bị kết án riêng;
2) Nêu các quy phạm của pháp luật hình sự Việt Nam về xóa án tích đối
với người dưới 18 tuổi bị kết án, chỉ ra những điểm tương đồng hoặc được
sửa đổi, bổ sung để lý giải, phân tích các quy định của BLHS hiện hành về
vấn đề đang nghiên cứu.
3) Phân tích, đánh giá những vấn đề vướng mắc của quy định về xóa án
tích đối với người dưới 18 tuổi, đề xuất những kiến nghị để hoàn thiện hơn
nữa quy định của pháp luật.
3


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật
về xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi theo quy định của luật hình sự Việt
Nam, cụ thể là về: khái niệm xóa án tích, các trường hợp đương nhiên được
xóa án tích, các trường hợp được coi là khơng có án tích, thủ tục xóa án
tích…đối với chủ thể đặc biệt là người dưới 18 tuổi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi nghiên cứu, mặc dù chế định xóa án tích đối với người dưới
18 tuổi được quy định tại một điều luật riêng nhưng việc tìm hiểu các quy
định về xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi bị kết án phải đặt trong mối
quan hệ với các quy định xóa án tích khác của Phần thứ nhất BLHS 2015.
Ngồi đối tượng nghiên cứu ở trên, luận văn còn đề cập đến một số quy phạm
của luật tố tụng hình sự, luật thi hành án hình sự nhằm giải quyết nhiệm vụ và
đối tượng nghiên cứu. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định

về xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi dựa trên số liệu thống kê của cả
nước trong phạm vi 3 năm gần đây; trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp để
hoàn thiện pháp luật và khắc phục những bất cập trong quá trình áp dụng
pháp luật. Luận văn nghiên cứu về chế định xóa án tích đối với đối tượng cụ
thể là người dưới 18 tuổi, số lượng vụ án có án tích tại các địa bàn cụ thể là
khơng nhiều. Do đó, luận văn sẽ nghiên cứu những vấn đề thực tiễn thi hành
quy định này dựa trên số liệu của cả nước để có cái nhìn tổng quan nhất về
vấn đề cần nghiên cứu.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của Luận văn được thực hiện trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận
văn sử dụng linh hoạt các phương pháp nghiên cứu cụ thể, tổng hợp, phân
4


tích, so sánh, thống kê, logic, kết hợp với các phương pháp khác như tổng kết
thực tiễn, chuyên gia, điều tra xã hội học.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Xóa án tích được đề cập lần đầu tiên và chính thức trong BLHS 1985 và
dần được hồn thiện ở BLHS 1999 và hiện tại là BLHS 2015. Hiện nay có
một số tác giả đã và đang nghiên cứu về chế định xóa án tích theo quy định
của Luật hình sự Việt Nam, nhưng đều chỉ là nghiên cứu chung và chưa có
cơng trình, tác phẩm nào đi sâu vào nghiên cứu chi tiết các quy định về xóa
án tích đối với chủ thể đặc biệt là người dưới 18 tuổi. Đây là cơng trình đầu
tiên ở cấp độ luận văn thạc sỹ nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về vấn
đề xóa án tích đối với đối tượng đặc biệt là người dưới 18 tuổi. Những kết
quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng sau:
Về mặt lý luận: Luận văn là chương trình nghiên cứu đề cập riêng đến
những quy định của pháp luật hiện hành về xóa án tích đối với người dưới 18
tuổi với những đóng góp về mặt khoa học đã nêu trên.

Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn nội dung
cơ bản của việc áp dụng các quy định của pháp luật về xóa án tích đối với
người dưới 18 tuổi, có ý nghĩa to lớn đối người bị kết án, góp phần nâng cao
hiệu quả đấu tranh và phịng ngừa tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
Ngồi ra, luận văn cịn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
việc nghiên cứu, học tập tại cơ sở nghiên cứu và đào tạo chuyên ngành luật ở
nước ta.
7. Dự kiến kết quả
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về án tích và xóa án tích đối với người
dưới 18 tuổi bị kết án
5


Chƣơng 2: Các quy phạm về xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi bị kết
án theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về xóa án tích đối
với người dưới 18 tuổi bị kết án, những vướng mắc và một số kiến nghị

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XĨA ÁN TÍCH
ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI BỊ KẾT ÁN

1.1. Khái niệm, nội hàm của án tích và xóa án tích
1.1.1. Án tích
Năm 1985, BLHS đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở của nền kinh tế

bao cấp và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. BLHS năm 1985 với ý
nghĩa là nguồn duy nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt. Vấn đề xóa
án tích cũng chính thức được quy định trong văn bản pháp lý này, với tên gọi
“xóa án”, “can án”, bản chất tương tự như vấn đề án tích, xóa án tích mà luận
văn đang nghiên cứu. Tiếp theo đó ở các lần pháp điển hóa sau (BLHS năm
1999, BLHS năm 2015), xóa án tích cũng được kế thừa và có nhiều sự thay
đổi. Để hiểu về xóa án tích, trước tiên phải nghiên cứu từ khái niệm, đặc
điểm của chế định án tích. Tuy nhiên chưa có một văn bản pháp lý nào quy
định cụ thể về án tích. Do đó, khái niệm án tích và nội hàm của nó chưa được
hiểu một cách thống nhất.
Theo từ điển luật học, án tích là “đặc điểm xấu (hậu quả) về nhân thân
của người đã bị kết án và áp dụng hình phạt được ghi và lưu lại trong lí lịch
tư pháp trong thời gian luật định” [38, tr.14]. Khi người phạm tội bị kết án
về tội danh nào đó trong BLHS và bị Tịa án áp dụng hình phạt, sau khi người
đó chấp hành xong hình phạt thì có thể được xóa án tích nếu đủ các điều kiện
mà BLHS quy định. Trước khi được xóa án tích mà người bị kết án phạm tội
mới có thể bị xác định là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam và trên thế giới hiện nay có một số
bài viết có đề cập về vấn đề này như sau:
 PGS.TS Phạm Hồng Hải, “Án tích là hậu quả pháp lý của bản án kết
7


tội mà Tòa án tuyên đối với người phạm tội” [15, tr.276]. Quan điểm này đã
chỉ ra được án tích là hậu quả pháp lý bất lợi chỉ áp dụng cho người phạm tội
thông qua bản án kết tội của Tịa án. Điểm bất lợi đó thể hiện ở chỗ nó sẽ
được coi là một điều kiện để đánh giá mức độ về tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội, đó là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Quan
điểm này còn nhiều chỗ chưa phù hợp là trong thực tế không phải mỗi bản án
kết tội của Tịa án đều làm phát sinh án tích, ví dụ như trường hợp người bị

kết án là người từ đủ 18 tuổi trở lên bị kết án do lỗi vơ ý về tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng; người được miễn hình phạt; người bị
kết án là người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội
phạm rất nghiêm trọng do vô ý; người bị áp dụng biện pháp tư pháp...khơng
làm phát sinh án tích.
 TS. Nguyễn Thị Lan lại cho rằng: “Án tích là một dấu ấn, cho thấy
người có án tích đã từng bị kết án vì đã phạm tội” [20, tr.12-13]. Quan điểm
này đã chỉ ra được rằng chỉ có những người phạm tội mà đã bị Tịa án kết án,
thì mới có án tích. Tuy nhiên, quan điểm này cũng có những điểm chưa thật
sự hợp lý. Đó là việc dùng thuật ngữ "dấu ấn" để chỉ hậu quả pháp lý của
người bị kết án phải gánh chịu là chưa phù hợp, thiếu chuẩn xác, nó chưa
đánh giá đúng bản chất pháp lý của án tích cũng như tính nghiêm khắc của
hình phạt. Và mặt khác, cũng giống như quan điểm của PGS.TS Phạm Hồng
Hải thì dùng thuật ngữ “người bị kết án” làm căn cứ là khơng chính xác, vì có
nhiều trường hợp bị kết án nhưng khơng bị áp dụng hình phạt thì cũng khơng
bị coi là có án tích.
 TS. Nguyễn Tuyết Mai coi án tích là một trong những hậu quả pháp lý
của việc bị kết án, gắn với người bị kết án [10, tr. 367]. Quan điểm này có
nhiều nét tương đồng với quan điểm nêu trên, chưa phản ánh đúng bản chất
8


của án tích. Cần được hiểu án tích là hậu quả pháp lý phát sinh đối với người
bị kết án, nhưng người đó phải chịu hình phạt, khi chấp hành xong hình phạt
đó và có đủ các điều kiện thì được xóa án tích.
Khi nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS năm 1985,
thông qua các tài liệu như Bản kết luận điều tra; Bản cáo trạng và Bản án của
Toà án, nhận thấy các văn bản này thường sử dụng cụm từ “tiền án” thay cho
cách hiểu đó là bản án kết tội trước đó chưa được xố án (án tích), việc sử

dụng cụm từ “tiền án” thay cho việc xác định người đó chưa được xóa án tích
như vậy chưa phản ánh đúng bản chất pháp lý của án tích trong pháp luật
hình sự.
 GS.TSKH Lê Cảm: Án tích là hậu quả pháp lý của việc người bị kết án
bị áp dụng hình phạt theo bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án và
là giai đoạn cuối cùng của việc thực hiện TNHS, được thể hiện trong việc
người bị kết án mặc dù đã chấp hành xong bản án (bao gồm hình phạt chính,
hình phạt bổ sung và các quyết định khác của Toà án) nhưng vẫn chưa hết án
[4,tr. 829].
 NCS. Nguyễn Quang Long cho rằng: Án tích là tình trạng pháp lý cụ thể
của người bị kết án với loại hình phạt tương ứng, kèm theo một số hậu quả bất
lợi cho người đó trong một thời hạn nhất định, bắt đầu từ khi bản án kết tội có
hiệu lực pháp luật cho đến khi hết án tích hoặc xóa án tích [19, tr.35].
 ThS. Nguyễn Cao Cường có quan điểm: Án tích là sự kiện pháp lý
hình sự phát sinh khi người phạm tội bị kết án, phải chịu hình phạt theo quyết
định của bản án đã có hiệu lực pháp luật, người bị kết án đó phải gánh chịu
án tích trong khoảng thời gian nhất định kể từ khi bản án có hiệu lực pháp
luật khi án tích đóđược xố bỏ theo quy định của pháp luật [6, tr.15].
Về cơ bản, ba quan điểm của GS.TSKH Lê Văn Cảm, NCS. Nguyễn
Quang Long và ThS. Nguyễn Cao Cường đều phản ánh đầy đủ bản chất của
án tích.
9


Trong khoa học luật hình sự Liên Xơ cũ và Liên Bang Nga cũng có một
số quan điểm về án tích như sau:
 Theo quy định của BLHS Liên Bang Nga 1986: Người bị kết án về
một tội phạm bị coi là người có án kể từ ngày bản án kết tội có hiệu lực
pháp luật cho đến khi được xóa án. Theo quy định của Bộ luật này, án tích
được tính trong trường hợp tái phạm và khi quyết định hình phạt (Điều 87

BLHS Liên bang Nga năm 1996).
 GS.TSKH luật Tkatrevxki Iu.M: “Án tích là hậu quả pháp lý của
chủthể xuất hiện do sự kiện người này bị kết án một hình phạt nào đó về tội
phạm đã thực hiện và kèm theo các hậu quả pháp lý nhất định đối với chính
bản thân người này” [Trích theo 4, tr.827].
 GS.TSKH luật Rarơg A.L cho rằng án tích là tình trạng pháp lý đặc
biệt của người bị kết án một hình phạt đối với tội đã phạm và tình trạng này
được bắt đầu từ khi bản án kết tội của Tịa án có hiệu lực pháp luật và tiếp
diễn cho đến thời điểm hết hoặc xóa án tích [Trích theo 4, tr.826].
Như vậy, chỉ riêng khái niệm án tích, trong giới nghiên cứu khoa học luật
nói chung đã tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau. Trên cơ sở nghiên cứu,
tiếp thu các quan điểm nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa khoa học về án tích
như sau: Án tích là hậu quả pháp lý bất lợi và là đặc điểm xấu về nhân thân
của người phạm tội bị kết án và áp dụng hình phạt theo bản án kết tội có hiệu
lực pháp luật của Tịa án, buộc người bị kết án đó phảigánh chịu án tích
trong khoảng thời gian nhất định kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho
đến khi hậu quả pháp lý đó được xóa bỏ theo quy định của pháp luật hình sự.
Qua khái niệm trên có thể thấy nội hàm của án tích thể hiện như sau:
Thứ nhất, án tích là hậu quả pháp lý bất lợi của người bị kết án. Hậu quả
pháp lý được hiểu là kết cục tất yếu sẽ dẫn đến mà cá nhân, tổ chức phải gánh
chịu trong trường hợp vi phạm pháp luật. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị
10


Tòa án xét xử, bị kết tội và áp dụng hình phạt thì mặc dù chấp hành xong
hình phạt nhưng người bị kết án vẫn phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi, đó là
án tích và bị lưu lại trong lý lịch tư pháp. Người có án tích sẽ bị hạn chế về
quyền lợi so với những người không có án tích.
Lý luận và thực tiễn cho thấy khơng phải tất cả người phạm tội nào đã bị
kết án đều phải chịu án tích. Theo quy định của BLHS 1985 và BLHS 1999

thì chỉ người nào bị kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật và phải chịu
hình phạt thì mới phát sinh án tích. Như vậy trường hợp người bị kết án
nhưng được miễn hình phạt, bị áp dụng các biện pháp tư pháp như:giáodục
tại trường giáo dưỡng theo quy định tại Điều 96 BLHS, biện pháp bắt buộc
chữa bệnh theo quy định tại Điều 49 BLHS...thì sẽ khơng làm phát sinh sự
kiện pháp lý về án tích. Có thể thấy chế định này cũng là đặc trưng cơ bản
đánh giá mức độ nghiêm khắc của hình phạt so với các biện pháp tư pháp khác.
Theo quy định của Điều 69 BLHS 2015 thì người bị kết án do lỗi vơ ý về
tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng hoặc được miễn hình phạt thì người bị
kết ánđược coi là khơng có án tích, tức là khơng phát sinh sự kiện pháp lý về
án tích.
Trong vấn đề trách nhiệm pháp lý, điểm khác biệt giữa việc bị áp dụng
chế tài hình sự và các chế tài khác ở chỗ: Nếu như ở các vi phạm pháp luật
khác thì người vi phạm sau khi chấp hành xong các chế tài xử lý thì mọi trách
nhiệm chấm dứt, còn đối với người vi phạm mà bị áp dụng chế tài hình sự thì
sau khi chấp hành xong hình phạt trách nhiệm pháp lý của họ vẫn chưa chấm
dứt; đó là họ vẫn bị coi là có án tích trong một khoảng thời gian nhất định.
Điều này sẽ mang lại cho người bị kết án rất nhiều bất lợi. Đây chính là đặc
điểm nỗi bật nhất để đánh giá mức độ nghiêm khắc nhất của hình phạt so với
các biện pháp tư pháp khác. Vậy sự bất lợi của án tích được thể hiện ở các
phương diện sau:
- Việc người phạm tội cịn mang án tích sẽ phải chịu hậu quả pháp lý
11


hình sự nghiêm khắc hơn, án tích là căn cứ để xác định hành vi của người đó
có cấu thành tội phạm hay không hoặc là điều kiện, căn cứ để xác định là tái
phạm, tái phạm nguy hiểm. Nói cách khác án tích sẽ là điều kiện, cơ sở để
định tội danh hoặc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay là tình tiết
định khung hình phạt cho hành vi của người phạm tội khi còn mang án tích.

Người đang trong thời gian mang án tích (chưa được xóa án tích) nếu phạm
tội mới do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vơ
ý thì sẽ xác định là tái phạm (khoản 1 Điều 53 BLHS) hoặc thuộc hai trường
hợp sau thì được xác định là tái phạm nguy hiểm (khoản 2 Điều 53): Trường
hợp người bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố
ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; trường hợp đã tái
phạm và chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý. Dấu hiệu tái phạm,
tái phạm nguy hiểm là một trong những căn cứ để xác định các tình tiết định
khung hình phạt hoặc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của hành vi
phạm tội mới.
Ví dụ: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác(Điều 134) quy định: “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11%
nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:…n)Tái phạm nguy hiểm”; theo
quy định này, người nào cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ thương tổn cơ thể dưới 11% nhưng thuộc trường hợp tái phạm nguy
hiểm thì sẽ đủ yếu tố cấu thành tội này và bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Ví dụ khác như: Tội trộm cắp tài sản (Điều 173) quy định: “Người nào
trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
12


50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến 03 năm hoặc phạt
tù từ 06 tháng đến 03 năm:…b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các
tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật
này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm”; như đã phân tích ở trên, người

phạm tội cịn mang án tích là điều kiện, cơ sở để định tội danh, cơ sở thể cấu
thành tội được quy định trong BLHS.
- Người mang án tích, trong LLTP cũng như các giấy tờ chứng thực về
nhân thân của người phạm tội sẽ bị xác nhận là “tiền án”. Đồng thời người đó
sẽ bị hạn chế một số quyền, ví dụ như không được nhận con nuôi trong trường
hợp “chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông
bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có cơng ni dưỡng mình; dụ dỗ, ép
buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua
bán, đánh cháo, chiếm đoạt trẻ em” sẽ không được nhận con nuôi”…(Điều
14 Luật nuôi con ni năm 2010).
Việc ghi có tiền án hay khơng có tiền án trong việc giải quyết các vấn đề
về xã hội như: Đăng ký kinh doanh, đi lao động hay học tập ở nước ngồi...
có ý nghĩa rất lớn đối với cá nhân người đó. Quy định liên quan đến án tích
nhằm mục đíchtạo điều kiện cho người đó tự hoàn lương và thấy được giá trị
của việc chấp hành nghiêm chỉnh những điều kiện để được xóa án tích, để
được coi là người lương thiện.
Thứ hai, án tích là đặc điểm xấu về nhân thân của người bị kết án. Ngồi
những hậu quả pháp lý bất lợi, án tích còn để lại dấu vết xấu về nhân thân cho
người bị kết án khi chưa được xóa án tích. Một sự bất lợi rất lớn cho họ trong
nhiều hoạt động của đời sống xã hội cũng như khi có hành vi vi phạm pháp
luật hoặc hành vi phạm tội mới. Qua nhân thân người phạm tội phần nào
13


đánh giáđược khả năng giáo dục, cải tạo của người phạm tội cũng như tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để có hình phạt xử lý phù hợp.
Cùng một hành vi nhưng ở người này là biểu hiện ngẫu nhiên đột xuất nhưng
ở người khác là hành vi có tính tốn, có ý thức sâu sắc biểu hiện bản chất của
người phạm tội. Hành vi và con người ln có quan hệ với nhau cho nên tính

chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng phụ thuộc vào tính chất
của con người. Người mang án tích, trong LLTPcũng như các giấy tờ chứng
thực về nhân thân sẽ bị ghi “có tiền án”, đồng thời cũng chỉ rõ tội phạm cũng
như hình phạt mà họ phải gánh chịu. Khi đó, án tích như một “vết nhơ” trong
lý lịch của người phạm tội, dẫn tới sự kỳ thị, những cái nhìn thiếu thiện cảm
của xã hội. Điều này sẽ gây ra khơng ít khó khăn trong quá trình sinh hoạt,
tham gia các hoạt động xã hội, làm cản trở con đường hoàn lương của người
bị kết án.
Ngoài việc ảnh hướng đến nhân thân của người bị kết án, trong một số
trường hợp, án tích cịn hạn chế quyền của một số người liên quan đến người
bị kết án như cha, mẹ đẻ, con đẻ… Tại điểm a khoản 1 Mục II của Thông tư
số 53/2012/TT-BCA ngày 15/8/2012 của Bộ Cơng an quy định tiêu chuẩn
chính trị của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân như sau: “là cơng dân nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có địa chỉ thường trú trên lãnh thổ Việt
Nam, có lý lịch bản thân và gia đình rõ ràng, nghiêm chỉnh chấp hành đường
lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam, pháp luật nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam; là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam hoặc Đoàn
viên Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh”. Như vậy, theo quy định này
thì những người muốn dự tuyển vào ngành Công an nhân dân thì bản thân và
gia đình phải tuyệt đối chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, phải chưa từng có tiền án. Nếu như người muốn dự tuyển
vào ngành cơng an nhân dân mà có người thân đã từng có án tích, kể cả
14


trường hợp đã được xóa án tích thì vẫn khơng được xét tuyển, sơ tuyển vào
lực lượng Công an nhân dân.
Ví dụ: Trường hợp của em Trương Hương Ly (Nghệ An) trong kỳ thi
tuyển sinh cao đẳng, đại học năm 2017 em đạt số điểm là 26,5 số điểm cao
nhất của khối D nhưng em vẫn không được xét tuyển vào trường Cơng an

nhân dân. Vì lý do, ngày 12/7/2010 mẹ đẻ của em bị Tòa án nhân dân thành
phố Vinh, tỉnh Nghệ An tuyên phạt 30 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo
thời gian thử thách là 05 năm. Đến năm 2017 thì mẹ của em đã được xóa án
tích, tuy vậy em vẫn khơng được xét tuyển vào trường Công an nhân dân.
Như vậy, mặc dù BLHS quy định án tích chỉ áp dụng đối với người bị kết
án và bị áp dụng hình phạt và nó cũng chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian
nhất định do pháp luật quy định. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp dù đã
được xóa án tích nhưng người bị kết án và cả người thân của họ bị ảnh hưởng
rất nhiều.
Thứ ba, người bị kết án phải chịu những hậu quả do án tích mang lại
trong khoảng thời gian nhất định.Theo quy định của pháp luật hình sự hiện
nay, tùy theo hình phạt Tịa án áp dụng đối với người bị kết án mà có các
hình thức xóa án tích, mỗi trường hợp đó lại có thời hạn và điều kiện xóa án
tích khác nhau. Thời hạn đó bắt đầu từ khi bản án kết tội của Tịa án có hiệu
lực pháp luật đến khi được xóa bỏ theo quy định của pháp luật. Hết thời hạn
theo quy định của pháp luật trong trường hợp đương nhiên xóa án; hoặc đến
khi Tịa án quyết định xóa án tích trong trường hợp xóa án tích theo quyết
định của Tịa án.
1.1.2. Xóa án tích
Án tích để lại bất lợi cả về mặt pháp lý và nhân thân người bị kết án,
ngược lại, xóa án tích giúp loại bỏ những bất lợi đó. Xóa án tích là một chế
định quan trọng, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với sự nỗ lực
15


cải tạo của người bị kết án, nhằm xóa bỏ đi quá khứ đã từng phạm tội, xóa bỏ
những định kiến của xã hội đối với người phạm tội, giúp họ tái hịa nhập cộng
đồng, trở thành người có ích cho xã hội. Với những ý nghĩa quan trọng như vậy
thì việc nghiên cứu cụ thể, có hệ thống về xóa án tích là cần thiết, có ý nghĩa
khơng chỉ mang tính lý luận mà cịn mang tính thực tiễn sâu sắc.

Cũng như án tích, mặc dù xóa án tích đã được ghi nhận trong pháp luật
hình sự từ lần pháp điển hóa đầu tiên, đó là BLHS năm 1985, nhưng khái
niệm xóa án tích vẫn chưa được pháp điển hóa thành một điều khoản riêng
biệt trong BLHS. Khái niệm xóa án tích mới chỉ được đề cập tới trong khoa
học LHS nước ta với nhiều quan điểm khác nhau:
 Theo TS. ng Chu Lưu thì: “Xóa án tích là sự thừa nhận về mặt
pháp lý người bị kết án khơng cịn mang án tích và vì vậy, khơng cịn chịu
hậu quả bất lợi nào do việc kết án mang lại” [21, tr.222]. Quan điểm này đã
chỉ ra được bản chất quan trọng của xóa án tích, đó là sự “thừa nhận về mặt
pháp lý” khơng cịn mang án tích, sẽ được coi như chưa từng phạm tội, không
bị xem là một tình tiết để đánh giá tái phạm hay tái phạm nguy hiểm. Tuy
nhiên, nếu nói sau khi được xóa án tích thì người bị kết án khơng cịn phải
gánh chịu hậu quả bất lợi nào là chưa chính xác. Vì trên thực tế về mặt xã hội
cịn nhiều hạn chế, tư tưởng của người dân về việc nhìn nhận một người từng
đã bị kết án vẫn còn tồn tại. Việc tiếp xúc hoặc các mối quan hệ với người
từng bị kết án vẫn có sự đề phịng, dè dặt. Nên vấn đề tái hòa nhập xã hội của
người đó gặp rất nhiều khó khăn chứ khơng phải dễ dàng. Mặt khác, mặc dù
đã được xóa án tích nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn xác định họ là
người có nhân thân xấu, gây bất lợi cho họ nếu có hành vi vi phạm pháp luật.
 Theo ThS. Đinh Văn Quế thì: “Xố án tích là xố bỏ bản án hình sự
đối với một người đã bị Tồ án kết án, người được xố án tích coi như chưa
bị kết án và được cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cấp giấy
16


chứng nhận, nếu họ phạm tội mới thì khơng bị tính là tái phạm hoặc tái phạm
nguy hiểm” [11, tr.361]. Quan điểm này cho thấy ý nghĩa nhân đạo của chế
định xóa án tích đối với người phạm tội, người được xố án tích được coi như
chưa từng bị kết án. Tuy nhiên nếu hiểu như vậy, tức là coi xóa án tích chính
là xóa bỏ bản án hình sự và đánh đồng thuộc tính của “án tích” với thuộc tính

của “bản án hình sự”. Trong khi đó như phân tích ở trên, bản chất của án tích
chính là sự kiện pháp lý hình sự mang tính bất lợi đối với người bị kết án
bằng bản án có hiệu lực pháp luật và phải chịu hình phạt. Do đó xóa án tích
khơng thể là xóa bỏ bản án hình sự được.
 GS.TSKH Lê Cảm cho rằng: Xóa án tích là việc chấm dứt TNHS của
người bị kết án do người đó được xóa án tích theo các quy định của pháp luật
hình sự trên cơ sở có sự xem xét và có quyết định riêng của Tịa án cơng nhận
là chưa bị kết án [4, tr.829-830]. Theo quy định của BLHS 1999, người được
xố án tích trong các trường hợp (đương nhiên xóa án tích, xóa án tích theo
quyết định của Tịa án) đều phải được Tồ án cấp giấy chứng nhận. Tuy
nhiên, khoản 4 Điều 70 BLHS2015 quy định về đương nhiên xóa án tích, Tịa
án khơng cấp giấy chứng nhận mà: “Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư
pháp có trách nhiệm cập nhật thơng tin về tình hình án tích của người bị kết
án và khi có u cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận khơng có án tích,
nếu có đủ điều kiện quy định…”. Do đó việc người bị kết án được xóa án tích
theo các quy định của pháp luật hình sự khơng cần có quyết định riêng của
Tịa án công nhận là chưa bị kết án mà cơ quản quản lý cơ sở dữ liệu LLTP
cập nhật thông tin về tình hình án tích của người đó.
 PGS.TS Nguyễn Tuyết Mai: “Xóa án tích là xóa bỏ việc mang án tích,
là sự cơng nhận coi như chưa bị kết án đối với người trước đó đã bị Tịa án
xét xử, kết tội” [10, tr.367]. PGS.TS. Nguyễn Tuyết Mai đã đưa ra định nghĩa
xóa án tích xuất phát từ khái niệm án tích, quan điểm này phần nào phản ánh
17


×