Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tư tưởng đức trị của nho giáo khổng mạnh và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.63 KB, 90 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ................................................................ 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ....................................... 6
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn ....................................................... 7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................ 7
6. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 7
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 8
Chương 1: BỐI CẢNH RA ĐỜI VÀ NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU
TRONG TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ CỦA NHO GIÁO KHỔNG – MẠNH ........ 9
1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề tư tưởng cho sự ra đời tư tưởng
Đức trị ............................................................................................................ 9
1.2 Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Đức trị của Nho giáo Khổng –
Mạnh. ........................................................................................................... 16
1.3 Những giá trị và hạn chế chủ yếu trong tư tưởng đức trị của Nho giáo
Khổng – Mạnh ............................................................................................. 38
Chương 2: Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ TRONG NHO GIÁO KHỔNG
– MẠNH ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY ...................................................................................................... 43
2.1 Tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay. ...................................................................... 43
2.2 Những yếu tố tích cực và tiêu cực của Đức trị trong Nho giáo Khổng –
Mạnh đối với việc xây dựng đạo đức mới. .................................................. 62
2.3 Một số giải pháp chủ yếu để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu
cực của tư tưởng Đức trị trong Nho giáo Khổng – Mạnh đối với việc xây
dựng đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay. ..................................................... 69
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 85



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo là hệ thống tư tưởng đề cập đến nhiều lĩnh vực, nhiều mặt
hiện thực của đời sống xã hội và con người. Trong hệ thống Nho giáo bao
gồm nhiều học thuyết, nhiều tư tưởng, nhiều nội dung: triết học, chính trị - xã
hội, đạo đức, giáo dục…Những tư tưởng, những nội dung này đan xen, xâm
nhập vào nhau trong một hệ thống tương đối hồn chỉnh. Trong đó, học
thuyết đạo đức nói chung và tư tưởng Đức trị nói riêng được coi là hạt nhân
của Nho giáo nói chung và Nho giáo Khổng – Mạnh nói riêng - giai đoạn đầu
trong lịch sử Nho giáo Trung Quốc.
Tư tưởng đức trị trong học thuyết Nho giáo là một trong những thành
tựu lớn trong kho tàng tư tưởng của Trung quốc cổ đại nói riêng, nhân loại nói
chung. Hơn 2000 năm qua, tư tưởng đức trị khơng những chỉ chi phối đời
sống chính trị, đạo đức, văn hóa của đất nước Trung Hoa mà còn ảnh hưởng
sâu sắc đến nhiều quốc gia trong khu vực. Nhiều quan điểm của tư tưởng
Đức trị đã dần trở thành tập quán, phong tục truyền thống và có ảnh hưởng
sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến tư tưởng,
văn hóa. Do vậy, nó góp phần tạo nên truyền thống văn hóa Á Đơng, trong
đó có Việt Nam.
Trong tiến trình hội nhập với thế giới và khu vực hiện nay, nước ta chủ
động chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở cửa giao lưu với bên ngồi. Vì
vậy, ngồi nhiệm vụ phát triển kinh tế, vấn đề giao lưu về mọi mặt, trong đó
giao lưu về văn hóa đóng một vai trò quan trọng. Muốn thế, chúng ta một
mặt, phải ra sức học tập, tiếp thu kho tàng tri thức hiện đại của nhân loại để
tiến kịp với trình độ phát triển của thế giới, mặt khác, phải giữ gìn và phát huy
những giá trị truyền thống của dân tộc.

1



Có thể nói, cơng cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo
trong hơn hai thập kỷ qua đã đạt được nhiều thành quả to lớn. Nhân dân ta
đang tiếp tục phấn đấu nhằm đưa đất nước tiến nhanh vào thời kỳ phát triển
mới. Tuy nhiên, trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vẫn
cịn rất nhiều thử thách. Thực tiễn đòi hỏi cả xã hội, từng gia đình, mỗi cá
nhân phải nâng cao hơn nữa ý chí cách mạng, tiếp tục đổi mới tư duy; sáng
tạo, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn do tình hình và nhiệm vụ mới đặt ra.
Đảng chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Bên cạnh những thành quả đã đạt được, trong cán bộ và nhân dân lại
xuất hiện những biểu hiện tiêu cực trong cả nhận thức, tình cảm và hành
động. Tư tưởng thực dụng chạy theo đồng tiền bằng mọi giá làm cho một số
người xa rời lý tưởng cộng sản, suy thối phẩm chất đạo đức cách mạng. Nạn
tham nhũng, bn lậu, làm giàu bất chính, tệ nạn xã hội phát triển nhanh
chóng, nghiêm trọng và đều khắp trên phạm vi toàn quốc, tác động xấu đến
sinh hoạt xã hội, đến sự phát triển. Nhiều hiện tượng tiêu cực của xã hội, đạo
đức nhân ln bị xuống cấp, bị xói mịn; kỷ cương, nề nếp từ trong gia đình
đến ngồi xã hội khơng cịn được tơn trọng... Trước tình hình này, một số
người cảm thấy luyến tiếc quá khứ, hoài niệm xã hội cũ khi Nho giáo còn
thống trị trong đời sống xã hội, khi cha còn ra cha, con còn ra con, thầy còn ra
thầy, trò còn ra trò, trường còn ra trường, lớp còn ra lớp; mọi người sống chan
hịa tình cảm, ln lo lắng cho nhau. Họ mong “Bao giờ cho đến ngày xưa”.
Trong những chủ trương, biện pháp nhằm khắc phục tình trạng nói trên, đồng
thời với sự đề cao vai trò của nhà nước pháp quyền trong tổ chức, quản lý,
điều hành mọi mặt của xã hội, vấn đề thiết lập, xây dựng một bảng giá trị đạo
đức xã hội,… nhằm đáp ứng được đòi hỏi của thời đại là một nhiệm vụ bức
xúc. Để xây dựng những nguyên tắc đạo đức xã hội, tất nhiên phải xuất phát
từ nhiệm vụ lịch sử, những tiền đề vật chất kỹ thuật, trình độ văn hóa hiện có
của dân tộc. Song, không thể không lưu tâm đến ảnh hưởng của truyền thống,


2


phong tục tập quán từ quá khứ để lại. Chúng ta đang xây dựng xã hội Xã hội
chủ nghĩa, một chế độ xã hội khác hẳn về chất so với các chế độ xã hội từng
tồn tại ở nước ta. Lý tưởng của người cộng sản hoàn toàn khác, thậm chí đối
lập với mục tiêu của giai cấp phong kiến, nhà tư bản. Vậy, liệu những chuẩn
mực đạo đức của Nho giáo đã được hình thành, tồn tại, ăn sâu và gắn chặt vào
sinh hoạt của nhân dân hàng nghìn năm đến mức có nhiều người tự coi là đã
rũ sạch ảnh hưởng của Nho giáo, sẽ có giá trị như thế nào trong việc góp phần
hình thành các giá trị đạo đức mới. Liệu có thể kế thừa giá trị đạo đức của
Nho giáo được không? Đây là một trong những vấn đề được nhiều nhà nghiên
cứu xã hội ở nước ta quan tâm. Theo chúng tôi, ảnh hưởng của tư tưởng đức
trị của Nho giáo xét ở khía cạnh đạo đức đang là có tính vấn đề thời sự ở nước
ta. Cần có sự đầu tư để đưa ra các kết luận khoa học.
Việc nghiên cứu nội dung tư tưởng Đức trị của Nho giáo Khổng –
Mạnh và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng đạo đức xã hội ở nước ta hiện
nay sẽ cung cấp và luận chứng cho việc tiếp thu, kế thừa những yếu tố tích
cực của nó để góp phần xây dựng nền đạo đức mới, hoàn thiện đạo đức con
người và xã hội nhằm phát huy nội lực của con người Việt Nam trong công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước một cách vững chắc, tiến cùng thời
đại,… đồng thời phê phán và khắc phục những biểu hiện tiêu cực của nó
trong xã hội hiện nay. Để góp phần vào việc tìm hiểu vấn đề đang cần được
nghiên cứu sâu rộng hơn này, tác giả lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Đức trị của
Nho giáo Khổng – Mạnh và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng đạo đức
xã hội ở nước ta hiện nay” làm nội dung nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Như chúng ta đã biết, tư tưởng Nho giáo về “Đức trị” là một đề tài thu
hút được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ và phương

pháp tiếp cận khác nhau.

3


Trước hết là các cơng trình đi sâu vào nghiên cứu từng lĩnh vực hay
từng phạm trù cụ thể trong học thuyết Nho giáo. Các tác giả đi theo hướng
này thường đề cập đến các tư tưởng của Nho giáo về giáo dục, luân lý, đạo
đức và vai trò của nó đối với xã hội và con người, trong đó đặc biệt chú ý đến
các phạm trù Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín,…Có thể kể đến những cơng trình
nghiên cứu tiêu biểu sau đây: Trong “Học thuyết chính trị - xã hội của Nho
giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX)”
của Nguyễn Thanh Bình, tác giả đã nghiên cứu Nho giáo chủ yếu với tư cách
là một học thuyết chính trị - xã hội, được các triều đại phong kiến Việt Nam
tiếp nhận và sử dụng làm hệ tư tưởng, công cụ cai trị và quản lý xã hội, trong
việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thực tiễn đặt ra cho các triều đại
phong kiến và dân tộc. Tác giả cho rằng, học thuyết chính trị - xã hội của Nho
giáo là căn cứ chủ yếu để hình thành đường lối Đức trị, xây dựng và thực thi
pháp luật, kiến tạo và triển khai nền giáo dục - khoa cử Nho học. Các cuốn
sách như: “Nho giáo xưa và nay” của Quang Đạm; “Nho giáo và đạo đức”
của Vũ Khiêu, “Nho học ở Việt Nam” và “Khổng Tử” của Nguyễn Hiến Lê,
“Đến hiện đại từ truyền thống” của Trần Đình Hượu, đã đề cập đến nội dung
cũng như vai trò của tư tưởng Đức trị với tư cách là điểm xuất phát, bản chất
của Nho giáo. Đặc biệt, trong cuốn sách “Đức trị và Pháp trị trong Nho
giáo”, Giáo sư Vũ Khiêu đã trình bày sự thống nhất biện chứng giữa Đức trị
và Pháp trị trong hệ tư tưởng Nho giáo, coi chúng như hai mặt của một vấn
đề. Tác giả đã chú ý đến nội dung và ảnh hưởng của Đức trị trong đời sống
của nhân dân, nhưng phần cơ sở lý luận, triết lý hầu như ít được đề cập.
Thứ hai là những bài viết, bài tham luận trong một số hội nghị, hội thảo
quốc tế về Nho giáo tiêu biểu trong và ngoài nước như: Hội thảo Quốc tế lần

thứ I về Nho giáo được tổ chức ở Nhật Bản (10/1987). Hội nghị tương tự đã
diễn ra ở Trung quốc (8/1993). Trong hai hội nghị này, các tham luận đều
khẳng định giá trị của Nho giáo trong nền văn hóa thế giới và đặc biệt thừa

4


nhận vai trị to lớn của nó trong sự tiến hóa hiện nay của các quốc gia thuộc
khu vực Đơng Á. Hai cuộc hội thảo (11/2003 tại Tứ Xuyên và 10/ 2006 tại Hà
Nam, Trung Quốc) đã được tổ chức với chủ đề “Luận bàn luân lý Nho gia và
giáo dục đạo đức công dân khu vực Đông Á” - đã nghiên cứu sâu hơn nội
dung đạo đức Nho gia và vấn đề phát huy những giá trị của lý luận đạo đức
đó trong việc xây dựng đạo đức cơng dân ở giai đoạn hiện tại. Ở Việt Nam
cũng đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo quốc tế, đáng chú ý là: Năm 2004, một
cuộc hội thảo với chủ đề “Nho giáo ở Việt Nam” được diễn ra với sự tham dự
của nhiều học giả đến từ các nước Hoa Kỳ, Canada, Trung Quốc, Đài Loan,
Singapore... Tháng 6 năm 2009, Hội thảo “Nho giáo Việt Nam và Văn hóa
Đơng Á” đã thu hút nhiều chuyên gia đến từ các viện chuyên ngành thuộc
Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn – Triết thuộc Viện Nghiên cứu
Trung ương Đài Loan và Đại học Quốc gia Đài Loan. Hội thảo đã thảo luận
và đi sâu phân tích những vấn đề lý luận chung về nghiên cứu Nho giáo ở
Việt Nam dưới những góc độ khác nhau. Trong đó, Hội thảo khẳng định, Nho
giáo đóng vai trị quan trọng trong lịch sử dân tộc và vẫn còn tiếp tục ảnh
hưởng trong xã hội hiện nay như coi trọng đạo đức, coi trọng giáo dục…Việc
tiếp tục nghiên cứu Nho giáo nhằm khai thác những nhân tố tích cực và gạt bỏ
những nhân tố tiêu cực là việc làm thiết thực.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu trên, liên quan đến đề tài luận văn,
cịn có nhiều luận án, luận văn và các bài viết trên nhiều tạp chí như “Quan
niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng”, “Tư tưởng về “Đạo trị nước” ở các
nhà Nho Việt Nam”, “Đạo đức Nho giáo với việc rèn luyện và nâng cao

phẩm chất đạo đức Cộng sản” của Nguyễn Thanh Bình; “Từ đạo hiếu truyền
thống, nghĩ về đạo hiếu ngày nay” của Nguyễn Thị Thọ, “Tìm hiểu tư tưởng
đức trị trong Nho giáo” của Nguyễn Thế Kiệt, “Một số biểu hiện của sự biến
đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải
pháp khắc phục” của Nguyễn Đình Tường, “Tiêu chuẩn đạo đức của người

5


cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay” của Trần Văn Phòng, “Vấn đề nâng cao
đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay” của
Nguyễn Văn Lý, v.v.
Nhìn chung, các cơng trình trên đều đi sâu vào nghiên cứu một cách
khái quát, có hệ thống tư tưởng Đức trị của Nho giáo với các góc độ, mục
đích nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tư tưởng Đức trị của
Nho giáo Khổng - Mạnh và đặc biệt là ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng đạo
đức xã hội ở nước ta hiện nay chưa được nghiên cứu nhiều và nghiên cứu một
cách có hệ thống và đánh giá một cách tồn diện. Vì vậy, với khn khổ của
một luận văn thạc sỹ khoa học Triết học, chúng tôi thấy cần phải trình bày
một cách có hệ thống và làm sáng tỏ một số nội dung chủ yếu của tư tưởng
Đức trị Nho giáo Khổng – Mạnh và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng đạo
đức xã hội ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung tư tưởng Đức trị
trong Nho giáo Khổng – Mạnh, luận văn chỉ ra, đánh giá mặt tích cực, hạn
chế cơ bản và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng đạo đức xã hội ở nước ta
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, trình bày nội dung cơ bản trong tư tưởng Đức trị của Nho
giáo Khổng – Mạnh
Thứ hai, phân tích những giá trị và hạn chế chủ yếu trong tư tưởng Đức
trị của Nho giáo Khổng – Mạnh, từ đó rút ra ý nghĩa của nó đối với việc xây
dựng đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những giá trị
và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng Đức trị trong Nho giáo
Khổng – Mạnh đối với việc xây dựng đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay.

6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Tư tưởng Đức trị của Nho giáo Khổng – Mạnh và ý nghĩa của nó đối
với việc xây dựng đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Những quan điểm, quan niệm, luận điểm chủ yếu trong tư tưởng Đức
trị của Nho giáo thời Tiên Tần (chủ yếu tập trung vào tư tưởng của Khổng Tử,
Mạnh Tử và Tuân Tử) và ảnh hưởng của nó trong việc xây dựng đạo đức xã
hội ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên những quan điểm chủ yếu của triết học và đạo đức
học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về đạo đức, về con người và về xã hội; đồng thời có kế thừa kết quả
nghiên cứu của một số cơng trình khoa học đã được cơng bố trong và ngồi
nước có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số
phương pháp nghiên cứu như: Phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic, phương
pháp lịch sử - cụ thể, đối chiếu, so sánh để trình bày những vấn đề đặt ra trong
luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ nội dung cơ bản trong tư tưởng Đức trị của
Nho giáo Khổng – Mạnh cũng như ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng đạo
đức xã hội ở nước ta hiện nay. Ngồi ra, luận văn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu lịch sử Nho giáo nói riêng và lịch
sử triết học phương Đơng nói chung.

7


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phần
Nội dung của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1: Bối cảnh ra đời và những nội dung chủ yếu trong tư tưởng Đức trị
của Nho giáo Khổng-Mạnh, với 3 tiết.
Chương 2: Ý nghĩa tư tưởng Đức trị trong Nho giáo Khổng-Mạnh đối với việc
xây dựng đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay,với 3 tiết.

8


Chương 1
BỐI CẢNH RA ĐỜI VÀ NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG TƯ
TƯỞNG ĐỨC TRỊ CỦA NHO GIÁO KHỔNG – MẠNH
1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề tư tưởng cho sự ra đời tư
tưởng Đức trị

Nho giáo với tính cách là một hệ thống xuất hiện ở Trung Quốc từ thời
Cổ đại do Khổng Tử (551 – 479 TCN) sáng lập ra và sau đó được nhiều thế
hệ nhà Nho tiếp thu và phát triển.
Xuân Thu và Chiến Quốc là hai thời kỳ lịch sử của xã hội Đông Chu.
Xét về niên đại, thời kỳ Xuân Thu được bắt đầu từ năm 772 đến năm 480
TCN và thời Chiến Quốc bắt đầu từ năm 479 đến năm 220 TCN.
Theo nhiều tài liệu lịch sử, chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc đã
tồn tại và phát triển qua các triều đại nhà Hạ, Thương và đến cuối thời kỳ Tây
Chu thì bắt đầu khủng hoảng và ngày càng suy tàn hơn. Từ đây, xã hội Trung
Quốc bắt đầu bước vào thời đế chế mà lịch sử vẫn gọi là thời Xuân Thu –
Chiến Quốc. Có thể xem đây là giai đoạn giao thời giữa hai chế độ nô lệ thị
tộc và phong kiến, và cũng là giai đoạn mà những giá trị về tư tưởng và đạo
đức của xã hội cũ bị băng hoại, những giá trị đạo đức mới đang hình thành,
phát triển. Chính vì thế, đã tạo ra sự biến đổi tồn diện và sâu sắc trong rất
nhiều các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
1.1.1 Bối cảnh kinh tế - xã hội
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, ý thức xã hội do tồn tại xã hội
quyết định và phản ánh điều kiện kinh tế - xã hội của xã hội trong từng giai đoạn phát
triển nhất định. C.Mác cho rằng: “không phải ý thức của con người quyết định tồn tại
của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [46, tr.15]. Tư tưởng
trị nước của mỗi thời đại bao giờ cũng phản ánh những dấu ấn của thời đại đó. Với
tính cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, một hình thái ý thức xã hội,

Nho giáo (trong đó có tư tưởng Đức trị) cũng nảy sinh, tồn tại trên một cơ sở hạ
tầng, một tồn tại xã hội nhất định.

9


Trên lĩnh vực kinh tế:

Xã hội Trung Quốc đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc, công cụ lao động
chuyển từ thời đại đồ đồng sang công cụ bằng sắt đã xuất hiện, đưa lực lượng
sản xuất lên trình độ cao hơn. Vào thời kỳ này, với việc chế tạo những phát
minh, sử dụng đồ sắt đã đem lại những tiến bộ mới trong việc cải tiến công cụ
và kỹ thuật sản xuất trong nơng nghiệp. Có thể nói, điều này đã đánh dấu sự
thay đổi vượt bậc của nền kinh tế Trung Quốc. Nếu như trước đây, tư liệu sản
xuất (trong đó có ruộng đất) đều nằm thuộc quyền sở hữu của nhà Chu thì giai
đoạn này đã có sự thay đổi, đó là việc biến ruộng đất của cơng thành ruộng
đất của tư ngày càng nhiều dẫn đến sự tan rã của chế độ “tỉnh điền”. Về sau,
pháp luật đã có sự thay đổi, đó là việc cơng nhận sự tồn tại của chế độ tư hữu
ruộng đất. Việc thay thế công cụ bằng đồng sang sử dụng công cụ bằng sắt
lúc này ngày càng trở nên phổ biến và sự mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm
lao động trong nền sản xuất thủ công nghiệp ngày càng trở nên chuyên nghiệp
hơn, rất nhiều ngành nghề đã được mở ra như nghề rèn, nghề mộc, nghề
đúc…Điều này đã tạo nên sự cách biệt giữa những người làm nông nghiệp ở
vùng nông thôn với những người làm nghề buôn bán ở khu vực thành thị, bắt
đầu có sự phân hóa giữa tầng lớp quý tộc với những người làm nghề bn bán
ở khu vực thành thị, bắt đầu có sự phân hóa giữa tầng lớp quý tộc với những
người được coi là hèn mọn, tiểu nhân trong xã hội.
Trên cơ sở phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp, thương
nghiệp cũng phát triển hơn trước, tiền tệ đã xuất hiện. Đây là thời kỳ khởi sắc
của nền kinh tế thương nghiệp. Trong thời kỳ này, ở Trung Quốc xuất hiện
nhiều thành thị thương nghiệp buôn bán, xuất nhập nhộn nhịp ở các nước
Hán, Tề, Tần, Sở. Thành thị đã có một cơ sở kinh tế tương đối độc lập, từng
bước tách ra khỏi thành thị, thị tộc của quý tộc và dần trở thành những đơn vị,
khu vực kinh tế của tầng lớp địa chủ mới lên.

10



Sự biến động trong lĩnh vực kinh tế đã ảnh hưởng, tác động to lớn đến
các mặt của lĩnh vực chính trị - xã hội. Nó làm xuất hiện một cục diện mới
trong xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc, đó là tình trạng các
nước chư hầu nổi lên lấn át địa vị và quyền lực của nhà Chu. Sự phát triển của
sức sản xuất, kinh tế phát triển đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu
ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nhiều tầng lớp mới xuất hiện và
ngày càng khẳng định vị trí của mình. Mới, cũ cùng đan xen tồn tại. Mỗi tầng
lớp luôn đại diện cho những lợi ích riêng của mình. Do đó, những mâu thuẫn
giữa các giai tầng được hình thành và ngày càng phát triển, đặc biệt là mâu
thuẫn giữa giai cấp thống trị với giai cấp nông dân và các tầng lớp bị thống trị
khác. Nếu như, vào đầu thời Chu, “Đất đai và thần dân ở khắp dưới gầm trời
này không đâu không phải là sở hữu của nhà vua” (Kinh thi) thì nay, cái
quyền sở hữu tối cao (về đất và dân) ấy đã bị một tầng lớp người mới lên có
sức mạnh kinh tế tấn công và chiếm lấy làm tư hữu. Tầng lớp quý tộc, thị tộc
– cơ sở xã hội của nhà Chu - do bị mất đất, mất dân, địa vị kinh tế ngày càng
sa sút, vì vậy mà đương nhiên, địa vị và vai trị chính trị cùng ngôi thiên tử
của nhà Chu ngày càng suy giảm và trên thực tế chỉ cịn là hình thức. Các
nước chư hầu của nhà Chu không những không chịu phục tùng vương mệnh,
khơng chịu cống nạp mà cịn phát động chiến tranh thơn tính lẫn nhau, ln tự
xưng và tự cho mình là bá chủ thiên hạ. Trong Sử ký, Tư Mã Thiên miêu tả
thời kỳ này là thời đại “vương đạo suy vi”, “bá đạo” cường thịnh, lấn át
“vương đạo”.
Trong tình trạng đó, các quốc gia liên tục gây nên những cuộc chiến
tranh sát phạt, thơn tính lãnh thổ của nhau. Trong nội bộ các nước – đặc biệt
là các nước lớn – quý tộc chia bè lập cánh, chia cắt đất đai của các nước chư
hầu để mở rộng bờ cõi. Vì thế, đến đầu thời Chu có vào khoảng trên dưới
1000 nước chư hầu thì đến thời Xuân Thu chỉ còn lại hơn trăm nước. Tương
đối lớn chỉ cịn khoảng chục nước, trong đó, mạnh nhất là nhóm Thất hùng

11



(Tề, Tấn, Tần, Sở, Tống, Ngô, Việt). Chiến tranh càng dai dẳng và khốc liệt,
nhân dân càng gánh chịu nhiều tổn thất. Đời sống vốn đã cơ cực ngày càng
lâm vào bế tắc “hỏi trời xanh thăm thẳm, bao giờ chúng tơi mới có được một
nơi thái bình – Du du thượng thiên, hạt kỳ hữu sở” [54, tr.529] “biết ta như
thế này, thà đừng sinh ra – tri ngã như thử, bất như vô sinh” [54, tr.1316]
Thực chất, sự xuất hiện những tầng lớp mới, những mâu thuẫn về lợi ích
giai cấp, những cuộc chiến tranh tàn bạo và quyết liệt nêu trên là những biểu
hiện về mặt xã hội mang tính tất yếu khách quan của thời kỳ lịch sử đang địi
hỏi giải thể chế độ nơ lệ thị tộc đại diện cho phương thức sản xuất cũ đã lỗi
thời để giải phóng lực lượng sản xuất, tiến nhập vào xã hội phong kiến phân
quyền đại diện cho phương thức sản xuất mới mới manh nha.
Trong bối cảnh đó, ln lý, đạo đức xã hội rơi vào tình trạng băng hoại,
khủng hoảng sâu sắc. Mọi giá trị, chuẩn mực, đạo đức bị đảo lộn, trật tự, kỷ
cương xã hội ngày thêm rối loạn, thiết chế chính trị, lễ nghĩa nhà Chu bị vi
phạm và phá hoại nghiêm trọng. Đây được coi là thời kỳ “Lễ hoại nhạc tan”,
cảnh bề tôi giết vua, con hại cha, anh em, vợ chồng bất hịa, chia lìa thường
xun xảy ra, Thiên hạ trở nên “vô đạo”, trật tự, lễ nghĩa, cương thường của
xã hội bị đảo lộn, các mối quan hệ giữa con người với con người bị biến dạng.
Cho đến thời điểm này thì cảnh chia ly khơng chỉ dừng lại trong gia đình mà
đến cả đất nước vì “ngũ luân” khơng cịn được coi trọng như trước nữa. Khi
nhận định về vấn đề này, Khổng Tử cho rằng, sự biến đổi của trật tự lễ nghĩa
nhà Chu đã diễn ra từ rất lâu chứ không phải là mới bắt đầu. Trong sách Luận
ngữ, Khổng Tử nói về thời kỳ này rằng, “Thiên hạ loạn lạc như nước chảy
cuồn cuộn, khắp nơi đều như thế, còn mong cùng người nào làm thay đổi
đây?” [14, tr.646]
Trong khi chế độ tông pháp đã tỏ ra quá lạc hậu với thời đại như vậy, thì
những cơ sở cho sự định hình thể chế của xã hội mới lại chỉ mới manh nha.
Giữa cái cũ và cái mới, không cái nào đủ sức đại diện chân chính cho lịch sử.


12


Bị trói buộc trong trạng thái “giao thời” đó, các chuẩn mực, giá trị xã hội hầu
như không được định hình.
Xã hội Trung Quốc vào thời kỳ này trở nên hết sức rối ren, chiến tranh,
thiên tai, lũ lụt… thường xuyên xảy ra, một bên là sự khốn cùng của tầng lớp
lao động nghèo với một bên là sự giàu có của tầng lớp phong hầu kiến địa.
Nhân dân thường xuyên phải sống trong cảnh đói rét, khổ đau. Trong khi đó,
thế lực cầm quyền ln tìm cách để gây thanh thế, cho nên thường xuyên diễn
ra các cuộc chiến tranh.
Dường như, trong tiếng kêu than của tầng lớp nhân dân lao động nghèo
đó đã tiếp thêm sức mạnh cho nhiều nhà tư tưởng cùng với những học thuyết
của mình ra đời với mong muốn sẽ đưa họ thoát khỏi kiếp trâu ngựa, xây
dựng một đất nước thái bình, thịnh trị như mong muốn, khát khao của rất
nhiều người.
Trước thực trạng xã hội như vậy, đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa thực
tiễn cấp bách là phải thiết lập một hệ thống tư tưởng cũng như những nguyên
tắc đạo đức, luân lý mới phù hợp với yêu cầu của thời đại để đưa xã hội tiến
lên. Do vậy, trong các nước thường xuất hiện những trung tâm, hay tụ điểm
tập trung những “kẻ sĩ bàn ngang”, chuyên “bàn việc nước”. Nhìn chung, họ
đều đứng trên lập trường giai cấp của mình để phê phán xã hội cũ, đề ra mơ
hình và biện pháp xây dựng xã hội tương lai tốt đẹp. Vì vậy, xuất hiện rất
nhiều quan điểm, chính sách, chủ trương xã hội. Lịch sử gọi đây là thời kỳ
“bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “bách gia tranh minh” (trăm nhà
đua tiếng). Từ đây đã sản sinh hàng loạt những nhà tư tưởng, những nhà chính
trị suất sắc và hình thành nhiều tư tưởng triết học, chính trị - xã hội khá hồn
chỉnh như Nho giáo, Đạo gia, Pháp gia, Mặc gia,…Trong số “bách gia” xuất
hiện thời Tiên Tần ở Trung Quốc thì Nho giáo là một trong những học thuyết

có sức sống lâu dài nhất. Hơn 2000 năm, chế độ phong kiến Trung Quốc, đã
trải qua bao triều đại khác nhau, bao biến động, thăng trầm của xã hội nhưng

13


địa vị thống trị của Nho giáo trong thượng tầng kiến trúc vẫn được giữ vững.
Khác với các học thuyết, giáo phái khác, Nho giáo đặc biệt đề cao đạo đức,
coi đạo đức là công cụ, là phương thức cai trị, quản lý xã hội có hiệu quả nhất
cũng như trong việc đưa xã hội từ “loạn” tới “trị”. Các triều đại phong kiến
Trung Quốc xem Khổng Tử là người thầy của muôn đời (Vạn thế sư biểu).
Khổng Tử cho rằng: xã hội loạn lạc là bởi con người “vô đạo”, cần đưa con
người trở về “hữu đạo” bằng con đường giáo hóa. “Đức trị” là một trong
những phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo để giáo hóa con người góp
phần ổn định trật tự xã hội. Nối tiếp tinh thần trên, các nhà Nho đời sau như
Mạnh Tử, Tuân Tử tiếp tục bổ sung và củng cố luận điểm đó của Khổng Tử.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội thì
vẫn chưa đủ cơ sở để giải thích sự hình thành tư tưởng Đức trị của nho giáo
Khổng – Mạnh. Vì cũng xuất phát từ cùng những tiền đề ấy lại đã nảy sinh
nhiều quan điểm khác về chính trị - xã hội khác như chủ trương “vô vi nhi trị”
của phái Lão Trang, “kiêm ái” của phái Mặc Tử, “pháp trị” của Hàn Phi. Bên
cạnh những điều kiện kinh tế - xã hội đã đề cập, nổi lên vai trò rất quan trọng
của các tiền đề tư tưởng và sự tiếp thu các tiền đề ấy ở từng chủ trương trị
nước trong tình hình mới của lịch sử. Trong phạm vi của đề tài, luận văn sẽ
trình bày những tư tưởng chính trị, đạo đức, tơn giáo của Trung quốc cổ đại
có ảnh hưởng đến việc Khổng Tử hình thành và hồn thiện tư tưởng Đức trị
sau này.
1.1.2 Tiền đề tư tưởng
Tư tưởng Đức trị của nho giáo Khổng – Mạnh là sự kế thừa và tiếp thu
những yếu tố, tính chất trong tư tưởng chính trị, đạo đức, tôn giáo của Trung

Quốc từ trước đến bấy giờ, nhất là dưới thời nhà Chu.
Về tôn giáo: Như triết học Mác – Lênin đã chỉ rõ, tôn giáo hay tư tưởng
tơn giáo với tính chất duy tâm thần bí của nó ln được giai cấp thống trị lợi
dụng và sử dụng như là một trong những công cụ, phương tiện cần thiết để
biện hộ, duy trì và bảo vệ sự tồn tại vĩnh viễn địa vị thống trị và quyền lợi của

14


giai cấp thống trị, cũng như trong việc kiến tạo và duy trì cái xã hội ln trong
“vịng trật tự” có lợi cho chúng. Chế độ nhà Chu cũng vậy, nhằm những mục
đích chính trị ấy, họ ln đề cao tư tưởng “kính trời”, “hợp mệnh trời”, “thiên
- nhân hợp nhất”. Theo đó, nhà Chu cho rằng, trời là lực lượng có uy quyền
tối cao, tuyệt đối và do vậy, vì nhà Ân khơng những khơng biết vâng “mệnh
trời” mà còn hành động trái với “mệnh trời” nên bị trời trừng phạt và để cho
nhà Chu thay thế nhà Ân cai trị dân. Nhà Chu cho rằng: “mệnh trời không
nhất định, thiện thì được, bất thiện thì mất – duy mệnh bất vô thường, đạo
thiện tất đắc chi, bất thiện tắc thất chi hỷ” [3, tr.26]. Khổng Tử nói riêng và
Nho giáo nói chung tiếp nhận yếu tố duy tâm thần bí và phản động trong tư
tưởng tơn giáo trên đây làm một trong những nội dung của tư tưởng trị nước,
để ràng buộc con người, nhằm tạo ra những con người luôn suy nghĩ, hành
động theo ý trời, mệnh trời.
Về chính trị: Tư tưởng chính trị chủ yếu của giai cấp quý tộc Chu là
“Nhận dân”, “Hưởng dân” và “Trị dân”. Tư tưởng này được xuất phát từ quan
niệm của nhà Chu cho rằng, vì nhà Chu biết và làm theo “mệnh trời”, tuân
theo mệnh trời mà được “nhận dân” từ tay nhà Ân để “hưởng dân” và “trị
dân” suốt đời. Giai cấp quý tộc Chu cho rằng, kẻ chịu mệnh trời để thống trị
thiên hạ là Thiên tử. Thiên tử cùng sánh với trời và vì vậy, nếu kẻ nào chống
lại “mệnh trời” thì nhà Chu sẽ vâng mệnh trời và thay trời trừng trị, chém
giết. Vua là Thiên tử (con trời) được thay trời thống trị thiên hạ, cai trị dân.

Rõ ràng, tư tưởng chính trị dưới thời nhà Chu là hết sức phản động nhưng lại
được phủ lên một lớp son tôn giáo về “ý trời”, “mệnh trời”.
Về đạo đức: Tư tưởng đạo đức của nhà Chu lấy hai chữ Đức và Hiếu làm
nòng cốt. Xuất phát từ quan niệm tôn giáo về trời – người hợp nhất, nhà Chu
cho rằng, tổ tiên của mình là bậc Tiên vương do ln có đức mà được sánh
cùng thượng đế, nhận được “mệnh trời” mà “hưởng nước”, “hưởng dân”. Do
vậy, các vua sau phải thành kính cái đức đó, mà giữ gìn và bồi đắp nó để con

15


cháu được thừa hưởng lâu dài. Hiếu là nhớ ơn tổ tiên, là phải ln giữ gìn và
làm sáng tỏ khn phép của tổ tiên để lại, có như vậy, mới nhận được mệnh
trời mà được hưởng nước, hưởng dân mãi mãi. Rõ ràng, đây là quan niệm đạo
đức duy tâm, bảo thủ và phản động nhằm tuyên truyền và củng cố địa vị
thống trị vĩnh viễn của giai cấp quý tộc, thị tộc, bảo vệ nhà nước chuyên
chính thị tộc. Nhưng về sau, quan niệm này lại được nhiều nhà Nho tiếp nhận
vào hệ thống Nho giáo nói chung và tư tưởng đạo đức của Nho giáo nói riêng.
Chính điều này, một phần giúp chúng ta cắt nghĩa vì sao, ở Nho giáo, đạo đức
và chính trị gắn chặt với nhau, coi đạo đức còn là một trong những cơng cụ,
phương tiện chính trị chủ yếu nhất của nhà vua, của người cầm quyền trong
việc trị dân, trị nước, bình thiên hạ.
Như vậy, tư tưởng Đức trị của Nho giáo được ra đời trên cơ sở phản ánh
và đáp ứng yêu cầu của thời đại Xuân Thu – Chiến Quốc. Đó là mục tiêu đưa
xã hội “vơ đạo” thành xã hội “hữu đạo”. Nho giáo tiếp nhận vào hệ thống của
mình nhiều tư tưởng tơn giáo để giáo hóa con người, buộc con người phải
tuân thủ theo những quy tắc, chuẩn mực xã hội mà các nhà Nho đưa ra.
1.2 Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Đức trị của Nho giáo
Khổng – Mạnh.
Đường lối Đức trị là một trong những nội dung cơ bản nhất trong học

thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo. Trong Nho giáo, học thuyết chính trị và
học thuyết đạo đức quan hệ chặt chẽ với nhau, chính trị và đạo đức gắn chặt
với nhau. Nho giáo đặc biệt đề cao đạo đức trong trị nước, coi đó là cơng cụ
và phương tiện hữu hiệu nhất để hoàn thiện con người và ổn định, hồn thiện
xã hội, đưa xã hội từ “vơ đạo” thành “hữu đạo”.
Tư tưởng Đức trị là những quan điểm về đường lối trị nước, quản lý xã
hội dựa trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức. Đó là hệ thống những chuẩn
mực, những nguyên tắc, quy phạm đạo đức để điều chỉnh hành vi của con
người trong, các mối quan hệ xã hội, nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích

16


cá nhân và lợi ích cộng đồng. Đức trị phản ánh nhu cầu và lợi ích xã hội của
giai cấp thống trị, được biểu hiện dưới hình thức những quy định và những
đánh giá trên cơ sở xác lập những giá trị luân lý, được mọi người thừa nhận
và chấp hành một cách tự giác. Trên cơ sở đó, Nho giáo cũng khẳng định tính
đúng đắn của quan niệm chính danh định phận trong xã hội, đề ra những
nguyên tắc, tiêu chí làm chuẩn mực để người cầm quyền nhận thức đạo lý,
giáo hóa hành vi, điều chỉnh hoạt động của mọi người
1.2.1 Vai trò của đạo đức và Đức trị
Như chúng ta đã biết, Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện
từ buổi bình minh của lịch sử lồi người. Nó được phát triển, hồn thiện trên
cơ sở các chế độ kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Trong quá
trình phát triển đó, cùng với sự vận động biến đổi của tồn tại xã hội, đạo đức
cũng có những biến đổi, đã tồn tại nhiều những quan niệm đạo đức khác nhau,
thậm chí đối lập nhau trong lịch sử.
Theo quan niệm Mác xít, Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập
hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh
giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và với xã hội; chúng

được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư
luận xã hội [11, tr.816].
Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Theo Mác và Ănghen, con
người hoạt động tức đã sản xuất ra các tư liệu vật chất cần thiết cho đời sống
trước khi sáng lập các thứ lý luận và nguyên tắc bao gồm cả triết học và luân
lý học. Chế độ kinh tế - xã hội là nguồn gốc của quan điểm về đạo đức con
người. Sự phát sinh, phát triển của đạo đức xét đến cùng là một quá trình do
sự phát triển của phương thức sản xuất quyết định, chi phối.
Đạo đức có vai trị rất lớn trong đời sống xã hội, trong đời sống của con
người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm bảo

17


đảm cho các cá nhân và cộng đồng tồn tại, phát triển. Sống trong xã hội, mỗi
người phải suy nghĩ về những vấn đề đạo đức để tìm ra những con đường,
cách thức và phương tiện hoạt động nhằm kết hợp lợi ích của mình và cộng
đồng, từ đó bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của chính mình và cộng
đồng. Đạo đức đã trở thành mục tiêu đồng thời cũng là động lực để phát
triển xã hội.
Vai trò của đạo đức cịn được biểu hiện thơng qua các chức năng cơ
bản của đạo đức: điều chỉnh hành vi, giáo dục, nhận thức.
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Đạo đức thúc đẩy
sự phát triển xã hội, làm cho hành vi của con người phù hợp với sự phát
triển xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận xã hội và
lương tâm đã trở thành đặc trưng để phân biệt đạo đức với các hình thái ý
thức khác, các hiện tượng xã hội khác.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Hệ

thống đạo đức do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời, hệ thống đạo đức
tồn tại như là cái khách quan hóa tác động, chi phối con người. Chức năng
giáo dục của đạo đức cần được hiểu, một mặt là “giáo dục lẫn nhau trong
cộng đồng", giữa cá nhân và cộng đồng; mặt khác là, sự " tự giáo dục" ở cả
cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cộng đồng.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận
thức thơng qua sự phản ánh tồn tại xã hội.
Nhận thức đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại vừa hướng nội. Nhận
thức hướng ngoại lấy chuẩn mực, giá trị, đời sống đạo đức của xã hội làm đối
tượng. Đó là hệ thống giá trị thiện và ác, trách nhiệm và nghĩa vụ, hạnh phúc
và ý nghĩa cuộc sống... Nhận thức hướng nội (tự nhận thức) lấy bản thân mình
- chủ thể đạo đức - làm đối tượng nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá, tự
thẩm định, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi, đạo đức của mình với
những chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Từ cách nhận thức này mà chủ

18


thể hình thành, phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống: sáng tạo
hay thụ động, hy sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ, hướng thiện hay sa vào
cái ác …
Trong tự nhận thức, vai trò của dư luận xã hội và lương tâm là rất lớn.
Dư luận xã hội là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ thể, cịn
lương tâm là sự tự phê bình, tự đánh giá. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại
giá trị đạo đức của mình - giá trị mà xã hội mong muốn. Tự nhận thức giúp
chủ thể ý thức được trách nhiệm của mình và sẵn sàng để hồn thành trách
nhiệm đó.
Tóm lại, đạo đức là yếu tố cốt lõi của nhân cách con người, nó có vai
trị rất quan trọng trong đời sống xã hội, nó là một phương thức cơ bản điều
chỉnh hành vi của con người, làm cho cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát

triển. Chính vì thế mà các giai cấp, các tập đoàn xã hội tiến bộ bao giờ cũng
sử dụng đạo đức như là một trong những công cụ, động lực để thúc đẩy kinh
tế - xã hội phát triển.
Qua nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của Nho giáo và các tác phẩm
khác của một số nhà Nho tiêu biểu cũng như qua một số cơng trình nghiên
cứu về Nho giáo cho thấy vai trò của đạo đức được các nhà nho từ Khổng Tử
trở đi đều đặc biệt đề cao. Bởi lẽ, một lần nữa phải nhấn mạnh rằng, đạo đức
là cơ sở, xuất phát điểm của để từ đó các nhà Nho xây dựng nên nhiều học
thuyết nhằm thực hiện những mục đích chính trị. Nó cịn là căn cứ để các nhà
Nho đưa ra những phương thức mà theo họ là hữu hiệu nhất nhằm đưa xã hội
từ loạn lạc, vơ đạo trở về với hữu đạo, thái bình, thịnh trị.
Vai trò nổi bật của đạo đức theo quan niệm của Nho giáo Khổng –
Mạnh biểu hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, đạo đức và thi hành đạo đức là tiền đề, điều kiện quan trọng
nhất để hình thành và hồn thiện đạo đức của con người, góp phần to lớn vào
việc củng cố, duy trì trật tự, kỷ cương và sự ổn định của xã hội.

19


Vấn đề con người không chỉ là nội dung chủ yếu nhất, bao trùm trong
học thuyết Nho giáo mà Nho giáo cịn là một trong số rất ít học thuyết, ngay
từ đầu và từ rất sớm đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người và vai trò của
con người trong những diễn biến của lịch sử. Nhưng khi đề cập đến vấn đề
này, Nho giáo trước hết và chủ yếu dành sự quan tâm nhiều hơn đến vai trò
của nhà vua, người cầm quyền và vai trò của đạo đức đối với con người và
xã hội.
Trong Nho giáo Khổng – Mạnh và Nho giáo nói chung, mẫu người lý
tưởng – cần có của xã hội và phù hợp với yêu cầu của giai cấp thống trị chủ
yếu là con người đạo đức; và xã hội lý tưởng – cần có mà các nhà Nho mơ

ước và phù hợp với yêu cầu của giai cấp thống trị là xã hội có đạo đức. Vì vậy
mà, để có thể tạo ra những con người và xã hội ấy, các nhà Nho đưa ra nhiều
chuẩn mực đạo đức để con người, mỗi người học tập, tu dưỡng nhằm hoàn
thiện đạo đức của mình; đưa ra nhiều quy phạm đạo đức để khuyên răn, ràng
buộc và điều chỉnh mọi suy nghĩ, hành vi của con người trong mọi mối quan
hệ xã hội – chính trị của con người. Theo sách Tứ thư, những chuẩn mực đạo
đức đó là Nhân, Nghĩa, Lễ, Hiếu, Trung, Trí, Tín…Những chuẩn mực đạo
đức này cũng chính là những quy định đạo đức và là những phương thức cơ
bản để con người đạt đạo, đạo đức.
Con người lý tưởng – cần có theo quan niệm của Nho giáo Khổng –
Mạnh là con người quân tử - có đạo đức và tài trí, trọng Nghĩa hơn Lợi, ln
học tập, tu dưỡng và thực hành cái đức của mình. Để có cái đức, cái tài trí ấy,
tức là để trở thành người quân tử, theo Khổng Tử và Mạnh Tử, họ phải trải
qua quá trình học tập, tu dưỡng đạo đức lâu dài và với một nỗ lực bền bỉ. Như
trong sách Mạnh Tử, Mạnh Tử đã nói: “Người quân tử tiến sâu (về đức hạnh)
nhờ vào đạo lý, muốn rằng tự nắm bắt được đạo lý. Nắm bắt được thì ở n
với đạo, ở n thì nhờ đó càng thâm sâu, đã thâm sâu thì mặc sức mà sử dụng,
dường như đã tới cội nguồn” [14, tr.1069] và để cho cái đức, cái trí ngày càng

20


giàu thêm và bền vững, người quân tử không chỉ “tồn đức”, “dưỡng đức” mà
còn phải “tận tâm” tu dưỡng cái đức ấy ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh.
“Quân tử dựa vào điều nhân để tồn tâm, dựa vào lễ để tồn tâm. Người nhân
yêu người, người có lễ kính trọng người. u người thì người ta thường u
lại, kính trọng người thì người ta thường kính trọng lại” [14, 1088], Về điểm
này, trong sách Luận Ngữ, Khổng Tử đã chỉ rõ: “Người quân tử chẳng bao
giờ rời bỏ điều nhân, dù chỉ trong khoảng thời gian một bữa ăn, dẫu trong cơn
vội vàng hay trong lúc nghiêng ngả chao đảo, người ấy vẫn ở với điều nhân”

[73, tr.280]. Không chỉ vậy, điều cần hơn và quan trọng hơn đối với người
quân tử là, họ phải làm gương trong việc tu dưỡng và thi hành cái đức của
mình, phải đem cái đức ấy để giáo hóa mọi người, bổ hóa khắp thiên hạ. Như
Khổng Tử nói: “Người nhân là người muốn gây dựng điều gì cho mình cũng
gây dựng cho người điều đó, muốn mình thơng đạt ra sao cũng khiến cho
người được thông đạt như vậy” [14, tr.341], còn Mạnh Tử chỉ rõ hơn: “Chỉ
dựa vào lòng thiện (của mình) để thu phục người khác, thì chưa có ai thu phục
nổi. Phải dạy người bằng điều thiện, rồi sau mới có thể thu phục thiên hạ.
Thiên hạ không tâm phục mà dựng nên vương nghiệp là chuyện chưa từng
có” [14, tr.1071]. Có cái đức và cái năng lực ấy, theo Mạnh Tử, với người
quân tử thì “phú quý bất năng dâm; bần tiện bất năng di; uy vũ bất năng
khuất” [14, tr. 971] và mới có thể cai trị nhân dân được.
Nho giáo Khổng – Mạnh cho rằng, để loại trừ tình trạng rối loạn, khơng
có trật tự và kỷ cương trong xã hội cũng như nhằm duy trì sự ổn định trong xã
hội, trong gia đình thì phải thi hành các biện pháp mang nội dung đạo đức.
Tức là, phải bằng những nguyên tắc, quy phạm đạo đức để chi phối, ràng
buộc mọi hành động của con người, mọi mối quan hệ xã hội của con người.
Và có như vậy, mọi người mới có đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, hiếu,
trung,…mới bảo tồn tính thiện, trừ bỏ được tính ác và “gia mới tề, quốc mới
trị, thiên hạ mới bình”. Nhưng để đạt được mục đích cuối cùng này, các nhà

21


Nho đều khẳng định rằng, điều chủ yếu và có ý nghĩa quyết định là, mọi
người trong thiên hạ từ thiên tử trở xuống phải thật sự tận tâm trong việc tu
dưỡng đạo đức, như sách Đại học đã chỉ rõ: “Từ thiên tử tới thường dân, ai
cũng phải lấy việc tu thân làm gốc” [14, tr.18]. Cũng bởi vậy mà không phải
ngẫu nhiên, Nho giáo Khổng – Mạnh luôn địi hỏi mọi người phải được giáo
dục, giáo hóa bằng đạo đức theo đúng tinh thần mà Khổng Tử đã định rõ là:

“Hữu giáo vô loại”[14, tr.508], “Phú nhi hậu giáo”[14,tr.504], vì như Mạnh
Tử đã khẳng định, “Giáo hóa tốt thu được lịng dân, cịn hơn là chính trị tốt.
Chính trị tốt khiến dân sợ hãi, giáo hóa tốt được dân thương yêu. Chính trị tốt
là đem tài sản cho dân, giáo hóa tốt thì được lịng dân” [14, tr.1297].
Thứ hai, đạo đức là công cụ, phương tiện chủ yếu nhất, hữu hiệu nhất
của giai cấp thống trị trong việc cai trị và quản lý xã hội
Từ chỗ nhìn nhận xã hội thời Xuân Thu, Chiến Quốc là “vô đạo” mà
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cái “thực trạng” xã hội ấy là do những con
người phi nhân, phi đạo và những hành động phi nhân, phi đạo tạo ra, các nhà
Nho đã đề xuất ra đường lối “Đức trị” (hay cịn gọi là Vương đạo, Nhân trị,
Nhân chính, Lễ trị). Đường lối “đức trị” là đường lối trị nước, quản lý xã hội
dựa trên cơ sở những chuẩn mực, những nguyên tắc, những quy phạm đạo
đức theo tinh thần của Nho giáo. Khổng Tử, Mạnh Tử và nhiều nhà Nho khác
đặc biệt coi trọng và đề cao đạo đức, vai trò của việc thực thi đường lối Đức
trị. Theo đó, đạo đức là cơng cụ, là phương tiện chủ yếu nhất, có hiệu quả
nhất mà giai cấp thống trị cần sử dụng trong việc cai trị, quản lý xã hội nhằm
những mục đích chính trị của mình. Và thực hiện đường lối Đức trị, theo Nho
giáo, có vai trị và ý nghĩa quyết định không chỉ trong việc đưa xã hội từ
“loạn” tới “trị” mà còn trong việc duy trì địa vị, vai trị thống trị và lợi ích của
giai cấp thống trị. Như trong sách Luận ngữ, Khổng Tử đã nói rõ: “Dùng
chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình pháp để giữ trật tự, dân tránh khỏi tội
nhưng chưa biết hổ thẹn. Dùng đức để dẫn dắt, dùng lễ để giữ trật tự, dân biết

22


hổ thẹn mà tiến tới chỗ tốt lành” [14, tr.215]. Khổng Tử còn nhiều lần cho
rằng, đạo đức là biện pháp hiệu quả nhất trong việc thu phục nhân tâm, nhân
lực, trong việc “trị quốc, bình thiên hạ”. Như ơng nói: “Lấy đức để làm việc
chính trị cũng ví như ngôi sao Bắc thần, ở yên vị mà các ngôi sao khác đều

chầu về” [14, tr.214]. Sách Mạnh Tử đã ghi lại nhiều chỗ thể hiện tư tưởng
của Mạnh Tử rằng, nhà vua và kẻ cầm quyền nếu thi hành đạo nhân, thực
hành đường lối Nhân chính sẽ giữ gìn được bốn biển, bảo tồn được xã tắc,
ngôi vị của con cháu mình được duy trì cịn ngược lại, nếu thi hành đường lối
“bất nhân”, tàn bạo với dân thì nhà vua sẽ nguy hiểm đến tính mạng, nhà
nước sẽ bị diệt vong [14, tr.731, 754-755]. Không dừng lại ở đó, Khổng Tử,
Mạnh Tử và nhiều nhà Nho khác đều đề cao đến mức tuyệt đối hóa vai trị của
đạo đức, của đường lối Đức trị khi khẳng định rằng, đạo đức và thi hành đạo
đức là vơ địch.
Ngồi ra, qua bộ Tứ Thư cho thấy rõ, theo Nho giáo Khổng – Mạnh đạo
đức và thi hành việc cai trị, quản lý xã hội mang nội dung đạo đức còn là biện
pháp tốt nhất để loại trừ tình trạng phi nhân, phi đạo trong xã hội và những
hành vi bất nhân, bất đạo của con người; là phương tiện hữu hiệu nhất để duy
trì trật tự, kỷ cương và sự ổn định trong gia đình, ngồi xã hội. Với Khổng
Tử, cái điều đáng sợ nhất là của một quốc gia, của một nền chính trị khơng
phải là nước nghèo, của cải ít, mà là khơng có an ninh, khơng có phép tắc,
khơng có đạo đức. Cịn Mạnh Tử thì nói: “Thành quách chẳng hoàn bị, binh
pháp chẳng nhiều, chưa phải tai họa cho đất nước, ruộng nương chẳng mở
mang, của cải chẳng tích tụ, cũng chẳng nguy hại cho đất nước; nhưng người
trên không giữ lễ, người dưới không học hỏi, dân hung hăng dấy lên, thì nước
mất chưa biết ngày nào” [14, tr.1015-1016]
Thứ ba, cũng cần phải nhấn mạnh một vấn đề chủ yếu trong học thuyết
đạo đức Nho giáo nói chung, quan niệm của Nho giáo về vai trị của đạo đức,
của đường lối Đức trị nói riêng là, những vai trò trên của đạo đức đối với xã

23


hội và con người chỉ trở thành thực tế là chủ yếu phụ thuộc vào nhà vua,
người cầm quyền có đạo đức và luôn tu dưỡng, thi hành đạo đức.

Từ chỗ đề cao đến mức tuyệt đối hóa địa vị, vai trò và quyền lực của
nhà vua, người cầm quyền trong việc trị nước, trị dân, trong việc tạo lập duy trì
xã hội ổn định và phát triển, cũng tất yếu, Nho giáo càng coi trọng đến mức tuyệt
đối hóa vai trò của đạo đức và sự tu dưỡng đạo đức của nhà vua, kẻ cai trị.
Đề cập đến vấn đề này, trong học thuyết đạo đức của Nho giáo, các nhà
Nho ln cho rằng, để làm trịn trách nhiệm “thay trời trị dân và giáo hóa
dân”, là “cha mẹ của dân” thì điều quan trọng nhất và có ý nghĩa quyết định
nhất là nhà vua, kẻ cai trị phải có đạo đức và ln tu dưỡng đạo đức. Khổng
Tử, Mạnh Tử rất nhiều lần khẳng định, nếu nhà vua, người cầm quyền có đạo
đức và thi hành đường lối nhân đức lâu dài mà có thể làm cho kẻ ác nhân trở
thành thiện nhân [69, tr.445], không chỉ khiến cho mọi người theo mình, phục
vụ mình mà bản thân mình ln giữ được chức vị [69, tr.281] và khơng bị lẻ
loi, ít lầm lạc và khơng thất bại trong việc cai trị [69, tr.282]. Có nghĩa là, theo
những nhà Nho này, việc nhà vua, người cầm quyền có đạo đức và có thi
hành đạo đức hay khơng gắn liền và có ý nghĩa quyết định đến sự thành - bại,
thịnh - suy, hưng - vong của việc cai trị, của triều đại, của chế độ, của quốc
gia. Nhưng để đạo đức có vai trị to lớn như vậy, theo họ, lại phụ thuộc chủ
yếu vào sự tu dưỡng đạo đức của nhà vua, người cầm quyền.
Trong học thuyết đạo đức của Nho giáo Khổng – Mạnh, đạo đức và tu
dưỡng đạo đức gắn liền với nhau. Muốn có đạo đức và ln có đạo đức phải
thường xun tu dưỡng đạo đức. Sự tu dưỡng đạo đức của nhà vua, người
cầm quyền phải thành, phải kính, phải tận tâm và trước hết tự mình phải tu
dưỡng “Điều mà người quân tử phải giữ gìn là tu sửa thân mình, để trị yên
thiên hạ” [14, tr.1367]. Và có như vậy, theo nhà Nho, dân mới có đạo đức,
mới tuân theo phép tắc, mới tự giác theo mình và nền cai trị mới vững vàng.
Như Khổng Tử nói: “Nếu người trên chuộng lễ, thì dân chẳng ai dám bất

24



×