Tải bản đầy đủ (.pdf) (283 trang)

(Luận văn thạc sĩ) văn hóa dân gian làng cảnh dương luận văn ths khu vực học 60 31 60002

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.85 MB, 283 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN

NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG

KHẢO SÁT ĐỊA DANH
ĐƯỜNG PHỐ Ở HÀ NỘI
Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 60 31 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ VIỆT THANH

HÀ NỘI - 2009


Mục lục
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu và chữ cái viết tắt
Danh mục các hình vẽ và bảng biểu
Phần mở đầu ................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................1
2. Đối tượng nghiên cứu................................................................................2
3. Mục đích, ý nghĩa của đề tài .....................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................3
5. Tư liệu nghiên cứu ....................................................................................4


6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài .....................................6
7. Bố cục của đề tài .......................................................................................6
Chương 1. Lý thuyết về địa danh và vấn đề nghiên cứu địa danh ở
Hà Nội ...........................................................................................................7
1.1. Một số vấn đề lý thuyết về nghiên cứu địa danh ...................................7
1.1.1. Cơ sở lý luận và lược sử nghiên cứu địa danh ....................................7
1.1.2. Vấn đề địa danh đường phố trong nghiên cứu địa danh ...................10
1.1.3. Nghiên cứu địa danh bằng khoa học liên ngành, khu vực học, dưới
góc độ ngơn ngữ - văn hóa ..........................................................................14
1.2. Vấn đề nghiên cứu địa danh đường phố ở Hà Nội ..............................16
1.2.1. Lược sử nghiên cứu địa danh và địa danh đường phố ở Hà Nội ......16
1.2.2. Vấn đề lựa chọn địa danh đường phố ở Hà Nội để nghiên cứu ........18
Tiểu kết chương 1........................................................................................19


Chương 2: Phương thức và cấu tạo địa danh đường phố Hà Nội
đương đại ...................................................................................................21
2.1. Một số nét khái quát về khơng gian văn hóa Thăng Long – Hà Nội ...21
2.1.1 Đặc trưng về địa lý, địa hình ..............................................................22
2.1.2. Vài nét về lịch sử và sự thay đổi địa giới hành chính .......................23
2.1.3. Đặc trưng về dân cư, tộc người .........................................................26
2.1.4. Đặc trưng về phương ngữ .................................................................29
2.1.5. Đặc trưng về văn hóa ........................................................................31
2.2. Phương thức định danh địa danh đường phố ở Hà Nội .......................33
2.2.1. Phương thức tự tạo ............................................................................36
2.2.1.1. Địa danh đường phố gắn với hoạt động sản xuất và kinh doanh
truyền thống.................................................................................................36
2.2.1.2. Địa danh đường phố gắn với đặc điểm thiên nhiên, lịch sử và
đời sống con người trên tuyến đường phố đó .............................................37
2.2.1.3. Sử dụng các yếu tố có sẵn ở các địa danh khác để ghép lại ..........37

2.2.2. Phương thức chuyển hóa ...................................................................38
2.2.2.1. Chuyển hóa từ địa danh chỉ đối tượng tự nhiên .............................39
2.2.2.2. Chuyển hóa từ địa danh cơng trình xây dựng ................................40
2.2.2.3. Chuyển hóa từ địa danh chỉ đơn vị hành chính và cư trú ..............41
2.2.3. Phương thức vay mượn .....................................................................42
2.2.3.1. Mượn nhân danh ............................................................................42
2.2.3.2. Mượn địa danh lịch sử ...................................................................43
2.2.3.3. Mượn hiệu danh .............................................................................43
2.3. Cấu tạo địa danh đường phố ở Hà Nội.................................................45
2.3.1. Vấn đề thành tố chung trong tên riêng ..............................................48
2.3.1.1. Chuyển hóa hồn tồn ....................................................................48
2.3.1.2. Chuyển hóa bộ phận .......................................................................49


2.3.2. Vấn đề cấu tạo thành tố B .................................................................51
2.3.2.1. Địa danh có cấu tạo đơn .................................................................51
2.3.2.2. Địa danh có cấu tạo phức ...............................................................52
2.3.2.3. Vấn đề nguồn gốc một số hiện tượng Hán Việt hóa các địa danh
Nơm cổ đơn tiết ...........................................................................................56
Tiểu kết chương 2........................................................................................58
Chương 3. Nguồn gốc và quá trình biến đổi địa danh đường phố
ở Hà Nội......................................................................................................60
3.1. Nguồn gốc ra đời địa danh đường phố .................................................60
3.1.1. Nguồn gốc ra đời thuật ngữ “phố” (thành tố A) ..............................60
3.1.2. Sự ra đời địa danh đường phố (thành tố B).......................................63
3.2. Quá trình biến đổi địa danh đường phố ...............................................65
3.2.1. Từ khi hình thành đến trước khi thực dân Pháp xâm lược ...............65
3.2.2. Từ Pháp thuộc đến trước 1945 ..........................................................70
3.2.3. Từ cách mạng tháng Tám 1945 đến trước tạm chiếm ......................74
3.2.4. Từ 1946 – 1954 .................................................................................75

3.2.5. Từ 1954 đến nay ................................................................................76
3.3. Nguyên nhân biến đổi, mất đi của địa danh đường phố ......................76
3.3.1. Nguyên nhân chính trị, lịch sử, địa giới hành chính .........................77
3.3.2. Nguyên nhân Hán Việt hóa ...............................................................78
3.3.3. Nguyên nhân kỵ húy .........................................................................78
3.3.4. Nguyên nhân hiện thực .....................................................................79
3.3.5. Nguyên nhân in ấn ............................................................................80
3.4. Vấn đề biến đổi địa danh đường phố ở Hà Nội dưới góc độ khơng gian
và thời gian .................................................................................................80
3.4.1. Biến đổi địa danh dưới góc độ thời gian ...........................................80
3.4.2. Biến đổi địa danh dưới góc độ khơng gian .......................................81


3.4.3. Biến đổi địa danh dưới góc độ ngơn ngữ ..........................................85
Tiểu kết ........................................................................................................86
Chương 4. Một số đặc trưng văn hóa của địa danh đường phố ở
Hà Nội .........................................................................................................87
4.1. Một số vấn đề về ngơn ngữ và văn hóa liên quan đến địa danh ..........87
4.2. Đặc điểm ý nghĩa của địa danh ............................................................90
4.2.1. Nhóm địa danh mơ tả ........................................................................94
4.2.1.1. Nhóm địa danh phản ánh hình dáng của đối tượng .......................94
4.2.1.2. Nhóm địa danh phản ánh kích thước .............................................94
4.2.1.3. Nhóm địa danh phản ánh màu sắc .................................................94
4.2.1.4 Nhóm địa danh phản ánh tính chất..................................................94
4.2.2. Nhóm địa danh đăng ký ....................................................................94
4.2.2.1. Tiểu nhóm phản ánh động, thực vật ...............................................94
4.2.2.2. Tiểu nhóm phản ánh phương hướng, vị trí ....................................95
4.2.2.3. Tiểu nhóm phản ánh nghề nghiệp truyền thống.............................96
4.2.2.4. Tiểu nhóm phản ánh những biến cố trong đời sống của
đối tượng .....................................................................................................96

4.2.2.5. Tiểu nhóm phản ánh các địa danh tự nhiên, cơng trình xây dựng,
văn hố, tín ngưỡng trên chính đối tượng ...................................................97
4.2.2.6. Tiểu nhóm phản ánh dấu ấn tơn giáo và văn hố dân gian ..........100
4.2.3. Nhóm địa danh ước vọng ................................................................101
4.2.3.1. Tiểu nhóm phản ánh nguyện vọng của con người .......................101
4.2.3.2. Tiểu nhóm phản ánh tình cảm với danh nhân dân tộc .................103
4.2.3.3. Tiểu nhóm phản ánh tình cảm, tình u với q hương,
đất nước .....................................................................................................105
4.3. Góp phần hình dung diện mạo khơng gian văn hóa Thăng Long –
Hà Nội qua địa danh đường phố ...............................................................106


4.3.1. Diện mạo địa lý, địa hình, lịch sử ...................................................106
4.3.2. Diện mạo dân cư, tộc người ............................................................108
4.3.3. Diện mạo văn hóa vật chất và tinh thần ..........................................109
4.3.3.1. Địa danh phố “Hàng” và không gian phố nghề thủ công truyền
thống ..........................................................................................................109
4.3.3.2. Địa danh La Thành, Đê La Thành, Đại La và không gian thành
lũy Thăng Long – Hà Nội ........................................................................116
4.3.3.3. Địa danh Ngọc Hà, Kim Mã, Ngọc Khánh…và không gian khu
Thập Tam Trại ..........................................................................................118
4.3.3.4. Địa danh Láng, Bưởi, Võng Thị, Trích Sài và không gian làng
nghề thủ công truyền thống .......................................................................119
4.3.3.5. Địa danh “Mai” và vùng Kẻ Mơ ..................................................120
4.3.3.6. Cổ Bi, Cổ Loa, Cổ Nhuế và dấu tích những vùng đất cổ ............122
Tiểu kết chương 4......................................................................................123
Kết luận và kiến nghị ..............................................................................124
Tài liệu tham khảo .....................................................................................127
Phụ lục



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
STT

CHỮ VIẾT TẮT

TÊN ĐẦY ĐỦ

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Đ
P
N
PT
SCM
TC
HB
K
VD
STT



Đường
Phố
Ngõ
Pháp thuộc
Sau cách mạng tháng Tám
Tạm chiếm
Hịa bình (từ 1954)
Tên khác
Ví dụ
Số thứ tự
Chuyển thành, biến đổi thành


Danh mục bảng biểu trình bày trong luận văn
1. Hình 1.1. Sơ đồ mối quan hệ địa danh học với các khoa học khác ..15
2. Bảng 2.1. Thống kê địa danh theo phương thức tự tạo ....................38
3. Bảng 2.2. Thống kê địa danh theo phương thức chuyển hóa ...........42
4. Bảng 2.3. Thống kê địa danh theo phương thức vay mượn .............44
5. Bảng 2.4. Thống kê địa danh theo phương thức định danh ..............45
6. Bảng 2.5. Mơ hình cấu tạo địa danh đường phố ở Hà Nội ...............46
7. Bảng 2.6. Thống kê địa danh theo số lượng yếu tố ..........................46
8. Bảng 2.7. Phân loại thành tố chung trong yếu tố tên riêng ..............48
9. Bảng 2.8. Chuyển hóa thành tố chung vào yếu tố thứ nhất của
tên riêng ............................................................................................49
10. Bảng 2.9. Chuyển hóa thành tố chung vào yếu tố thứ hai của
tên riêng ............................................................................................50
11. Bảng 3.1. Biến đổi địa danh theo thời gian .....................................81
12. Hình 3.2. Biến đổi địa danh theo khơng gian ..................................84

13. Hình 3.3. Biến đổi địa danh theo nguồn gốc ngôn ngữ ...................85
14. Bảng 4.1. Phân loại địa danh theo tiêu chí ý nghĩa .........................93


PHẦN MỞ ĐẦU
1. lí do chọn đề tài
Có nhiều cách để tiếp cận một khơng gian văn hố, trong đó tìm hiểu
những nét đặc trưng mà địa danh để lại trên mình nó là một trong những con
đường như thế.
Địa danh là một trong những chứng cứ quan trọng để tìm hiểu và nhận
diện đặc trưng của một khơng gian văn hố trên các mặt địa lí, lịch sử, tộc
người, ngơn ngữ, văn hố….. Nhờ địa danh người ta có được hiểu biết về sự
giao tiếp và bảo lưu văn hố, về q trình lịch sử, văn hố của một địa bàn,
một dân tộc; những vấn đề về lãnh thổ, lãnh hải, vấn đề chủ quyền và biên
giới quốc gia.
Nghiên cứu địa danh không những chỉ ra được những đặc điểm về ngôn
ngữ đặt tên của một vùng phương ngữ mà cịn góp phần làm sáng tỏ mối quan
hệ giữa các địa danh với những lĩnh vực khác, đặc biệt là văn hố.
Hà Nội là thủ đơ đã gần một nghìn năm tuổi, với bề dày đáng tự hào về
lịch sử, văn hố. Địa danh chính là tấm bia ghi lại những thăng trầm đó.
Trong đó, địa danh đường phố ở Hà Nội đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu. Địa danh đường phố là nhóm địa danh đặc trưng, tiêu biểu trong
hệ thống địa danh ở Hà Nội. Nghiên cứu địa danh đường phố sẽ góp phần tìm
ra nét chung của hệ thống địa danh ở Hà Nội cũng như nét riêng biệt và đặc
sắc của một đô thị cổ, cùng những bước đi liền mạch với vai trị trung tâm
trong suốt q trình phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nhiều
chuyên luận nghiên cứu khoa học và sâu sắc về địa danh đường phố ở Hà
Nội, từ góc độ ngơn ngữ - văn hố, nhằm khai thác và lí giải nhiều vấn đề của
quá khứ, cũng như hiện tại, trên nhiều phương diện như ngơn ngữ, địa lí, lịch
sử, dân tộc, văn hoá…


1


Để góp phần làm phong phú thêm nguồn tư liệu về Thủ đơ, đóng góp
cho những nghiên cứu về vùng đất ngàn năm văn hiến, thiết thực hướng tới kỉ
niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, chúng tôi đã chọn đề tài “Khảo sát địa
danh đường phố ở Hà Nội” để nghiên cứu.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn lấy đối tượng nghiên cứu là toàn bộ hệ thống địa danh đường
phố ở Hà Nội, bao gồm tên gọi các đường, phố ở Hà Nội. Chúng tôi sẽ đề cập
chi tiết hơn về vấn đề này trong chương 1.
Đề tài chủ yếu sưu tầm, khảo sát địa danh đường, phố trên phạm vi
hành chính của thành phố Hà Nội, bao gồm địa bàn các quận, huyện hiện nay,
tính đến trước ngày 1/08/08. Tư liệu khảo cứu chủ yếu là ở diện đồng đại.
Theo số liệu của tổng cục thống kê, hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội,
tính đến trước ngày 01/08/08, có tổng số 752 địa danh đường phố, bao gồm
458 địa danh phố, 121 địa danh đường và 173 địa danh ngõ. Khi khảo sát thực
tế, một số địa danh có hiện tượng trùng, do đó con số thực tế địa danh nghiên
cứu là 697 địa danh. Chúng tôi dựa vào hệ thống những địa danh này làm cơ
sở để khai thác phần lớn nội dung của luận văn.
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cố gắng dựa trên các
tài liệu về lịch sử để dựng lại một bức tranh toàn cảnh về địa danh đường phố
trong lịch sử.
3. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu
Dựa vào kết quả khảo sát, thu thập tài liệu, tư liệu qua điều tra điền dã,
trên cơ sở tham khảo các tài liệu liên quan, trong luận văn này, chúng tôi nêu
một vài ý kiến bước đầu có tính thử nghiệm về việc tìm hiểu địa danh dưới
góc độ văn hố. Thơng qua việc khảo sát phân loại quá trình hình thành và
biến đổi địa danh đường phố, những giá trị của địa danh đường phố dưới góc

độ văn hố, luận văn mong muốn đưa ra một số nhận xét về giá trị của địa

2


danh đường phố ở Hà Nội như một yếu tố mang trong mình nhiều giá trị văn
hố q báu, như một chất liệu góp phần làm sáng tỏ thêm về văn hoá Thăng
Long – Hà Nội, đặc biệt là vấn đề địa chí văn hố.
Nghiên cứu địa danh đường phố ở Hà Nội cũng là dịp cho phép người
viết áp dụng thao tác nghiên cứu liên ngành như ngôn ngữ, văn học, lịch sử,
địa lí, dân tộc học, khảo cổ học, phong tục tập qn... để nhìn nhận và lí giải
vấn đề của một khơng gian văn hóa.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong q trình triển khai đề tài, chúng tơi đã sử dụng tổng hợp một số
phương pháp nghiên cứu sau:
Thứ nhất là các phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học. Chúng tôi
sử dụng các kiến thức và phương pháp phân tích từ vựng, ngữ âm, phương
pháp khảo sát của phương ngữ học với hai bình diện tiếp cận là đồng đại và
lịch đại.
Thứ hai là những thao tác trong nghiên cứu khu vực học. Chúng tơi
nhìn nhận ngơn ngữ trong địa danh là vấn đề ngôn ngữ dưới góc độ khu vực
học, trọng tâm là xem xét ngơn ngữ như một đặc trưng của khơng gian văn
hóa. Đồng thời những tri thức của khoa học địa lý, lịch sử, văn hóa, dân tộc
học, xã hội học, phong tục tập quán…cũng được sử dụng để phục vụ cho thao
tác nghiên cứu liên ngành.
Ngoài ra những phương pháp nghiên cứu như thống kê, miêu tả, so
sánh, đối chiếu, phương pháp bản đồ…cũng được chúng tôi sử dụng để
nghiên cứu một đề tài liên quan nhiều đến địa chí dân gian.
Để hiểu rõ, hiểu sâu từng địa danh, từng lớp địa danh, qua đó thấy
được những lớp văn hố biểu hiện ở đó, chúng tơi nhận thấy cần khảo sát cả

từ góc độ đồng đại lẫn lịch đại. Theo góc nhìn đồng đại, có thể nhìn thấy hiện
trạng biểu hiện của các loại địa danh trong một vùng, một khu vực. Theo

3


hướng lịch đại, lại có thể thấy được q trình đổi thay, biến đổi qua các thời
kỳ của các địa danh mà mỗi lần biến đổi đó đều gắn với những sự kiện, những
biến cố của lịch sử, văn hoá trong một không gian cụ thể. Khi nghiên cứu,
chúng tôi chú trọng tới cả hai bình diện này, và sử dụng nó tuỳ vào mục đích
của nội dung khai thác.
5. Tƣ liệu nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu địa danh đòi hỏi phải thu thập rất nhiều tài liệu từ nhiều
nguồn khác nhau. Để có được những thống kê và đánh giá khoa học, đầy đủ,
chúng tôi thu thập tài liệu từ những nguồn sau:
- Các văn bản của chính quyền các cấp trong quá khứ
Các tư liệu này có thể cho biết tình trạng địa danh của Hà Nội trong
những giai đoạn nhất định. Một số đã được in trong các niên giám, một số đã
được các nhà nghiên cứu sưu tập và công bố dưới dạng tác phẩm. Đây là
những tư liệu gốc, chính xác, hết sức cần thiết cho việc nghiên cứu địa danh.
- Các số liệu, danh sách địa danh ở các cơ quan Nhà nước hiện nay
Chúng tôi sưu tập tài liệu này ở những nguồn sau: UBND Thành phố Hà Nội,
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch, sở Giao thơng cơng chính, Cục Quản lý di
sản văn hoá Hà Nội, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Thư viện Quốc gia, Thư
viện Hà Nội, thư viện Khoa học – xã hội…
- Tư liệu trên sách báo
Tư liệu trên sách báo bao gồm : Sách, báo, tạp chí, các cơng trình nghiên cứu
về ngơn ngữ, lịch sử, văn hoá, dân tộc học, xã hội học, địa danh học…và đặc
biệt là văn hố dân gian có liên quan đến vấn đề địa danh.
Đây là những tài liệu rất quan trọng đối với đề tài, cho phép bổ sung

những địa danh có thể cịn khuyết thiếu trong những tài liệu hành chính, đa
phần là những tên gọi trong dân gian, hoặc những tên gọi gắn liền với những

4


điển tích. Đây cũng là tư liệu quan trọng để góp phần giải nghĩa tên gọi, đánh
giá những đặc trưng về mặt văn hoá của địa danh.
- Tư liệu từ điển về ngôn ngữ, từ điển về địa danh, sách địa phương chí…
Địa danh là một lĩnh vực nghiên cứu của ngơn ngữ học, do đó những từ
điển về ngơn ngữ cho phép nghiên cứu địa danh trên cả hai góc độ ngữ và
nghĩa, nhất là nguồn gốc ngữ nguyên, nó góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề
về yếu tố tộc người, diện mạo văn hoá….
- Tư liệu bản đồ
Các bản đồ về địa hình, hành chính, kinh tế, qn sự, văn hố, kiến
trúc…cho phép xác định vị trí các địa danh, sự ra đời và mất đi của chúng,
cũng như cho phép hình dung được những khơng gian mang tính văn hố,
nhất là với những khu vực tương đối đặc biệt như hiện tượng xuất hiện một số
địa danh có những yếu tố tên gọi giống nhau trong một không gian gần nhau,
các mối liên hệ giữa các loại địa danh khác nhau, nhưng trên một phạm vi địa
lí gần nhau. Nó giúp ích rất nhiều trong việc có được những hình dung cũng
như suy luận về các địa danh. Ở đây chúng tôi chú ý một số bản đồ chính:
+ Bản đồ cổ của huyện Vĩnh Thuận và Thọ Xương
+ Bản đồ Hà Nội năm 1831
+ Bản đồ Đồng Khánh địa dư chí lục
+ Bản đồ thời kỳ sau cách mạng: Bản đồ Hà Nội năm 1946, bản đồ Hà
Nội các năm 1953 – 1954, bản đồ Hà Nội 1955
+ Bản đồ Hà Nội trước 01/08/088
- Tư liệu điền dã
Đây là loại tư liệu góp phần làm sáng tỏ những vấn đề trên các tài liệu

văn bản, giải đáp những băn khoăn, thậm chí chưa chính xác về những địa
danh trên văn bản, đồng thời mở ra cho người nghiên cứu nhiều hướng nghiên
cứu mới. Những tài liệu điền dã mà người viết chú trọng là hệ thống tài liệu

5


văn hoá dân gian, đặc biệt là văn học dân gian, như thần thoại, truyền thuyết,
thần tích, ca dao, tục ngữ….có liên quan đến các địa danh. Những tư liệu này
phần lớn nằm trong hương ước, gia phả, hay thần tích của các làng. Nhiều tư
liệu q báu cũng có được nhờ ghi chép từ các lời kể của những người lớn
tuổi.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Luân văn mong muốn xây dựng một bức tranh toàn cảnh về địa danh
đường phố ở Hà Nội một cách khái quát (trong quá khứ), và chi tiết (trong
hiện tại). Thông qua những lí luận, đánh giá, thấy được những đóng góp quan
trọng của địa danh trên nhiều lĩnh vực, nhất là những đóng góp trong lĩnh vực
ngơn ngữ học.
Luận văn cũng góp phần bước đầu khẳng định vai trị của địa danh như
một phương tiện quan trọng để nghiên cứu văn hố và các khoa học khác,
đồng thời, bản thân nó cũng là một sản phẩm đặc sắc của văn hoá.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Thơng qua những đóng góp về mặt ý nghĩa khoa học, luận văn góp
phần vào cơng tác danh hóa các địa danh đường phố, đặc biệt trong vấn đề
đặt, đổi tên đường phố ở Hà Nội.
Với đề tài nghiên cứu địa danh đường phố, luận văn đóng góp vào tiến
trình nghiên cứu tồn bộ địa danh Hà Nội, góp phần lưu giữ những giá trị quý
giá của Thủ đô nhân kỉ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm:
Chương 1. Lí thuyết về địa danh và nghiên cứu địa danh đường phố ở Hà Nội
Chương 2. Phương thức định danh và cấu tạo địa danh đường phố ở Hà Nội
Chương 3. Quá trình hình thành và biến đổi của địa danh đường phố ở Hà Nội
Chương 4. Góp phần khẳng định đặc trưng văn hoá của địa danh đường phố ở
Hà Nội

6


Chƣơng 1.
LÝ THUYẾT VỀ ĐỊA DANH VÀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH
Ở HÀ NỘI
1.1.

Một số vấn đề lí thuyết về nghiên cứu địa danh

1.1.1. Cơ sở lý luận và lược sử nghiên cứu địa danh
Khi nghiên cứu vốn từ vựng của một ngơn ngữ, tuỳ theo mục đích có
thể phân ra các hệ thống khác nhau như địa danh, nhân danh…Hệ thống này
gọi là hệ thống tên riêng nằm trong hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ.
Trong ngôn ngữ học, ngành địa danh học (toponymic) và nhân danh học
(Athronnymic) thuộc bộ mơn khoa học có tên là Danh xưng học.
Địa danh có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp “Topos” (vị trí) và “omoma”/
“onyma” (tên gọi). Theo A.V. Superanskaja “Địa danh là những từ ngữ chỉ
tên riêng của các đối tượng địa lý có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” {97,
tr.21}.
Ở Việt Nam, theo Hán Việt từ điển của Phan Văn Các thì “Địa danh là
tên gọi các miền đất” {7, tr.71}. Từ điển Tiếng Việt cũng giải thích rất đơn
giản “Tên đất, tên địa phương”{66, tr.102}. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Âu

nêu quan niệm “Địa danh học là một môn khoa học chuyên nghiên cứu về tên
địa lí các địa phương”{2, tr.6}. Trong khi đó, tác giả Lê Trung Hoa có nhận
xét “Địa danh là những từ hoặc ngữ cố định, được dùng làm tên riêng của
địa hình thiên nhiên, các cơng trình xây dựng, các đơn vị hành chính, các
vùng lãnh thổ và các cơng trình xây dựng thiên về khơng gian hai chiều” {41,
tr.5}. Nguyễn Kiên Trường lại xác định “Địa danh là tên riêng chỉ các đối
tượng địa lý tự nhiên và nhân văn có vị trí xác định trên bề mặt trái đất”.
{93, tr.16}.
Theo chúng tôi, mặc dù nằm trong hệ thống những loại hình khác nhau
nhưng các đối tượng địa lý bao giờ cũng xuất hiện trong thực tế với những cá

7


thể độc lập. Đầu tiên, người ta thường sử dụng các tên chung để định danh,
tạo tên riêng cho đối tượng. Tên riêng của các đối tượng này xuất hiện muộn
hơn các tên chung chỉ loại. Do vậy, khi xác định khái niệm địa danh cần phải
chú ý đến những vấn đề nội tại trong bản thân đối tượng. Trước hết mỗi địa
danh sinh ra đều có tính lý do, sau đó là sự thể hiện chức năng gọi tên và cá
thể hoá. Từ kiến giải của các tác giả trong và ngồi nước nói trên, chúng tơi
sử dụng định nghĩa của Superanskaja để nghiên cứu. Do đó, chúng tơi cũng
chấp nhận cách phân loại địa danh thành 2 loại lớn là địa danh tự nhiên và địa
danh không tự nhiên. Địa danh tự nhiên là địa danh gọi tên các đối tượng địa
hình thiên nhiên, trong loại địa danh không tự nhiên, chúng tôi chia nhỏ hơn
thành các tiểu nhóm: tiểu nhóm địa danh chỉ các đơn vị dân cư, hành chính;
tiểu nhóm địa danh đường phố; tiểu nhóm địa danh chỉ các cơng trình xây
dựng.
Địa danh có hai đặc trưng quan trọng nhất là chức năng xã hội và chức
năng văn hoá của một cộng đồng cụ thể.
Địa danh học là một ngành của ngôn ngữ học, nghiên cứu cấu tạo, ngữ

nghĩa, nguồn gốc và sự biến đổi của các địa danh. Việc nghiên cứu địa danh
xuất hiện từ rất lâu. Nhiều sách lịch sử, địa lí của Trung Quốc khơng những
ghi chép địa danh mà cịn chỉ ra cách đọc, ngữ nghĩa, vị trí diễn biến và quy
luật gọi tên. Đầu thời Đông Hán (32 – 92 sau CN), Ban Cố đã ghi chép hơn
4000 địa danh, một số địa danh được giải thích rõ ý nghĩa và nguồn gốc. Đến
thời Bắc Ngụy (380 – 535), Lịch Đạo Nguyên viết Thuỷ kinh Chú sớ, trong
đó có ghi chép 3 vạn địa danh {64, tr. 3}.
Cuối thế kỉ XIX, ở phương Tây mơn địa danh học chính thức ra đời.
Năm 1872, J.J Eghi ( Thuỵ Sĩ) viết Địa danh học và năm 1903, J. W. Nagl
(người Áo) cũng cho ra đời tác phẩm Địa danh học. Những năm 90 của thế
kỉ XIX và 20 năm đầu của thế kỉ XX, các uỷ ban địa danh ở các nước được

8


thành lập: Uỷ ban địa danh nước Mĩ (BGN – 1890), Uỷ ban địa danh Thụy
Điển (1920), Uỷ ban địa danh nước Anh (1919)…Thời kì đầu các nhà địa
danh học quan tâm đến khảo cứu nguồn gốc địa danh. Bắt đầu từ thế kỉ XX,
J.Gilllénon (1854 – 1926) đã viết “Atlat ngôn ngữ Pháp”, nghiên cứu địa
danh theo hướng phát triển địa lí học. A.Dauzat (1926 – Pháp) đã viết “
Nguồn gốc và sự phát triển địa danh”, đề xuất phương pháp địa lí học để
nghiên cứu các lớp niên đại của địa danh.
Ngày nay, địa danh học phổ thông nghiên cứu tổng hợp các nguyên lí
cơ bản về địa danh: sự xuất hiện, quy luật phát triển và quan hệ địa danh với
lịch sử địa lí trong một khu vực, địa danh, địa chí học nghiên cứu từng địa
danh về cách đọc, cách viết, cách dịch, tiêu chuẩn hoá có mục đích thực tiễn.
Ngồi ra địa danh học cịn vận dụng phương pháp phân tích bản đồ để nghiên
cứu sự phân bố địa danh.
Đi đầu và đạt nhiều thành tựu trong nghiên cứu địa danh là các cơng
trình của những học giả Xơ Viết trước đây. Có thể kể tên một số cơng trình tiêu

biểu như “Dẫn luận địa danh học” (M. 1965) và “Từ điển địa danh bỏ túi”
(M. 1968) của V.A. Nhikonov; “Mơn địa lí trong các tên gọi” (M.1979) của
E.M. Muzaeve….Trong đó cơng trình “Địa danh học là gì?” của A.V.
Superanskaja là tác phẩm quan trọng nhất đã tổng kết thu gọn các tri thức cơ
bản của địa danh học như khái niệm, nhận diện, phân tích, phân loại địa danh.
{41, tr.11}
Hàng loạt các tác phẩm nghiên cứu địa danh khác và nhiều cuốn từ điển
địa danh cũng đã lần lượt xuất hiện ở Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Đức, Trung Quốc…
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu địa danh cũng đã có từ lâu, nhưng các
cơng trình nghiên cứu phần lớn đều tiếp cận dưới góc độ nghiên cứu ngôn
ngữ. Với bài nghiên cứu công bố cách đây hơn 40 năm “Mối liên hệ về ngôn
ngữ cổ đại ở Đông Nam Á với qua một vài tên sơng” {16}, Hồng Thị

9


Châu được coi như một trong những người cắm cột mốc đầu tiên nghiên cứu
địa danh dưới góc nhìn ngơn ngữ học. Sau đó, những nghiên cứu của tác giả
Lê Trung Hoa {38} là những chuyên khảo đầu tiên về địa danh của một địa
phương là Thành phố Hồ Chí Minh. Các tác phẩm này đã dựa vào những cứ
liệu ngôn ngữ học để nghiên cứu địa danh. Tiếp sau đó là luận án Phó tiến sĩ
của Nguyễn Kiên Trường, nghiên cứu địa danh thành phố Hải Phòng {93},
tác giả Từ Thu Mai nghiên cứu địa danh Quảng Trị {61}. Những cơng trình
này đã có những đóng góp đáng trân trọng khi tiếp cận vấn đề địa danh học
dưới cách nhìn ngơn ngữ học….Tiếp theo các tác giả Trần Thanh Tâm , Bùi
Thiết {74}, {79} đã lần lượt nghiên cứu địa danh một số địa phương, địa danh
lịch sử văn hố….
Nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu địa danh hiện nay về cơ bản
sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học để khai thác vấn đề. Đây
là một hướng nghiên cứu khoa học và chặt chẽ. Nó thường đi vào tìm hiểu địa

danh bằng những thao tác của ngôn ngữ học như từ vựng học, ngữ pháp học,
phương ngữ học, ngơn ngữ học lịch sử….Vì người nghiên cứu coi địa danh
như một lĩnh vực nghiên cứu của ngôn ngữ (địa danh học) nên đã bỏ qua
những yếu tố phi ngôn ngữ của địa danh, mà vấn đề này chỉ có thể được nhìn
nhận và sáng tỏ bằng nhiều khoa học khác.
1.1.2. Vấn đề địa danh đường phố trong nghiên cứu địa danh
Phân loại địa danh là vấn đề phức tạp, do sự khác biệt về cách phân
loại. Tuy nhiên, địa danh đường phố luôn là đối tượng được chú ý trong hệ
thống phân loại địa danh.
Ở Liên Xô, nhà địa danh học A. V. Superanskaja chia địa danh thành 7
loại theo đối tượng mà địa danh biểu thị, gồm: 1) Phương danh; 2) Thuỷ
danh; 3) Sơn danh; 4) phố danh (tên các đối tượng trong thành phố); 5) Viên
danh; 6) Lộ danh (tên các đường phố); 7) Đạo danh. {97; tr.31}. Trong khi

10


đó, G. P. Smolicnaja và M. V. Gorbanevskij cũng chia địa danh theo 4 loại: 1)
Phương danh; 2) Sơn danh; 3) Thuỷ danh; 4) Phố danh (tên các đối tượng
trong thành phố). {41, tr.25}.
Ở phương Tây, nhà nghiên cứu Ch. Rostaing cũng đề cập đến một
chương có tên là Các địa danh và tên đường phố trong tác phẩm Les noms de
lieux {41, tr.26}. Trong các nghiên cứu này, đường phố nằm trong hệ thống
phố danh, hoặc lộ danh.
Ở Việt Nam, đáng chú ý nhất, là cách phân loại của Lê Trung Hoa. Căn
cứ vào đối tượng nghiên cứu, ông chia địa danh thành ba loại: địa danh chỉ
các địa hình tự nhiên, địa danh chỉ các cơng trình xây dựng, thiên về không
gian hai chiều như tên cầu, cống, chợ, đường phố, công viên… và địa danh
chỉ các đơn vị hành chính {41, tr.15}. Dựa theo cách phân loại này, tác giả
Nguyễn Kiên Trường đã có những phân chia nhỏ hơn, với nhiều tiểu nhóm,

trong đó có tiểu nhóm địa danh đường phố, bao gồm các đối tượng: cửa ô, đại
lộ, đoạn phố, đường, đường bao, đường vòng, đường xuyên đảo, ngã ba, ngã
năm, ngã sáu, ngã tư, ngõ, ngõ phố, phố, quảng trường {93, tr.31}.
Bản thân ngành địa danh học trong ngôn ngữ học cũng được chia thành
nhiều tiểu nhóm như sơn danh học, thuỷ danh học, phương danh học và phố
danh học. Trong đó, phố danh học là ngành học chuyên nghiên cứu về tên gọi
các đường phố và các đối tượng trong thành phố. Có thể sử dụng sơ đồ của
tác giả Lê Trung Hoa để khái quát mối quan hệ này:

11


NGÔN NGỮ HỌC

NGỮ ÂM HỌC

TỪ VỰNG
HỌC

NGỮ PHÁP
HỌC

DANH XƢNG
HỌC

ĐỊA DANH
HỌC

NHÂN DANH
HỌC


SƠN
DANH
HỌC

THỦY
DANH
HỌC

PHƢƠN
G DANH
HỌC

HIỆU DANH
HỌC

PHỐ
DANH
HỌC

Nguồn: {41, tr 20}
Khi khảo sát hệ thống địa danh ở Hà Nội, chúng tôi sử dụng kết quả hệ
thống phân loại địa danh của tác giả Nguyễn Kiên Trường khi nghiên cứu địa
danh Hải Phòng, do đây là kết quả thống kê có tính khái qt cao, có thể áp
dụng cho nhiều địa bàn khác nhau:
- Nhóm địa danh tự nhiên: Hồ, sông, ao, núi, vũng, đầm, đảo, gò, cánh đồng, ruộng

12



- Nhóm địa danh hành chính, đơn vị cư trú: khu, khu phố, khu tập thể, phủ,
tổng, trại, tràng, trấn, thị trấn, làng, xóm, xã, thơn, giáp, khu, phường, quận,
huyện, thành phố, vùng…
- Nhóm địa danh cơng trình xây dựng: cầu, cống, bãi, bến, chợ, công viên,
vườn hoa, vườn thú, cung thể thao, cung văn hoá, đập , đê, đồn, khu di tích,
pháp trường, quảng trường, sân vận động, thành cổ, đình, chùa, am, nhà thờ,
qn.
- Nhóm địa danh đường phố: đường, phố, ngõ, dốc, quảng trường, cửa ô, ngã
ba, ngã tư, ngã năm, quốc lộ.
{93, tr.32}
Như vậy, đường phố là một đối tượng nghiên cứu quan trọng của địa
danh, tuỳ theo mỗi cách phân chia mà nó nằm trong những đối tượng cụ thể.
Theo chúng tôi, địa danh đường phố Hà Nội nên được xét vào nhóm đối
tượng riêng, vì nó mang trong mình những đặc trưng riêng biệt của khơng
gian, cũng như chức năng mà nó được gọi tên. Khi nghiên cứu những đối
tượng này, có thể nhận ra những ảnh hưởng quan trọng của vấn đề địa – văn
hoá trong tên gọi và những vấn đề biến đổi trên phương diện lịch đại. Trong
nghiên cứu này, chúng tôi lấy địa danh đường phố làm đối tượng nghiên cứu
chính, bao gồm thống kê những tên gọi của các đối tượng: đường, phố, ngõ
với cấu tạo chung gồm:
Đƣờng ( phố, ngõ) + tên riêng.
Ví dụ: Đường Hồng Hoa Thám, Phố Huế, Ngõ Dân Chủ…
Lí do chúng tơi chọn những đối tượng này vì đây là những tên gọi có số
lượng lớn, có tính hệ thống cao, có những biến đổi quan trọng và có nhiều vấn
đề gắn bó chặt chẽ với quá trình phát triển của Hà Nội. Việc lựa chọn này
cũng là để chúng tơi có điều kiện đi vào nghiên cứu cụ thể và chặt chẽ những
đối tượng được chọn lọc, hơn là đi vào thống kê cả những đối tượng khác mà

13



xét về ý nghĩa trên góc độ văn hố và ngơn ngữ lại có sự trùng lặp. Những lý
do cụ thể hơn, chúng tôi sẽ đề cập trong phần sau của đề tài.
1.1.3. Nghiên cứu địa danh bằng cái nhìn của nghiên cứu khu vực học,
dưới góc độ ngơn ngữ - văn hoá.
Là sản phẩm của một cộng đồng sử dụng ngôn ngữ nhất định, địa danh
là tấm bia phản chiếu đời sống văn hố của cộng đồng đó trong suốt chiều dài
lịch sử. Cùng với những tác động của những quy luật ngôn ngữ và những tác
động của các yếu tố khác như yếu tố tộc người, đặc điểm lịch sử, chính trị,
tâm lý, văn hố đã làm nên đặc điểm văn hố của địa danh. Xét trên góc độ
này, địa danh có thể coi là sản phẩm văn hố của một khơng gian văn hố cụ
thể, và đến lượt mình, địa danh lại thể hiện trong đó những giá trị nhiều mặt.
Thơng qua địa danh, có thể nhận biết được nhiều thông tin quý báu về dân
tộc, lịch sử, ngơn ngữ, văn hố, địa lý, kinh tế, xã hội….
Trên thực tế, những nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Việt Nam từ
trước đến nay thường hạn chế khi nghiên cứu địa danh dưới góc độ của riêng
khoa học ngôn ngữ, coi đây là một ngành của ngôn ngữ học, hoặc nếu có xét
địa danh dưới góc độ khác thì lại nặng về tính trình bày, như một cuốn từ điển
về lịch sử, địa chí. Tất cả những nghiên cứu này chưa thực sự chú ý đến tính
khu vực và liên ngành để đi vào lí giải những vấn đề của địa danh. Địa danh
được hình thành và phát triển trong một không gian cụ thể, biến đổi theo
chiều dài của thời gian. Đặc thù của nó là gắn với bối cảnh của rất nhiều các
tác động với các yếu tố như địa lý, lịch sử, tộc người và tính liên tục của văn
hố. Địa danh được ghi lại bằng chất liệu ngôn ngữ, do vậy khi nghiên cứu
địa danh, cần phải coi ngơn ngữ là chìa khố và thao tác chính để lí giải và
nghiên cứu nhiều hiện tượng. Bản thân ngơn ngữ cũng mang đậm tính khu
vực. Nó góp phần hình dung diện mạo của chính khu vực đang nghiên cứu,
dưới nhiều góc độ. Đây là cách tiếp cận khoa học và hợp lý. Tuy nhiên, như

14



phần phương pháp nghiên cứu chúng tơi đã trình bày, địa danh với chức năng
định danh, cá thể hoá đối tượng, đồng thời cũng mang chức năng phản ánh và
bảo tồn nên nó mang trong mình nhiều biểu hiện có tính ngơn ngữ lẫn phi
ngơn ngữ. Vì thế vấn đề địa danh cần được nhìn nhận bằng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học, dưới nhiều góc độ. Có thể khái quát mối quan hệ này
bằng sơ đồ 1.2:

XÃ HỘI
HỌC

NGÔN
NGỮ

ĐỊA LÝ

ĐỊA DANH
HỌC
VĂN
HĨA
KHOA
HỌC
KHÁC

LỊCH
SỬ

Hình 1.1. Sơ đồ mối quan hệ của địa danh học với các khoa học
khác

Nghiên cứu địa danh đường phố ở Hà Nội từ góc nhìn ngơn ngữ và văn
hố theo phương pháp nghiên cứu liên ngành khu vực học là xem xét địa danh
trong một không gian cụ thể, tìm ra sự ảnh hưởng của những đặc trưng đó vào
sự phản ánh trong địa danh. Đồng thời, thông qua các thao tác của khoa học
ngôn ngữ và những khoa học liên ngành khác, tìm ra những nét đặc trưng của
khu vực được thể hiện trong địa danh.

15


1.2.

Vấn đề nghiên cứu địa danh đƣờng phố ở Hà Nội

1.2.1. Lược sử nghiên cứu địa danh và địa danh đường phố ở Hà Nội
Nghiên cứu địa danh là một vấn đề còn mới mẻ ở Việt Nam và chưa có
nhiều cơng trình nghiên cứu. Cho đến nay chưa có một cơng trình nghiên cứu
về địa danh Hà Nội một cách khoa học và đầy đủ. Những địa danh ở Hà Nội đã
được nhắc đến từ rất sớm trong những tài liệu của người Trung Quốc, sau này
là trong các tài liệu của triều đình phong kiến, trong văn học dân gian. Là vùng
đất cổ, đế đô của nhiều triều đại, thể chế, việc địa danh ở Hà Nội xuất hiện
nhiều và phổ biến là điều dễ hiểu.
Những cơng trình nghiên cứu về địa danh Hà Nội mới chỉ xuất hiện từ
thế kỷ thứ XIX. Đó là những cơng trình thiên về lịch sử, liệt kê các đơn vị hành
chính, mơ tả phong vật, sơng núi, thành trì, nhân vật, sản vật của vùng đất Hà
Nội xưa, bao gồm địa bàn chủ yếu của hai huyện Vĩnh Thuận và Thọ Xương,
nay thuộc quận Ba Đình và Hồn Kiếm, Hà Nội. Đầu tiên là cơng trình “Các
trấn, tổng, xã danh bị lãm” (1810), thu thập tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ
XIX thuộc các tỉnh từ Nghệ An trở ra, trong đó có địa danh làng, xã Hà Nội
{63, tr.396}. Tiếp đó là cuốn “Bắc Thành địa dƣ chí lục” (1818 – 1821) do

Lê Chất biên soạn, có ghi chép 12 trấn thuộc Bắc Thành, nay là 12 tỉnh miền
Bắc {63, tr. 271}. Năm 1866, “Hà Nội địa bạ” xuất bản với danh sách các địa
danh đến tận xã, phường, thôn, trại của tỉnh Hà Nội thời Tự Đức {63, tr.1034}.
Tiếp theo đó là các cuốn “Đại Việt địa dƣ tồn biên” của Bùi Hữu Trúc,
“Phƣơng Đình dƣ địa chí” của Nguyễn Văn Siêu, xuất bản năm 1882; “Đồng
Khánh địa dƣ toàn biên” năm 1888 {63, tr.624}, {63, tr.3034}, {63, tr.702}.
Bên cạnh đó, cịn có những ghi chép về sơng núi, thành trì …thuộc địa bàn Hà
Nội khá tỷ mỉ như “Hà Nội, sơn xuyên phong vực”, “Hà Nội địa dƣ”…{63,
tr.2035}, {63, tr.1157}. Các cơng trình này khơng có giá trị nhiều về lý luận
nghiên cứu mà chỉ được xem như là nguồn tư liệu cho việc khảo sát địa danh ở
Hà Nội.

16


Thời Pháp thuộc, thực dân Pháp thực hiện việc nghiên cứu địa danh Hà
Nội mang tính ghi chép chủ yếu để phục vụ cho công cuộc xâm lược. Điều
này được thể hiện rõ trong tài liệu lưu trữ 1873 – 1954 của trung tâm Lưu trữ
Quốc gia I, về địa giới hành chính, về giao thơng đơ thị….do người Pháp ghi
chép. Ở thời kỳ này nhiều tên gọi địa danh được đặt thêm, mang màu sắc của
địa danh phương Tây. Ngồi ra, các kho thần tích, thần sắc Hà Nội năm 1938
có ghi chú rõ ở ngõ, làng, phố, khu phố nào, đình nào có bao nhiêu đạo sắc
phong, bao nhiêu nhân thần, thiên thần, hoàng thành và tên gọi của chúng.
Cũng có những địa danh bị mất đi nhưng vẫn có thể suy luận ra nay ở đâu nhờ
tên nhân thần, thành hồng…của khu vực đó. Như vậy việc nghiên cứu địa
danh Hà Nội ở thời kỳ này cũng chỉ dừng lại ở việc khảo sát, khơng mang
tính lý luận.
Địa danh đường phố Hà Nội được nhắc đến từ cuối đời Lê trong tài liệu
“Lịch triều hiến chƣơng loại chí” {63, tr. 2877}. Đến đời Nguyễn nó trở
nên phổ biến hơn trong các tài liệu như “Đại Nam nhất thống chí” {63,

tr.675, trong tài liệu của một số nhà bn người Pháp, trong ca dao, tục
ngữ…nhưng đó chỉ là những tài liệu có nhắc đến tên phố mà chưa đi vào
khảo sát thống kê như một chuyên đề.
Tài liệu đầu tiên cịn lưu lại đến ngày nay có đề cập đến hệ thống địa
danh đường phố, tuy chưa đầy đủ nhưng bước đầu đã có ý nghĩa như một
khảo sát, thống kê là cuốn “Đại Nam nhất thống chí”, có nêu tên 21 phố
nhưng chưa có thống kê về vị trí, xuất xứ hoặc ý nghĩa tên gọi. Sau đó, những
tài liệu thời Pháp thuộc như “Hà Nội địa bạ”, “Hà Nội chỉ nam”, “Hà Nội
sơn xuyên và phong tục”… đã có những thống kê thứ tự các đường phố ở
Hà Nội, cả tiếng Pháp lẫn tên quen thuộc của người Việt, vị trí, độ dài của
những đường phố đó. Tuy nhiên, những tài liệu này vẫn nặng về tính chất
hành chính hơn là một tài liệu nghiên cứu.

17


×