Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Phân tích báo cáo tài chính mã cổ phiếu HAG của công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.74 KB, 59 trang )

Phân tích báo cáo tài chính
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
IMF Quỹ tiền tệ thế giới
WTO Tổ chức thương mại quốc tế
NSNN Ngân sách nhà nước
NHNN Ngân hàng nhà nước
CSTT Chính sách tiền tệ
TTCK Thị trường chứng khoán
HNX – Index Chỉ số chứng khoán sàn Hà Nội
VNI – Index (HOSE – Index) Chỉ số chứng khoán sàn Tp. Hồ Chí Minh
GTVH Giá trị vốn hoá
SLCP Số lượng cổ phiếu
GTGD Giá trị giao dịch
KLGD Khối lượng giao dịch
NĐT Nhà đầu tư
NĐTNN Nhà đầu tư nước ngoài
BĐS Bất động sản
CTCP Công ty cổ phần
HĐQT Hội đồng quản trị
BGĐ Ban giám đốc
BKS Ban kiểm soát
FSC Forest Stewardship Council
SLCPLHBQ Số lượng cổ phiếu lưu hành bình quân
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
1
Phân tích báo cáo tài chính
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường Bất động sản Việt Nam tuy mới hình thành trong những năm gần đây,
nhưng đã có những bước phát triển cực kỳ ấn tượng. Nhiều dự án mới trong lĩnh vực sản
xuất kinh doanh, nhà ở, khu công nghiệp, công trình xây dựng, dịch vụ công cộng..đã được đầu


tư xây dựng với quy mô hàng ngàn tỷ đồng góp phần không nhỏ trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời thúc đẩy kinh tế - xã hội của
đất nước phát triển với nhịp độ tương đối cao và ổn định.
Công ty Cổ Phần Hoàng Anh Gia Lai là công ty bất động sản có quy mô vốn điều lệ lớn
nhất hiện nay với 23 dự án đang triển khai và quỹ đất hơn 2.5 triệu m
2
. Với hoạt động kinh doanh
đa ngành nghề, trong rung hạn lấy bất động sản la mảng mang lại doanh thu chính. Trong dài hạn,
khoáng sản và thuỷ điện với các dự án đang được triển khai sẽ đóng góp một tỷ trọng lớn vào cơ
cấu doanh thu, lợi nhuận của HAG trong những năm tới. Thêm vào đó, công ty có một ban lãnh
đạo có tầm nhìn rộng và giàu tâm huyết, và thương hiệu của công ty cũng được nhiều người biết
đến qua hàng loạt các sự kiện đình đám như: Chủ tích tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai Đoàn Nguyên
Đức mua phi cơ riêng, thành lập câu lạc bộ bóng đá Hoàng Anh Gia Lai,....
Vì vậy, nhóm tiểu luận chọn mã cổ phiếu HAG của công ty Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai để làm
bài phân tích báo cáo tài chính. Nội dung tiểu luận được chia làm 4 phần chính:
PHẦN I: TỔNG QUAN TÌNH HÌN KINH TẾ
PHẦN II: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM NĂM 2009
PHẦN III: THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN
PHẦN IV: CÔNG TY CỔ PHẦN HOÀNG ANH GIA LAI
Và cuối cùng là phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo.
Nhóm tiểu luận cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Ths. Nguyễn Đỗ Quyên đã giúp
đỡ chúng em rất nhiều trong việc hoàn thành bài tiểu luận.
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
2
Phân tích báo cáo tài chính
PHẦN I: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH KINH TẾ
1.1. Kinh tế thế giới
1.1.1. Diễn biến chính trong năm 2009
Năm 2009 đã khép lại với nhiều biến động kinh tế trên phạm vi toàn cầu, 1 năm được khởi đầu
với không khí bi quan bao trùm bởi những lo ngại đến từ cuộc khủng hoảng được coi là sâu và

rộng nhất từ sau Đại khủng hoảng 1929-1933.
Những kế hoạch kích cầu lớn chưa từng có, sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế trong việc
đưa ra những giải pháp can thiệp mạnh tay nhằm trợ giúp nền kinh tế vượt qua suy thoái, các nền
kinh tế hàng đầu thế giới bắt đầu tăng trưởng trở lại, những vụ phá sản lớn, nỗi lo khủng hoảng
nợ... là những câu chuyện cần điểm qua về kinh tế thế giới trong năm 2009 này.
Để có cái nhìn khái quát về diễn biến kinh tế thế giới trong năm 2009, có thể chia thành 2 giai
đoạn chính:
Giai đoạn trượt dốc: nền kinh tế thế giới trượt dốc mạnh trong quý I/2009 và tạo đáy trong
quý II/2009
Các nền kinh tế lún sâu vào suy thoái, trong đó Hoa Kỳ, Nhật Bản và khu vực đồng tiền
chung EURO có mức sụt giảm nặng nề nhất. Làn sóng phá sản dâng cao, thị trường lao động bao
trùm 1 màu xám ảm đạm. Các chỉ số công nghiệp, tiêu dùng, bán lẻ, chứng khoán, bất động sản
lần lượt ghi nhận những mức thấp kỉ lục. Kim ngạch thương mại toàn cầu giảm 33% trong quý II
so với cùng kì năm 2008.
Giai đoạn này cũng chứng kiến việc triển khai các biện pháp can thiệp tích cực của các chính
phủ trong một nỗ lực ngăn chặn và hạn chế các tác hại của khủng hoảng: sự kết hợp các chính
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
3
Phân tích báo cáo tài chính
sách tiền tệ nới lỏng, cắt giảm đáng kể lãi suất cho vay, thi hành các gói kích thích kinh tế quy mô
lớn.
+) Chính sách tài khóa.
Bảng 1 thống kê các gói kích thích kinh tế của 55 nước đưa ra vào cuối năm 2008 và đầu năm
2009 với tổng số lên đến 2,6 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 4,7% GDP của các nước này. Độ lớn
của gói kích thích kinh tế của các nước dao động từ 0,5% đến 15% GDP.
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
4
Phân tích báo cáo tài chính
Bảng 1: Các gói kích thích của 55 nước giai đoạn cuối năm 2008 đầu năm 2009
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai

5
Phân tích báo cáo tài chính
+) Chính sách tiền tệ
Trước bối cảnh suy thoái kinh tế, ngân hàng trung ương của hầu hết các nước đều tiến hành
chính sách giảm lãi suất, một số ngân hàng trung ương của các nước phát triển đã cắt giảm lãi suất
đến gần mức 0%. Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED), ngân hàng Nhật Bản (BOJ), ngân hàng Anh,
ngân hàng Canada và ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) đã cắt giảm lãi suất xuống mức thấp
lịch sử.

Hình 1: Diễn biến lãi suất cơ bản của FED 2007-2009
Nguồn: Cục dữ trữ Liên bang Mỹ (FED)
Những tín hiệu phục hồi của kinh tế thế giới bắt đầu xuất hiện trong quý II/2009 và ngày
càng rõ rệt trong hai quý cuối năm, tuy nhiên sự phục hồi còn rất mong manh.
Những biện pháp kích thích kinh tế của nhiều quốc gia bắt đầu phát huy tác dụng. Kể từ đầu
quý III, những tín hiệu lạc quan hơn về kinh tế thế giới đã liên tục được ghi nhận.
Theo tính toán của các chuyên gia Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), tốc độ tăng trưởng GDP năm
2009 của cả thế giới chỉ bị giảm 1,1%, trong đó của các nước phát triển bị giảm 3,4%, còn nhóm
các thị trường đang lên và các nước đang phát triển ước tính tăng 1,7% so với năm 2008. So với
mức dự báo của IMF vào tháng 7-2009, mức dự báo hiện tại về tốc độ tăng trưởng GDP thế giới
đã được cải thiện 0,3%. Hơn nữa, theo dự báo dài hạn, kinh tế thế giới sẽ đạt tốc độ tăng trưởng
dương ở mức 3,1% vào năm 2010 và tiếp tục tăng trong những năm sau đó.
Cùng với sự phục hồi của kinh tế thế giới, nhu cầu của các thị trường có xu hướng tăng trở lại,
thị trường chứng khoán và hàng hóa toàn cầu cũng khởi sắc. Theo số liệu do tạp chí Business
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
6
Phân tích báo cáo tài chính
Week cung cấp, trong 11 tháng đầu năm 2009, các loại trái phiếu có định mức tín nhiệm thấp trên
thế giới đem đến cho giới đầu tư tỷ lệ lợi nhuận 58%, tiếp đó là thị trường hàng hóa với mức lợi
nhuận 36%, vàng (34%), chứng khoán (29%), trái phiếu doanh nghiệp hạng đầu tư (23%), và trái
phiếu chính phủ (8%).

Nền kinh tế đang được cải thiện nhưng còn rất mong manh.
Nền kinh tế thế giới đang dần hồi phục sau cơn bão lớn. Tuy nhiên, giai đoạn này vẫn được coi
là chưa bền vững khi những khó khăn còn chồng chất và nguy cơ kinh tế toàn cầu có thể rơi vào
một cuộc khủng hoảng kép là chưa thể loại bỏ. Tốc độ hồi phục chậm, sự phục hồi còn rất mong
manh, dễ tổn thương và chứa đựng nhiều rủi ro do phụ thuộc vào các gói kích thích của các nền
kinh tế lớn. Kinh tế thế giới đang phải đương đầu với những thách thức sau khủng hoảng:
1. Các chương trình kích thích kinh tế đang dần hết hạn và được các chính phủ rút lại, trong
khi hệ thống ngân hàng tài chính vẫn bị tổn thương, thất nghiệp ở mức cao.
2. Thế giới vẫn đang phải đối mặt với tình trạng nợ quốc gia tăng cao ở nhiều nước: đổ vỡ
tín dụng ở Dubai, khủng hoảng nợ Hy Lạp, nguy cơ tiếp theo tại Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Italia...
3. Nguy cơ hình thành bong bóng tài sản ở một số thị trường mới nổi như Trung Quốc, biểu
hiện đầu tiên là giá tài sản hay nguyên liệu, tất cả đều có xu hướng tăng lên trên thị
trường thế giới. Đó là những thách thức lớn đe dọa tiến trình hồi phục kinh tế hậu khủng
hoảng.
1.1.2. Xu thế kinh tế thế giới năm 2010
Kinh tế Thế giới sẽ tiếp tục phục hồi với tốc độ chậm. Châu Á đang phát triển sẽ là đầu tàu
kéo Thế giới khỏi khủng hoảng.
Theo Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), kinh tế thế giới năm 2010 sẽ tăng trưởng 3,1%, cao hơn so với
mức 1,1% của năm 2009, song vẫn thấp hơn nhiều so với các năm trước. Còn theo dự báo của
Liên hiệp quốc thì năm 2010, nền kinh tế thế giới có thể đạt mức tăng trưởng 2,4%, tuy nhiên sự
phục hồi này còn rất mong manh.
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
7
Phân tích báo cáo tài chính
Ở các nước đang phát triển, tăng trưởng kinh tế dự báo sẽ phục hồi với tốc độ cao hơn và
đạt khoảng 5,3% trong năm 2010, thấp hơn mức tăng trưởng trước thời kỳ khủng hoảng (bình
quân khoảng 7%). Một số nước đang phát triển sẽ phục hồi sớm hơn các nước khác. Kích thích tài
chính và phục hồi thương mại và sản xuất sẽ thúc đẩy tăng trưởng ở châu Á. Các nền kinh tế
chuyển đổi cũng có sự phục hồi sau khi giảm sút mạnh trong năm 2009. Tăng trưởng của các

nước này dự báo sẽ đạt 1,6%, một sự phục hồi yếu. Tốc độ tăng trưởng chung của châu Á (ngoại
trừ Nhật Bản) có thể đạt 7,1%. Châu Mỹ Latinh, Trung Đông và châu Phi có thể tăng trưởng trong
khoảng 3 - 4%. Trong khi đó, các nền kinh tế mới nổi ở châu Âu may ra chỉ tăng trưởng 1,7%.
Trật tự kinh tế mới đang hình thành với sự tham gia ngày càng tích cực của các nền kinh tế
mới phát triển.
Trật tự kinh tế mới đang hình thành theo hướng tăng cường tầm ảnh hưởng của các nền kinh tế
mới, có tốc độ tăng trưởng nhanh, dẫn đầu là nhóm BRICs song song với giảm dần vai trò của các
cường quốc kinh tế đương thời (nhóm G7)
Thế giới đang phải đối mặt với những nguy cơ tiềm ẩn mới: Thâm hụt ngân sách, nợ công và
bong bóng tài sản.
Gói kích thích kinh tế được thực hiện ở các nước trên thế giới năm 2009 bên cạnh những mặt
tích cực cũng tạo ra nhưng tiêu cực, đó là làm gia tăng nợ và thâm hụt ngân sách. IMF dự báo
thâm hụt ngân sách ở các nước EU sẽ đạt đến 6,5% GDP trong năm 2010. Thâm hụt ngân sách dự
báo sẽ lên đến 10,3% GDP ở Nhật Bản, 11,6% ở Anh và trên 10% ở Mỹ. Ở các nước đang phát
triển, thâm hụt ngân sách sẽ tiếp tuc tăng khoảng từ 3-5% GDP. Và dư địa cho tiếp tục gói kích
kinh tế ở các nước đang phát triển là rất hạn chế trừ khi các nước này tiếp cận được các nguồn tài
chính từ bên ngoài.
Lạm phát không phải là vấn đề ngắn hạn
Lạm phát dự đoán vẫn sẽ ở mức thấp trong năm 2010 mặc dù nhiều nước tiếp tục nới lỏng
chính sách tiền tệ. Sức ép tăng chi phí cũng sẽ không cao. Với sự phục hồi yếu của nhu cầu sẽ hạn
chế sự gia tăng tiếp theo của giá cả hàng hóa cơ bản, trong khi tỷ lệ thất nghiệp leo thang và
những nỗ lực của các doanh nghiệp để giảm chi phí sản xuất sẽ làm cho áp lực tăng lương giảm
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
8
Phân tích báo cáo tài chính
xuống. Do vậy, sức ép lạm phát xuất phát từ hậu quả của thâm ngụt ngân sách và gia tăng cung
tiền trong thời kỳ khủng hoảng sẽ không phải là vấn đề ngắn hạn mà mà là vấn đề của trung hạn
sau khi nền kinh tế phục hồi. Áp lực lạm phát chỉ có thể xuất hiện ở ở những nước có tốc độ tăng
trưởng kinh tế mạnh mẽ, mà chủ yếu là ở châu Á và những nước định giá thấp đồng nội tệ so với
đôla Mỹ.

Thương mại toàn cầu bị ảnh hưởng nặng nề của suy thoái nhưng sẽ dần cải thiện
Với sự phục hồi yếu của nền kinh tế toàn cầu, thương mại toàn cầu dự báo sẽ tăng
khoảng 5% trong năm 2010. Tuy nhiên, khuynh hướng chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch gia tăng bắt
nguồn từ cuộc khủng hoảng sẽ làm cho môi trường thương mại toàn cầu kém hấp dẫn
1.2. Kinh tế Việt Nam.
1.2.1. Những nét chính năm 2009 và xu thế 2010.
Nhu cầu tiêu thụ trên thế giới giảm sút khiến kinh tế Việt Nam bị tác động nặng nề:
Do đặc thù nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu, khủng hoảng đã khiến doanh nghiệp trong
nước gặp nhiều khó khăn. Bước thăng trầm của nền kinh tế Việt Nam năm 2009 có mối tương
quan chặt chẽ với biến động kinh tế thế giới: quý I sụt giảm sâu, quý II có dấu hiệu phục hồi và
dấu hiệu đó càng rõ nét hơn vào cuối năm.
Gói hỗ trợ kinh tế của Chính phủ đã giúp các doanh nghiệp vượt qua thời kì khó khăn nhất của
khủng hoảng.
Gói giải pháp hỗ trợ kinh tế dung thời điểm của chính phủ, trọng tâm là chương trình hỗ trợ
lãi suất 4% cho các khoản vay ngắn hạn (theo quyết định 131/QĐ-TTg ngày 23/01/2009), hỗ trợ
4% lãi suất cho các khoản vay trung và dài hạn (theo quyết định 443/QĐ-TTg ngày 04/04/2009)
đã đem lại nhiều thành quả, tiếp sức cho doanh nghiệp vượt qua ảnh hưởng của khủng hoảng và
tăng trưởng trở lại. Đây là chính sách đúng đắn và quan trọng nhất năm 2009.
Sang năm 2010, những chính sách mang tính chất “kích thích” kinh tế trên diện rộng của
Chính phủ sẽ được rút lại, thay vào đó là những chính sách hỗ trợ có trọng tâm hơn, với mục tiêu
đẩy nhanh tái cấu trúc và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.
a) Tốc độ tăng trưởng
Tăng trưởng mặc dù suy giảm so với những năm trước, nhưng vẫn ở mức cao so với khu vực và
thế giới, vượt qua mọi dự đoán của các tổ chức quốc tế.
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
9
Phân tích báo cáo tài chính
Năm 2009, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 5,3%, vượt mức dự báo của nhiều tổ chức
quốc tế cũng như mục tiêu 5% được Chính phủ đề ra. Với triển vọng nền kinh tế toàn cầu được
cải thiện, kinh tế trong nước đang phục hồi tốt, việc hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng 6,5% được

Quốc hội và Chính phủ đề ra cho năm 2010 theo chúng tôi là tương đối khả thi.
b) Tỷ lệ thất nghiệp
Ngày 19/1, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho biết tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực
thành thị của Việt Nam năm 2009 là 4,66%. Đây là tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi từ 15 - 60 đối
với nam và 15 - 55 đối với nữ.
Năm 2009, tỷ lệ thiếu việc làm của Việt Nam ở mức 5,1%. Đáng chú ý, tỷ lệ thiếu việc làm
ở nông thôn lên tới 6,1%, còn khu vực thành thị là 2,3%.
c) Lạm phát
Kiềm chế lạm phát dưới 7% là một thành công trong điều hành kinh tế Việt Nam 2009
Lạm phát được giữ ở mức thấp năm 2009, trung bình ở mức 6,88%, hoàn thành mục tiêu
kiềm chế lạm phát dưới 7% của Chính phủ.
Nhiệm vụ kiềm chế lạm phát năm 2010 hết sức khó khăn do những nguyên nhân bên ngoài và bên
trong nền kinh tế.
Lạm phát do cầu kéo: Những năm gần đây, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Đặc biệt,
các chương trình kích thích tiêu dùng, an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, lộ trình tăng lương cơ
bản tiếp tục được Chính phủ triển khai trong năm 2010 sẽ góp phần đáng kể làm tăng sức mua của
người dân. Chính sách tài khóa của Chính phủ mặc dù sẽ được thắt chặt so với năm 2009, nhưng
kế hoạch chi tiêu được đưa ra vẫn ở mức cao với thâm hụt ngân sách dự tính khoảng 6,2% GDP.
Nhu cầu đầu vào cho hoạt động sản xuất, kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Đây là những yếu tố
làm tăng tổng cầu của nền kinh tế trong năm 2010, dẫn tới nguy cơ đẩy lạm pát lên cao.
Lạm phát do chi phí đẩy: Kể từ cuối năm 2009, giá các mặt hang nhiên liệu, nguyên liệu trên
thế giới có dấu hiệu tăng và dự báo sẽ tiếp tục tăng trong năm 2010. Hàng năm, Việt Nam phải
nhập một lượng lớn xăng dầu, nguyên liệu, máy móc phục vụ sản xuất, khi giá các mặt hang này
tăng sẽ đẩy chi phí đầu vào của sản xuất tăng lên. Ngoài ra, lộ trình tăng lương, phí bảo hiểm y tế,
giá điện, nước, than… được triển khia trong năm 2010 sẽ làm tăng đáng kể chi phí của doanh
nghiệp, từ đó tác động lên lạm phát.
Lạm phát trở thành một trong những mối quan ngại lớn nhất đối với nền kinh tế Việt Nam
năm 2010.
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
10

Phân tích báo cáo tài chính
Thông diệp đầu năm 2010 của Chính phủ đã khẳng định mục tiêu ổn định vĩ mô, phát triển bền
vững được ưu iên hang đầu, lạm phát kiềm chế ở mức chấp nhận được để đảm bảo tăng trưởng
bền vững. Về cơ bản, chúng tôi nhận định lạm phát năm 2010 sẽ cao hơn năm 2009 nhưng vẫn ở
mức an toàn dưới 10%.
d) Chính sách tài khóa của Chính phủ.
2009 – một năm vất vả đối với những người hoạch định chính sách.
Năm 2009 là năm rất khó khăn đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và ngành Tài chính nói
riêng, khi mà nền kinh tế vừa trải qua nhiệm vụ chống lạm phát trong năm 2008, lại phải đối mặt
với những khó khăn do suy giảm từ kinh tế toàn cầu vào cuối năm 2008 - đầu năm 2009, cộng với
những diễn biến phức tạp của thiên tai, lũ lụt và dịch bệnh…
Điểm nổi bật của năm là đã đề xuất để sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế, chính sách để triển khai
có hiệu quả các giải pháp của Chính phủ, trong đó có chính sách miễn, giảm, giãn thuế đã tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có thêm lực phát triển sản xuất-kinh doanh; đồng thời thực
hiện bảo lãnh tín dụng giúp các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư phát triển, cơ cấu lại sản xuất.
Theo tính toán cả năm, tổng số thuế miễn, giảm, giãn khoảng 20.000 tỷ đồng; đồng thời đã tiếp
tục rà soát để bãi bỏ khoảng 140 tỷ đồng các khoản phí và lệ phí khác.
Kết quả là doanh nghiệp có điều kiện phát triển kinh doanh, mở rộng sản xuất, góp phần
ngăn chặn được suy giảm kinh tế. GDP tăng trưởng nhanh và cao hơn dự báo. Cả năm đạt 5,32%
(dự báo là 5%), riêng quý IV/2009 tăng trưởng đạt 6,9%.
Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn cho rằng: Mặc dù thu NSNN năm 2009 đạt được kết quả
tích cực, nhưng tình trạng thất thu, nợ đọng thuế vẫn còn; việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
trong chi tiêu NSNN còn thấp so với tiềm năng và yêu cầu, nhất là trong các lĩnh vực đầu tư xây
dựng cơ bản, quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng đất; công tác kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các chính sách tài khóa vẫn chưa đạt như mong muốn.
Chính sách tài khóa nào cho Việt Nam trong năm 2010?
Trọng tâm ngắn hạn của chính sách tài khóa là giữ vững mức động viên vào NSNN
khoảng 1/4 GDP - không giảm nhưng cũng không được tăng để không tăng thêm gánh nặng huy
động vào NSNN. Bên cạnh đó, giảm tối thiểu và tiến tới xóa bỏ sự phân biệt thành phần kinh tế
trong thực hiện nghĩa vụ thu nộp NSNN; giảm mức độ thâm hụt NSNN trong lộ trình tiến tới cân

bằng cán cân NSNN dài hạn. Nếu chính sách tài khoán nên "trung tính" trong ngắn hạn và chủ
động thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế trong trung dài hạn, thì chính sách tiền tệ trở thành công cụ
chính sách then chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
11
Phân tích báo cáo tài chính
e) Chính sách tiền tệ của Chính phủ.
2009 – Khó khăn đã vượt qua
NHNN đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để
giữ bình ổn thị trường.
Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị trường
ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu,
lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.
Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều
chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển
sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu
ngoại tệ trở nên căng thẳng.
Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai quyết liệt nhiều
giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại
từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều
tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng
thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hoà ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên
ngân hàng
Đồng thời, trình Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ thu được từ
phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp nhập khẩu lớn chuyển từ
mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương trong việc kiểm soát
nhập siêu và đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của nền kinh tế.
Các biện pháp chấn chỉnh hoạt động ngoại hối cũng được tăng cường như phối hợp với
các bộ, ngành kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các hành vi quảng cáo, niêm yết giá hàng hóa bằng
ngoại tệ, mua, bán ngoại tệ trái phép; tăng cường kiểm tra hoạt động mua bán ngoại tệ của các

ngân hàng thương mại và hoạt động của các đại lý đổi ngoại tệ, xử lý nghiêm các vi phạm.
Đặc biệt, áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh
nghiệp và người dân như đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai, rộng rãi các
thông tin về tình hình ngoại hối, tỷ giá; yêu cầu các NHTM nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy
động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ
ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy
động giảm xuống mức không quá l,5%/năm kể từ ngày 01/6/2009)
Đồng thời đề nghị Hiệp hội Ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận giảm lãi
suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ như các NHTM nhà nước kể từ ngày 8/6/2009. Các biện
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
12
Phân tích báo cáo tài chính
pháp trên đã có tác động giảm áp lực thiếu cung ngoại tệ trên thị trường, giữ được thị trường ổn
định.
Chính sách tiền tệ năm 2010: Siết chặt sau nới lỏng!
Không hẳn phải chờ đến những ngày cuối cùng trong năm mới dò đoán được phương
hướng chủ đạo trong các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN cho năm 2010. Ngay
từ những tháng cuối năm 2009, những biện pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN bắt đầu
cho thấy dấu hiệu chuyển dần từ nới lỏng sang chính sách thắt chặt.
Trong lúc thực hiện mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu tăng
trưởng kinh tế và định hướng tăng trưởng tín dụng của hệ thống, NHNN cũng yêu cầu hệ thống
TCTD không được hạ thấp các điều kiện cho vay và kiểm soát chặt chẽ vốn cho vay lĩnh vực phi
sản xuất. Việc đáp ứng các nhu cầu vốn phục vụ kinh doanh bất động sản, đầu tư chứng khoán
hay cho vay tiêu dùng, kinh doanh theo đó sẽ bị kiểm soát chặt chẽ hơn trong thời gian tới.
Điều chỉnh giảm các chỉ tiêu tăng trưởng, từ mức 28,7% tăng tổng phương tiện thanh toán
và 37,73% tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế đến cuối năm 2009 xuống chỉ còn 25% trong
năm 2010 cho thấy quyết tâm rõ rệt và cụ thể nhất của NHNN.
Cán cân thương mại
Cán cân thương mại thâm hụt trong năm 2009, đặc biệt trong những tháng cuối năm.
Trong quý I/2009, Việt Nam đã có thặng dư thương mại nhưng phần lớn do xuất khẩu

vàng tăng đột biến trong 2 tháng đầu năm, nếu loại bỏ yếu tố này, thực tế Việt Nam vẫn nhập
siêu.Từ quý II, nhập siêu tăng dần và tính đến hết tháng 12, Việt Nam ghi nhận mức thâm hụt
thương mại cả năm lên tới 12,2 tỷ USD.
Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 giảm lần đầu tiên kể từ năm 1986, chỉ đạt 56,7 tỷ USD; giảm
9,7% so với năm 2008. Kim ngạch xuất khẩu giảm chủ yếu do mặt bằng giảm giá, nếu xét về
lượng, xuất khẩu năm nay vẫn tăng so với năm 2008.
Năm 2010, xuất khẩu có nhiều thuận lợi và thách thức:
Thuận lợi:
- Nhu cầu từ các thị trường xuất khẩu truyền thống như Hoa Kì, châu Âu, Nhật bản sẽ
tăng theo đà phục hồi của các quốc gia này.
- Các hiệp định tự do thương mại AANZFTA, AJCEP, Asean – Trung Quốc có hiệu lực
sẽ mở ra những cơ hội lớn để doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa thị trường tiêu thụ
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
13
Phân tích báo cáo tài chính
- Mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu vẫn được áp dụng cho nền kinh tế Việt Nam
trong những năm tới, do đó hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ xuất khẩu sẽ tiếp
tục nhận được sự hỗ trợ từ phía Chính phủ.
Khó khăn:
- Kinh tế thế giới được đánh giá là sẽ phục hồi chậm trong năm 2010 sẽ ảnh hưởng bất
lợi đến xuất khẩu.
- Giá nhiên liệu, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, nhân công có xu hướng tăng nhanh,
đẩy chi phí đầu vào, ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hang hóa xuất khẩu.
- Xu hướng bảo hộ thương mại tăng lên, đặc biệt Mĩ và EU gây khó khăn cho hang hóa
của Việt Nam vào các thị trường này.
- Tại thị trường trong nước, do các biện pháp bảo hộ thương mại sẽ dần được dỡ bỏ theo
lộ trình đã cam kết khi gia nhập WTO, hang hóa Việt Nam sẽ bị cạnh tranh mạnh mẽ
hơn bởi hang hóa nhập khẩu từ nước ngoài.
- Khả năng cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam còn yếu, giá trị gia tăng

đem lại ít do phần lớn là sản phẩm gia công và nguyên vật liệu thô
Xét trong bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới đang phục hồi , chúng tôi cho rằng dù phải
đối mặt với những khó khăn nhất định nhưng triển vọng xuất khẩu của Việt Nam năm 2010 sẽ
tương đối khả quan với kim ngạch tăng trưởng khoảng 6% năm 2010.
Nhập khẩu.
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
14
Phân tích báo cáo tài chính
Hình 2: Cơ cấu xuất khẩu 2009 (Nguồn: PSI)
Trong 6 tháng đầu năm 2009, nhập khẩu giảm tới 80% so với cùng kì năm 2008, nhưng
sau đó đã tăng mạnh trở lại. Tới cuối năm, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 68,7 tỷ USD, giảm
14,7% so với năm 2008. Những sản phẩm nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu, phân bón, nhựa, máy
móc phục vụ sản xuất.
Năm 2010 dự báo nhu cầu tiêu dùng cũng như nguyên vật liệu, xăng dầu phục vụ sản xuất
đều tăng, trong khi mặt bằng giá các sản phẩm này đang nhích lên khiến kim ngạch nhập khẩu sẽ
tăng đáng kể. Mặc dù Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công thương có biện pháp quyết liệt nhằm hạn
chế nhập khẩu, đặc biệt là các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ hoặc những mặt hàng có thể sản xuất
trong nước, theo nhận định của chúng tôi, kim ngạch nhập khẩu vẫn có thể tăng mạnh so với năm
2009.
Thâm hụt thương mại sẽ tiếp tục tăng trong năm 2010.
Một đặc điểm cần lưu ý trong cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam là trên 80% hang hóa
nhập khẩu được dùng phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu. Do đó trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu từ nền sản xuất gia công là chủ yếu sang nền sản xuất dựa trên chất xám. Tạo ra giá trị gia
tăng cao còn diễn ra hết sức chậm chạp thì vấn đề nhập siêu sẽ khó cải thiện trong một sớm một
chiều.
Với những phân tích trên, chúng tôi dự báo nhập siêu năm 2010 của Việt Nam sẽ vào
khoảng 12 – 14 tỷ USD. Nhập siêu lớn là một yếu tố gây ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế Việt
Nam.
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
15

Phân tích báo cáo tài chính
Hình 3: Cơ cấu xuất khẩu 2009 (Nguồn: PSI)
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá trong năm 2010 sẽ ổn định
Tỷ giá hối đoái được giữ ổn định trong quý I, sau đó có xu hướng tăng lên từ tháng 3 sau khi
Ngân hang Nhà nước nới lỏng biên độ giao dịch lên 5%. Thị trường hối đoái trở nên hết sức căng
thẳng vào cuối năm 2009 do hiện tượng khan hiếm Dolar, có thời điểm tỷ giá tại thị trường tự do
đã vượt mức 20.000VNĐ/USD.
Cuối tháng 11, để khai thong thị trường hối đoái, Ngân hang Nhà nước cam kết can thiệp
mạnh bằngquyết định tăng tỷ giá bình quân lien ngân hang lên mức 17.961VNĐ/USD và giảm
biên độ giao dịch cho phép xuống còn 3%, đồng thời phối hợp voeis nhiều biện pháp mạnh khác
như kết hối đã tác động khá tích cực tới thị trường và tới tháng 12, tình hình căng thẳng ngoại tệ
đã dịu xuống.
Chúng tôi đáng giá ngân hang nhà nước sẽ tiếp tục duy trì đồng nội tệ yếu trong năm 2010
để hỗ trợ xuất khẩu. Hiện tượng khan hiếm Dolar sẽ ít có khả năng xảy ra do cán cân thanh toán
sẽ được cải thiện, lượng Dolarnhanf rỗi của người dân vẫn nhiều. Bên cạnh đó, Chính phủ sẽ áp
dụng những biện pháp linh hoạt nhằm ổn định thị trường hối đoái, hạn chế khả năng đồng nội tệ
mất giá quá mạnh hoặc mất kiểm soát về tỷ giá, tránh gây một áp lực mới lên lạm phát và những
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
16
Phân tích báo cáo tài chính
bất ổn vĩ mô kèm theo. Tỷ giá bình quân lien ngân hang trong năm 2010 sẽ tăng ổn định trong
khoảng từ 17.500 đến 18.000VNĐ/USD.
Tín dụng
Tín dụng tăng nóng. Cuối năm 2009, ngân hang thiếu thanh khoản.
Tăng trưởng tín dụng cuối năm 2009 vượt xa so với mục tiêu ban đầu đề ra là khoảng 25%.
Tới cuối tháng 12/2009, tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống ngân hang đã lên tới 37,7%.
Hệ quả của việc tăng trưởng tín dụng quá nóng trong khi huy động vốn khó khăn đã dẫn tới
nguy cơ về thanh khoản của hệ thống ngân hang vào cuối năm trở nên căng thẳng. Ngân hang Nhà
nước đã triển khai nhiều biện pháp để giait tỏa những căng thảng này. Tới cuối năm 2009, tăng

trưởng tín dụng đã dịu bớt nhưng thanh khoản của ngân hang vẫn chưa được cải thiện nhiều.Sang
năm 2010, Ngân hang Nhà nước đã đề ra mục tiêu kiềm chế tăng trưởng tín dụng cả năm ở mức
25%. Đay là quyết tâm đúng đắn nhằm giữ cho nền kinh tế ổn định, tuy nhiên hoạt động tín dụng
của các ngân hang có thể bị ảnh hưởng đáng kể, từ đó tác động tiêu cực lên doanh nghiệp.
Lãi suất cơ bản dự báo sẽ được nâng lên trong năm nay; thời điểm và mức đọ phụ thuộc vào
các yếu tố như lạm phát, nhu cầu tín dụng của nền kinh tế và tốc đọ phục hồi của doanh nghiệp.
Đầu tư nước ngoài:
Đầu tư nước ngoài sẽ khả quan trong năm 2010 nhờ triển vọng và tính hấp dẫn của thị trường
Việt Nam.

Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
17
Phân tích báo cáo tài chính
Hình 4: Cơ cấu FDI theo quốc gia năm 2009 (Nguồn: PSI)
Hình 5: Cơ cấu FDI theo lĩnh vực năm 2009
(Nguồn: PSI)
Không nằm ngoài bối cảnh chung của thế giới, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
trong năm 2009 đã giảm mạnh so với năm 2008, tính tới cuối năm, tổng vốn FDI đạt khoảng
21,48 tỷ USD, chỉ bằng 30% so với năm 2008, tuy nhiên cả năm đã giải ngân được 10 tỷ USD.
Kết quả này được đánh giá là tương đối khả quan trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khủng hoảng.
Vốn đầu tư FDI cũng giảm mạnh vào đầu năm 2009 do khủng hoảng tài chính khiến các công ty
đầu tư rút vốn tại Việt Nam, tuy nhiên vào nửa sau của năm, dòng vốn này đã bắt đầu quay trở lại
Việt Nam nhờ thị trường Việt Nam trở nên hấp dẫn đầu tư hơn.
Triển vọng phát triển của Việt Nam năm 2010 được đánh giá khá khả qua nên nhiều khả
năng các dòng vốn đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục được cải thiện.
Cán cân thanh toán
Thâm hụt cán cân thanh toán sẽ được cải thiện trong năm 2010.
Trong năm 2009, cán cân thanh toán bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố do khủng hoảng, tuy
nhiên mức thâm hụt không lớn như những dự báo trước đó. Tổng vốn ODA trong năm đạt 5,85 tỷ
USD, trong đó giải ngân được 2,5 tỷ USD, vốn FDI đạt khoảng 21,48 tỷ USD, giải ngân vốn FDI

Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
18
Phân tích báo cáo tài chính
đạt 10 tỷ USD, kiều hối ước tính đạt 6,8 tỷ USD (trong khi dự báo trước đó chỉ đạt 5,8 tỷ USD).
Theo nhận định của chúng tôi, cán cân thanh toán của Việt Nam vẫn trong ngưỡng an toàn.
Sang năm 2010, mặc dù thâm hụt thương mại nhiều khả năng sẽ trầm trọng hơn, nhưng cán
cân thanh toán sẽ tiếp tục được cải thiện nhờ sự cải thiện đáng kể của nguồn vốn ODA cam kết
lên tới 8 tỷ USD và đầu tư nước ngoài sẽ khả quan hơn.
Nhìn chung, năm 2009 đánh giá nhiều thành công của Việt Nam trên phương diện quản lí,
điều hành vĩ mô, kết quả thể hiện ở những con số hết sức ấn tượng về tăng trưởng, kiềm chế lạm
phát.
Tuy nhiên vẫn nổi cộm lên ban guy cơ lớn của nền kinh tế, đó là thâm hụt thương mại;
thâm hụt ngân sách; nguy cơ lạm phát thường trực. Đây là nguy cơ thực tế và xét trên nhiều góc
độ, mang tính hệ thống, gắn liền với cơ cấu và mô hình phát triển của nền kinh tế hiện nay. Những
nguy cơ này sẽ tác động tiêu cực, cản trở sự phát triển ổn định của nền kinh tế trong giai đoạn tiếp
theo.
Một trong những giải pháp cần thiết để khắc phục những nguy cơ này là tích cực đẩy mạnh
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên kinh tế tri
thức, tạo ra sản phẩm và dịch vụ có sức cạnh tranh, giá trị gia tăng cao.
Các kịch bản kinh tế chính trong năm 2010.
Dựa trên đánh giá các sự kiện trong và ngoài nước trong năm 2010, chúng tôi đưa ra hai
kịch bản chính cho nền kinh tế Việt Nam.
Kịch bản một dựa trên cơ sở những thuận lợi khách quan và chủ quan tác động tới nền
kinh tế Việt Nam, có tính tới những chỉ tiêu được Chính phủ đề ra và quyết tâm thực hiện theo
chủ trương chung đã được Thủ tướng nhấn mạnh là giữ ổn định kinh tế và phát triển bền vững.
Kịch bản hai phần lạc quan hơn khi nền kinh tế tăng trưởng quá nóng. Thâm hụt thương
maijcos thể lên trên 14 tỷ USD, tăng trưởng tín dụng trên 30%, khiến việc kiềm chế lạm phát trở
nên khó khăn. Lạm phát trong năm có thể lên mức 10% - 15%, gây mất ổn định cho nền kinh tế.
Các chỉ tiêu chính Kịch bản một Kịch bản hai
Tăng trưởng GDP 6% - 7% 7% - 8%

Lạm phát 7% - 10% 10% – 15%
Thâm hụt ngân sách 6% - 6,5% GDP 6% - 6,5%
Thâm hụt thương mại 12 – 14 tỷ USD Trên 14 tỷ USD
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
19
Phân tích báo cáo tài chính
Tăng trưởng tín dụng 25% 30% - 40%

Nhóm phân tích cho rằng trong năm 2010 kinh tế Việt Nam sẽ đạt được những mục tiêu về
tăng trưởng ỏn định theo kịch bản thứ nhất. Tuy nhiên chúng tôi vẫn để ngỏ khả năng, tuy không
lớn, về một kịch bản thận trọng hơn khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhưng phải đối mặt với
những rủi ro lớn về lạm phát, tăng trưởng tín dụng nóng, đặc biệt với những điều kiện trong và
ngoài nước được dự báo sẽ diễn biến hết sức phức tạp trong năm 2010.
PHẦN II: TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán Việt Nam khép lại một năm đầy thử thách và thành công với nhiều biến
động lớn. Chỉ số chứng khoán Vn Index từ 315.68 điểm cuối năm 2008 giảm xuống thấp nhất
trong vòng 4 năm với mức điểm chỉ còn 235.5 rồi tăng lên 624.1 điểm và lại giảm xuống 434.87
điểm vào dịp cuối năm.
Một số diễn biến chính của thị trường cổ phiếu trong năm 2009.
- Sự đảo chiều liên tục của chỉ số chứng khoán:
Năm 2009 đã để lại những dấu ấn quan trọng trong lịch sử 9 năm phát triển của TTCK. Những
kỷ lục mới, cột mốc quan trọng đã lần lượt được thiết lập: phiên giao dịch ngày 24-2, VN-Index
đã rơi xuống mức đáy 235,5 điểm, HNX-Index lùi về dưới mốc 100 điểm khi xuống mức thấp
nhất trong lịch sử là 78,06 điểm. Tuy nhiên, bước sang tháng 3-2009, các nhà đầu tư (NĐT) đã lấy
lại được niềm tin khi TTCK có một tháng tăng điểm ấn tượng nhất kể từ tháng 11-2008: VN-
Index không chỉ khởi sắc về điểm số mà khối lượng giao dịch cũng tăng mạnh. Tính đến hết ngày
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
20
Phân tích báo cáo tài chính

30-6, VN-Index đã tăng 132,67 điểm (42,03%), HNX-Index tăng 44,57 điểm (42,66%) so với thời
điểm kết thúc năm 2008. Đây là một bước tiến dài của TTCK trong nước khi VN-Index đã đạt tốc
độ tăng lớn thứ 8 trong tổng số 89 chỉ số chứng khoán quan trọng trên thế giới khi tăng được 46%
so với thời điểm đầu năm 2009. Kỷ lục về khối lượng giao dịch tại sàn HOSE được thiết lập vào
ngày 10-6 với 101.774.520 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được chuyển nhượng, con số tương tự tại
HNX là 56.522.170 cổ phiếu.
Từ tháng 8 đến tháng 10, TTCK lại tiếp tục đợt tăng giá thứ hai đầy mạnh mẽ với nhiều
kỷ lục về giá trị và khối lượng giao dịch kỷ lục được xác lập. Ngày 22-10, TTCK vươn tới đỉnh
điểm của đợt sóng thứ 2 là mức 624,10 điểm. Đây cũng là mức cao nhất của thị trường sau 394
phiên giao dịch kể từ ngày 14-3-2008. Trong khoảng thời gian này, thanh khoản liên tục đạt kỷ lục
trên cả hai sàn. Đối với sàn HOSE, phiên giao dịch ngày 23-10 được coi là "siêu thanh khoản" khi
lập kỷ lục cao nhất từ trước đến nay cả về khối lượng và giá trị giao dịch với hơn 136 triệu đơn vị
được chuyển nhượng, tương ứng giá trị giao dịch lên đến 6,414 nghìn tỷ đồng; sàn HNX đạt kỷ
lục với hơn 67,23 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng cùng 3,04 nghìn tỷ đồng được giải ngân.
TTCK tăng trưởng mạnh mẽ, nằm ngoài dự đoán của giới chuyên gia và trở thành điểm sáng ấn
tượng khi có tốc độ phục hồi nhanh nhất châu Á.
Hình 6: Biểu đồ HNX – Index năm 2009
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
21
Phân tích báo cáo tài chính
Hình 7: Biểu đồ VN – Index năm 2009
(Nguồn: Nhóm tiểu luận vẽ trên phần mềm metastock)
Sự thay đổi về lượng và chất của các cổ phiếu được niêm yết.
Quy mô thị trường chứng khoán được mở rộng, chỉ trong vòng một năm, số lượng cổ phiếu niêm
yết đã tăng đáng lên đáng kể. Tính đến cuối năm 2009, số lượng cổ phiếu niêm yết trên cả hai sàn
Hà Nội (HNX) và Thành phô Hồ Chí Minh (HSX) đã lên con số 457. Trong đó, 200 mã chứng
khoán được niêm yết tại sàn HSX gồm cả 50 mã niêm yết mới và chuyển sàn, số mã chứng khoán
trên sàn HNX là 257 mã đã gồm 94 mã niêm yết mới và chuyển sàn. Như vậy, tính chung cả năm
2009 đã có 144 mã niêm yết mới.
Chỉ tiêu 2007 2008 2009

SLCP niêm yết 6,007,183,979 8,507,352,818 14,012,245,526
SLCP tăng thêm 2,893,728,639 2,651,313,556 5,604,010,168
KLGD 2,426,317,101 4,509,147,588 16,162,527,334
GTGD (tỷ đồng) 281,258 181,698 619,818
GTVH thị trường (tỷ đồng) 500,146 219,775 623,954
P/E thị trường 27.71 11.80 16.68
KLGD của NĐTNN 680,401,499 998,587,488 1,713,984,730
GTGD của NĐTNN (tỷ
đồng)
90,703 49,359 75,550
Tổng tài sản (tỷ đồng) 356,323 491,386 1,368,783(*)
Vốn chủ sở hữu (tỷ đồng) 114,694 147,998 257,333(*)
Lợi nhuận trước thuế (tỷ 24,266 23,778 0(*)
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
22
Phân tích báo cáo tài chính
đồng)
Lợi nhuận sau thuế (tỷ đồng) 21,728 20,427 29,500(*)
(*): số liệu năm 2009
Bảng 2: Một số chỉ tiêu trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2007 – 2009
(Nguôn: Vietstock.vn)
Thị trường cổ phiếu niêm yết đã có sự thay đổi về chất khi UBCK Nhà nước yêu cầu các
công ty niêm yết không đủ điều kiện niêm yết buộc phải chuyển sàn. Theo đó, những công ty đang
niêm yết tại HSX mà có vốn điều lệ dưới 80 tỷ đồng sẽ phải làm thủ tục chuyển sang niêm yết tịa
HNX như ALT, BPC, DXP, DPC, RHC, SAF, SJ1, CSG…Tính minh bạch trong thông tin được
cải thiện khi UBCK yếu cầu các CTNY phải có báo cáo soát xét định kỳ nửa năm một lần.
Khi thị trường hoạt động hiệu quả, những hiện tượng “làm giá” cổ phiếu trên thị trường sẽ
giảm bớt, giá cổ phiếu sẽ phản ánh các chuyển động kinh tế và tình hình kinh doanh của doanh
nghiệp. Thị trường chứng khoán lúc đó mới thực sự là hàn thứ biểu của nền kinh tế.
Một sự kiện đáng chú ý trên thị trường chứng khoán trong năm qua là việc lần đầu tiên

trong lịch sử chứng khoán việt nam có công ty bị hủy niêm yết. Đó là sự kiện BBT – Bông Bạch
Tuyết do không minh bạch trong công bố thông tin.
Năm 2009 là một năm thuận lợi cho nhiều “đại gia” ngành tài chính ngân hàng, bất động
sản, thủy sản lên sàn như Vietcombank (VCB), Vietinbank (CTG), Eximbank (EIB), Baoviet
Holding (BVH), DIG, VPH, HCM…
2.2. Các nguyên nhân chính giúp thị trường tăng điểm mạnh:
Thứ nhất, nỗ lực không ngừng nhăm vực dậy nền kinh Việt Nam thông qua các gói kích
thích kinh tế đã giúp nền kinh tế Việt Nam thoát ra được khỏi suy giảm, giúp VN- Index tăng
trưởng nhanh. Tốc độ phục hồi của TTCK Việt Nam giai đoạn tháng 7 đến tháng 8 được đánh giá
cao thứ 3 trên thế giới sau chứng khoán Crezech và Thổ Nhĩ Kỳ về mức độ phục hồi.
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
23
Phân tích báo cáo tài chính
Chính phủ đã tung ta gói kích thích kinh tế thứ nhất nhằm phục hồi nền kinh tế, cụ thể là
gói hỗ trợ lãi suất (HTLS) cho vay đầu tư tiêu dùng ngắn hạn áp dụng đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Một số tiền không nhỏ đã được đưa vào nền kinh tế thông qua việc hỗ trợ cho vay đầu
tư của các doanh nghiệp trên sàn, tập trung lại các ngành nông lâm nghiệp, công nghiệp chế biến
thủy sản, ngành xây dựng ( trừ công trình xây dựng văn phòng, cao ốc cho thuê, công trình xây
dựng sửa chữa mua nhà để bán), ngành vận tải kho bãi… Việc thự thi chính sách này cũng gián
tiếp tác động lên thị trường cổ phiếu niêm yết, và thể hiện rõ nhất vào sự phục hồi của thị trường
trong giai đoạn tháng 6, tháng 8. Khi VN index từ mốc đáy được thiết lập hồi cuối tháng 2 tăng
nhanh lên 511.27 điểm (tăng 117.1%). Giai đoạn này tính thanh khoản của thị trường liên tục
được cải thiện qua từng phiên, các dấu hiệu tăng điểm đều và mạnh tại các phiên giao dịch phản
ánh phần nào tâm trạng hưng phấn của nhà đầu tư. Động lực giúp thị trường tăng điểm trong giai
đoạn này đó là mức giá chứng khoán thấp trở nên hấp dẫn trong bối cảnh nền kinh tế phục hồi sau
giai đoạn suy thoái. Vì vậy, trong giai đoạn tăng đầu tiên này, không có dấu hiệu của sự phân hóa
giữa các ngành.
Thứ hai, đòn bẩy tài chính cũng làm cho thị trường chứng khoán sôi động hơn. Ảnh
hưởng cảu đòn bẩy tài chính thực sự rõ nét vào những tháng cuối năm, khi các CTCK cho khách
hàng VIP bán chứng khoán trước ngày T+4 cũng như cho khác hàng vay, cầm cố với tỷ lệ cao như

1:2, 1:5…nhằm hiện thực hoán lợi nhuận, quay vòng vốn nhanh. Tính thanh khoản tăng lên, tạo ra
lượng tiền ảo lớn giao dịch trên thị trường. Khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch đã tăng đột
biến, điển hình là phiên 23/10 đã có hơn 200.72 triệu đơn vị được chuyển nhượng với giá trị
chuyển nhượng trên 9,253.37 tỷ đồng.
Thứ ba, thị trường chịu ảnh hưởng bởi các tin đồn, tin nội gián gây xáo trộn thị trường.
Đặc biệt là những tháng cuối năm, nhiều tin đồn thất thiệt liên quan đến việc tăng lãi suất cơ bản,
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 50% vốn điều lệ, in tiền mệnh giá lớn…đã gây tâm lý hoang mang
cho giới đầu tư và ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường.
Ngoài ba nguyên nhân chính trên còn có một số nguyên nhân khác ảnh hưởng tới thị trường như:
- Sự phục hồi của các chỉ số lớn trên thế giới, đặc biệt là chỉ số Dow Jones của Mỹ tác động tích
cực tới tâm lý NĐT khi lần lượt chinh phục và vượt qua các mốc 9,000 điềm và 10,000 điểm.
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
24
Phân tích báo cáo tài chính
- Kết quả kinh doanh năm 2009 khả quan nhờ chí phí lãi vay giảm thông qua HTLS 4%, một số
ngành có lợi thế mua được nguyên vật liệu đầu vào giá rẻ khi nền knih tế thế giới ở giai đoạn
khủng hoảng như ngành nhựa (NTP, BPM), săm lốp (DRC, CSM), thép (VIS, HPG, HLA); hoàn
nhập dự phòng; đánh giá lại tài sản thông qua góp vốn bằng quyền sử dụng đất (D2D, LCG,
KBC)..,
Dù phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức để khôi phục lại nền kinh tế nói chung
và thị trường chứng khoán nói riêng, chỉ số VN- Index vẫn tăng trưởng 119.75% so với thời điểm
đáy được thiết lập hôm 24/2.Có thể nói thị trường chứng khoán vẫn là một kênh hấp dẫn để đầu
tư.
Năm 2009 đánh dấu là một năm thành công của TTCK Việt Nam, khi dần bước khỏi khủng
hoảng và đang trên con đường phục hồi và phát triển.
2.3. Dự báo thị trường CK năm 2010:
Với đà tăng của năm 2009, năm 2010 nhiều khả năng vẫn là năm tăng trưởng của TTCK
VN tuy nhiên tốc độ tăng sẽ thấp hơn và ổn định hơn năm 2009. Thị trường năm 2010 sẽ không
có những lúc tăng điểm quá mạnh và sau đó là thời gian điều chỉnh quá nhiều.
2.3.1. Xu hướng thị trường năm 2010:

Chúng tôi cho rằng thị trường chứng khoán nửa cuối năm 2010 sẽ thuận lợi hơn nửa đầu năm
2010. Thực tế đã chứng minh quý I và đầu quý II là thời kỳ điều chỉnh tăng lãi suất đi kèm với các
chính sách tài khóa thắt chặt. Cuối quý II có thể là giai đoạn cuối của thời kỳ thắt chặt tiền tệ. Và
2 quý cuối năm 2010 là thời kỳ thuận lợi hơn cho thị trường chứng khoán khi chính sách tiền tệ đã
được nới lỏng hơn. Theo quan điểm này, chúng tôi cho rằng năm 2010 thị trường sẽ không có
nhiều đột biến so với năm 2009. Nửa năm đầu 2010, thi trường nhiều khả năng đi ngang và tăng
ổn định vào 2 quý cuối.
Đặc biệt trong năm 2010, có nhiều sự kiện kinh tế xã hội lớn diễn ra, quan trọng nhất là Đại
hội Đảng các cấp diễn ra từ tháng 6/2010 đến Đại hội Đảng Toàn Quốc lần thức XI vào tháng
1/2011. Đồng thời cuối năm sẽ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long. Do đó, ưu tiên của Nhà nước sẽ
Công ty Cô ̉ phần Hoàng Anh Gia Lai
25

×