Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

(Luận văn thạc sĩ) những cảm hứng chính trong thơ thanh thảo luận văn ths văn học 60 22 34

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.11 KB, 91 trang )

z

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
__________

HỒNG THỊ THẢO

NHỮNG CẢM HỨNG CHÍNH TRONG THƠ THANH THẢO

Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Văn Lân

HÀ NỘI – 2013
1


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................5
1 Lí do chọn đề tài ..................................................................................5
2 Lịch sử vấn đề ......................................................................................6
3 Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu .....................................................11
3.1 Nhiệm vụ nghiên cứu .....................................................................11
3.2 Phạm vi nghiên cứu ........................................................................11
4 Phương pháp nghiên cứu ...................................................................11
5 Cấu trúc luận văn ...............................................................................12
NỘI DUNG ...........................................................................................13
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THƠ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY


VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA THANH THẢO .....................13
1.1 Khái quát về thơ Việt Nam từ 1975 đến nay ..................................13
1.1.1 Thơ Việt Nam thời hậu chiến 1975 – 1985 .................................13
1.1.1.1 Những chuyển biến của thơ từ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
sang thời kỳ hậu chiến ..........................................................................13
1.1.1.2 Những cảm hứng chính trong thơ thời kỳ hậu chiến 1975 –
1985 ......................................................................................................15
1.1.2 Thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 đến nay) ..........................18
1.1.2.1 Những đổi mới trên phương diện nội dung ..............................19
1.1.2.2 Những đổi mới trên phương diện nghệ thuật ...........................21
1.2 Hành trình sáng tác của Thanh Thảo ..............................................23
2


1.3 Quan niệm về nghệ thuật của Thanh Thảo .....................................26
Chương 2: SỰ BIỂU HIỆN NHỮNG CẢM HỨNG CHÍNH TRONG
THƠ THANH THẢO ...........................................................................32
2.1 Khái niệm cảm hứng ......................................................................32
2.2 Cảm hứng sử thi..............................................................................33
2.2.1 Khái quát hiện thực khốc liệt của chiến tranh .............................33
2.2.2 Xây dựng hình tượng sử thi điển hình.........................................36
2.3 Cảm hứng thế sự .............................................................................44
2.3.1 Chiến tranh và người lính ............................................................45
2.3.2 Bức tranh hiện thực cuộc sống ....................................................55
2.3 Cảm hứng đời tư .............................................................................59
2.3.1 Cuộc hành trình tìm về kí ức .......................................................60
2.3.2 Khát vọng tình yêu hạnh phúc.....................................................64
Chương 3 : Nghệ thuật thể hiện những cảm hứng trong thơ Thanh
Thảo ......................................................................................................67
3.1 Thể thơ ............................................................................................67

3.1.1 Thơ tự do .....................................................................................67
3.1.2 Thơ văn xuôi ................................................................................69
3.2 Biểu tượng thơ ................................................................................70
3.2.1 Biểu tượng cỏ ..............................................................................71
3.2.2 Biểu tượng ngọn lửa ....................................................................74
3.3 Ngôn ngữ ........................................................................................78
3


3.3.1 Ngôn ngữ đậm chất đời thường ...................................................79
3.3.2 Ngôn ngữ thơ nhiều khoảng trống...............................................81
KẾT LUẬN ..........................................................................................86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................88

4


MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài
Thanh Thảo là một nhà thơ trưởng thành trong phong trào thơ trẻ vào những
năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, khi trước ông và bên cạnh ông là rất
nhiều nhà thơ đã thành danh, đã khẳng định tên tuổi mình bằng những tác phẩm
bất hủ về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc. Nhưng Thanh Thảo đã tạo
được một tiếng thơ mới mẻ cho nền thơ ca dân tộc bằng một loạt các tác phẩm
thơ và trường ca có giọng điệu rất riêng. Ngay từ những sáng tác đầu tay cho đến
những bài thơ được ông viết ở độ tuổi ngồi 60 đều tốt lên một hồn thơ đầy sức
sống, một hồn thơ Thanh Thảo ham cách tân và dám cách tân cho nền thơ Việt
Nam hiện đại.
Thơ ca cách mạng nói chung và thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ nói
riêng đều mang đậm cảm hứng sử thi, thơ ngợi ca con người đại diện cho phẩm

chất, trí tuệ cộng đồng với lịng dũng cảm, xả thân vì sự nghiệp cách mạng hơn là
nói về con người cá nhân hay con người nhỏ bé trong xã hội. Thơ ít nói đến mặt
trái, đau thương mà thường cổ vũ, thường tuyệt đối hoá cái đẹp, cái cao cả thuộc
về người anh hùng. Vượt ra khỏi khuynh hướng chung đó, thơ Thanh Thảo nặng
về kí ức, kí ức về một thuở “mang gươm đi mở nước”, kí ức về những ngày đầu
kháng chiến chống Pháp của những nghĩa binh áo vải cho đến sau này là những
chiêm nghiệm, những kí ức về cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy hào hùng – nơi
nuôi dưỡng hồn thơ Thanh Thảo. Bên cạnh đó, thơ Thanh Thảo đã mang lại
mn mặt đời thường, ở đó hội tụ cả cái đẹp, cái ác, cái cao thượng, thấp hèn,
niềm vui chiến thắng cùng với nỗi đau của sự mất mát của hi sinh… Nhà thơ
quan niệm thơ bao giờ cũng là chuyện rút gan rút ruột mình ra nên khơng chỉ có

5


thơ viết về chiến tranh mà cả những bài thơ về thể tài cuộc sống đời thường của
ông cũng luôn chất chứa nhiều ưu tư về thế sự, những day dở về cuộc sống của
một nhà thơ giàu tình yêu thương với cuộc đời này. Thơ Thanh Thảo dù viết với
cảm hứng sử thi hay cảm hứng đời tư thế sự thì vẫn ln hấp dẫn người đọc.
Đóng góp của Thanh Thảo cho nền văn học dân tộc là không nhỏ. Nghiên
cứu về thơ Thanh Thảo cũng chính là một lần nữa khẳng định vị trí của nhà thơ
trong làng thơ ca Việt Nam. Vì vậy, trong luận văn này chúng tơi chọn đề tài
Những cảm hứng chính trong thơ Thanh Thảo để nghiên cứu.
2 Lịch sử vấn đề
Sau năm 1975, khi cuộc chiến vệ quốc đã kết thúc, những bộn bề của thời
chiến được xếp lại người ta mới thực sự có thời gian và hồn tồn chủ tâm vào
công việc nghiên cứu. Khi nghiên cứu về thơ và trường ca sau năm 1975, hầu hết
các nhà nghiên cứu khơng thể thốt ra khỏi sự ám ảnh của thơ (bao gồm cả
trường ca) của Thanh Thảo. Những bài viết về thơ và Trường ca sau 1975 đều
nhắc đến ông với tư cách là một trong những nhà thơ tiêu biểu và là người mở

đầu cho sự xuất hiện rầm rộ của trường ca sau 1975.
Dành nhiều tâm huyết nhất, đồng thời cũng là người có nhiều phát hiện và
nhiều thành tựu nhất trong lĩnh vực nghiên cứu về thơ nói chung và trường ca nói
riêng sau năm 1975 là Nguyễn Trọng Tạo, Trần Mạnh Hảo, Bích Thu... Các cơng
trình nghiên cứu của họ không bao giờ vắng mặt Thanh Thảo: “người đóng vai
trị mở đầu cho trường ca viết về chiến tranh sau chiến tranh, với một giọng điệu
riêng, đưa thơ trẻ chống Mỹ lên đỉnh cao đáng tin cậy”. “Có thể nói trường ca
của Thanh Thảo đậm dấu vết cá nhân. Các sáng tác của anh thường mang một vẻ
đẹp trong chính thể, có một hơi trường ca không dễ lẫn. Tác phẩm hấp dẫn người

6


đọc ở ý tứ sâu xa và ở cấu trúc trữ tình – triết lý rất mực tâm trạng” [37, tr. 9798]
Từ lúc mới xuất hiện trên thi đàn đến nay, đời thơ Thanh Thảo đã trải qua
khơng ít những biến cố thăng trầm. Quá trình sáng tạo đối với ông là một hành
trình không thôi kiếm tìm những ngả đường mới cho thi ca. Đồng hành với ơng,
khơng ít những bài báo, bài nghiên cứu, phê bình về thơ ông đã ra đời như những
hồi đáp từ quá trình tiếp nhận. Đó hầu hết đều là những bài viết giá trị và rất đáng
chú ý. Những gợi mở từ đó đã giúp cho người viết đề tài có một nền tảng hỗ trợ
vững chắc khi tiếp cận vấn đề.
Thật ra, thế giới nghệ thuật thơ Thanh Thảo là một mảng đề tài còn khá mới,
từ trước đến nay vốn chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
này. Tuy nhiên, cũng đã có một số bài viết với nhiều góc nhìn khác nhau, cách
tiếp cận khác nhau chạm đến được những độc đáo trong thế giới thơ Thanh Thảo.
Những bài nghiên cứu đó tuy chỉ mới khai thác những góc nhìn hẹp về một khía
cạnh nào đó trong thơ Thanh Thảo, nhưng cũng đã gợi ý rất nhiều cho quá trình
tiếp nhận và nghiên cứu.
Tiêu biểu cho cách tiếp cận từ góc độ đề tài, bài viết “Dấu chân những
người lính trẻ và thơ Thanh Thảo” của Lại Nguyên Ân đã chú ý tìm hiểu chân

dung người lính được phác họa trong thơ Thanh Thảo như “một quan tâm xuyên
suốt, một ý tứ chủ đạo” [3, tr. 45-52]. Trong đó hình ảnh người lính nổi bật nhất ở
những điểm: vẻ đẹp bình thường và vơ danh, chất trẻ, sự tự ý thức về mối quan
hệ giữa cá nhân với cộng đồng và cá nhân với lịch sử. Lại Nguyên Ân cho rằng
thơ Thanh Thảo là sự đan xen nhuần nhị giữa cái cụ thể và cái khái quát, là cảm
quan chân thật về thực tại được trình bày bằng chất giọng trầm, dồn nén. Với

7


phạm vi khảo sát chủ yếu qua tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ và trường ca
Những người đi tới biển, bài viết của Lại Nguyên Ân liên tục soi chiếu hình
tượng người lính trong thơ Thanh Thảo trong tương quan với dịng cảm hứng
chung đương thời. Góc nhìn này đã đóng góp một cách nhận chân giá trị và chất
riêng của thơ Thanh Thảo trong số rất nhiều những tác phẩm cùng viết về mảng
đề tài này.
Cùng cách tiếp cận như Lại Nguyên Ân nhưng lại có cách lý giải khác, Boey
Kim Cheng trong bài viết “Thơ Thanh Thảo chống lại ngày quên lãng” đã
khám phá và phân tích xuyên suốt một “tứ” quan trọng trong thơ Thanh Thảo: đó
là nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh. Trong đó, ơng đặc biệt nhấn mạnh ám
ảnh q khứ, sự tổn thương của con người hậu chiến và khát khao phục dựng một
ký ức vơ tư, hồn nhiên nằm ngồi những hệ lụy của chiến tranh. Boey Kim
Cheng đã có những nhận định rất sâu sắc về vấn đề: “Ký ức, việc thực hiện lời
hứa với quá khứ đang trở nên đặc biệt khẩn thiết tại nước Việt Nam mới, nơi sự
phát triển nóng đang làm rạn nứt đức tin mà những cựu chiến binh như Thanh
Thảo đã vì nó mà chiến đấu. Thơ ông là bằng chứng, cung cấp bằng chứng cho
nỗi đau của những người không thể lên tiếng thể hiện nỗi đau của họ. Đó cịn là
thi ca về sự tồn tại, thứ thi ca có thể giành ý thức về cái đẹp trong những trải
nghiêm hoang sơ và khủng khiếp nhất” [6]. Bài viết mở ra những góc nhìn tinh
tế, đưa ra những kiến giải thuyết phục cho mảng thơ viết về quá khứ của Thanh

Thảo, nhất là nỗ lực tái tạo ký ức, hàn gắn mất mát của nhà thơ. Một đoạn Boey
Kim Cheng viết: “Bằng việc đặt cá nhân vào trong lịch sử và lịch sử vào trong cá
nhân, và đưa quá khứ, dù khó khăn và khủng khiếp đến đâu chăng nữa, vào mối
quan hệ bao quát nào đó với hiện tại, nhà thơ đã hoàn tất một viễn cảnh đem lại
khả năng phục hồi và hàn gắn” [6]. Nhìn từ khía cạnh biểu tượng trong thơ

8


Thanh Thảo, Chu Văn Sơn trong bài “Thanh Thảo – nghĩa khí và cách tân” đã
tập trung nghiên cứu cặp biểu tượng cốt lõi: lửa và nước. Ông cho rằng chính cặp
đối cực này đã tạo nên vẻ đẹp của thơ Thanh Thảo: “Thơ sơ mà hực sáng chính là
cái đẹp Thanh Thảo. Nó sẽ âm thầm dẫn dắt anh tìm đến với những vẻ đẹp sáng
tiềm ẩn ngay trong những gì thơ sơ, giản phác, bình dị, mộc mạc” [30, tr. 17-32].
Cùng nghiên cứu về biểu tượng, Mai Bá Ấn cũng phần nào có sự đồng tình với
Chu Văn Sơn khi cho rằng thơ Thanh Thảo có một sự kết hợp đến mức nhuần
nhuyễn giữa hai đối lập: cỏ xanh và lửa đỏ. Toàn bài Cỏ xanh và lửa đỏ - một đối
lập logic của thơ Thanh Thảo, Mai Bá Ấn đã tập trung khai thác ý nghĩa của hai
hình tượng đặc biệt này. “Cỏ đã được Thanh Thảo chú tâm khai thác để nhằm
qua những h́nh ảnh đơn sơ , bình thường, nâng lên thành những biểu tượng thơ
đầy nghệ thuật nhằm bộc lộ những suy ngẫm tầng sâu về triết lý cuộc sống… Lửa
đỏ trong thơ Thanh Thảo không chỉ là lửa thực hay ngọn lửa tinh thần ta thường
gặp mà anh còn sáng tạo ra những biểu tượng lửa rất lạ như “nước rực cháy”,
“trái tim dịng sơng bốc cháy”, rồi “mặt trời như trái dừa lửa kỳ lạ/ treo trên đầu
tất cả chúng ta” [4, tr. 53]. Mặt khác, khi nghiên cứu về tư tưởng thơ Thanh
Thảo, Chu Văn Sơn trong bài “Thanh Thảo – nghĩa khí và cách tân” cho rằng
“chất người chính là nỗi trăn trở, niềm day dứt cả đời Thanh Thảo”, hơn nữa đó
phải là chất người nghĩa khí, vì “viết về nghĩa khí và viết bằng nghĩa khí là một
mãnh lực của ngòi bút Thanh Thảo” [30, tr. 17-32]. Quan trọng hơn, theo Chu
Văn Sơn, một trong những đóng góp lớn nhất của Thanh Thảo trong hành trình

cách tân thơ là ở bình diện cấu trúc: “Rubic – đó là cấu trúc của thơ”. Sáng tạo
theo cấu trúc rubic chính là “hành vi mà sự cố ý ẩn sâu trong tiềm thức, đẩy
những màu sắc ngẫu nhiên nổi lên như rubic xoay quanh cái trục bí mật của nó”
[30, tr. 17-32]. Qua chuyên luận này, tác giả Chu Văn Sơn đã khám phá thế giới
thơ Thanh Thảo một cách trực diện, lý giải những luận điểm của mình dựa trên

9


chính văn bản thơ với những trích dẫn cụ thể, xác đáng. Nghiên cứu về không
gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong thơ Thanh Thảo, nổi bật nhất có thể
kể đến là khơng gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật trong trường ca Thanh
Thảo của Mai Bá Ấn. Trong đó, ơng đã gọi tên ba cặp khơng gian - thời gian xuất
hiện thường xuyên trong thế giới thơ Thanh Thảo: không gian mở rộng - thời
gian cô đặc, khơng gian chuyển hóa – thời gian đa tuyến, khơng gian hồi tưởng thời gian q khứ. Trong đó ơng đặc biệt nhấn mạnh: “không gian mở rộng và
thời gian cô đặc là quan niệm nghệ thuật quán xuyến trong tồn bộ Trường ca
Thanh Thảo. Trong đó, ta có thể dễ dàng nhận ra, trong thời gian cô đặc ấy,
không gian nghệ thuật mở rộng khá phổ biến và có tần suất xuất hiện cao nhất
trong Trường ca Thanh Thảo chính là khơng gian trời xanh - nơi phát ra những
tia chớp đỏ, không gian rừng núi - nơi phát ra những đám cháy, không gian đồng
bằng với những dấu chân, lối mòn, con đường - nơi tồn tại vĩnh cửu của cỏ xanh,
và không gian biển - nơi của những ngọn sóng, của gió và cát. Tất cả đó đã làm
nên một phong cách Thanh Thảo khá rõ nét qua Trường ca” [4, tr. 98]. Đây là
những đúc kết khá công phu và sâu sắc của Mai Bá Ấn về những phương diện
nghệ thuật đặc sắc trong thơ Thanh Thảo.
Thanh Thảo là một nhà thơ có bề dày sáng tác và hiện vẫn tiếp tục dấn thân
trên con đường thơ ca. Bản thân ơng hồn tồn khơng xa lạ với độc giả hiện đại.
Song song với điều đó, chúng ta cần một sự phân tích, nghiên cứu tương xứng
với sự nghiệp của ơng cũng như những đóng góp khơng thể phủ nhận của ơng
trong q trình cách tân thơ Việt Nam hiện đại. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài

“Những cảm hứng chính trong thơ Thanh Thảo” sẽ đi sâu vào phân tích thế
giới nghệ thuật của nhà thơ, làm nổi bật cái tơi trữ tình của nhà thơ và sáng tỏ thế

10


giới quan, nhân sinh quan sâu sắc của nhà thơ thông qua những biểu tượng nghệ
thuật đặc sắc và những phương tiện hình ảnh, ngơn ngữ, giọng điệu tác phẩm.
3 Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
Chỉ rõ và phân tích những cảm hứng chính trong thơ Thanh Thảo: cảm hứng
sử thi, cảm hứng thế sự, cảm hứng đời tư. Và nghệ thuật biểu hiện những cảm
hứng này trong thơ Thanh Thảo.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Thơ Thanh Thảo qua một số tập thơ tiêu biểu: Dấu chân qua trảng cỏ
(1978), Khối vuông ru bic (1984), Từ một đến trăm (1987), 1 2 3 (2007). Khi
cần thiết, chúng tôi tham khảo thêm một số tập thơ và trường ca khác của Thanh
Thảo.
4 Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành thực hiện luận văn này, chúng tôi dựa trên cơ sở của chủ nghĩa
duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác – Ăng ghen để lý giải
những vấn đề thực tiễn văn học và các vấn đề lý thuyết tư duy.
Cùng với đó, chúng tôi vận dụng một cách tổng hợp những kiến thức về lý luận
văn học, văn học sử và một số phương pháp chủ yếu sau đây:
Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Phương pháp thống kê.

11



Phương pháp so sánh.
5 Cấu trúc luận văn
Với đề tài nghiên cứu “Những cảm hứng chính trong thơ Thanh Thảo, luận
văn gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về thơ Việt Nam từ 1975 đến nay và hành trình sáng tác của
Thanh Thảo
Chương 2: Sự biểu hiện những cảm hứng chính trong thơ Thanh Thảo
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện những cảm hứng trong thơ Thanh Thảo

12


NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THƠ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA THANH THẢO
1.1 Khái quát về thơ Việt Nam từ 1975 đến nay
Sau chiến tranh, thơ Việt Nam chuyển biến khá phức tạp và hình thành nhiều xu
hướng khác nhau. Theo cách hình dung mà giới nghiên cứu văn học đang chấp
nhận, chúng tôi tạm chia sự phát triển của thơ đương đại làm hai giai đoạn: từ
1975 đến 1985 và từ 1986 đến nay. Thực tế sự phân chia này chỉ mang tính qui
ước.
1.1.1 Thơ Việt Nam thời hậu chiến 1975 – 1985
Đại thắng mùa xuân 1975 có ý nghĩa đặc biệt với nhân dân ta: đất nước thống
nhất, non sông liền một dải, một kỷ nguyên mới mở ra cho dân tộc. Sự kiện lịch
sử này đã tác động đến mọi mặt của đất nước, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống
văn học ở cả khía cạnh thuận chiều và khơng thuận chiều. Thơ ca giai đoạn này
có những dấu hiệu của sự phân nhánh với những màu sắc thẩm mỹ khác nhau.
1.1.1.1 Những chuyển biến của thơ từ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
sang thời kỳ hậu chiến
Sau chiến tranh, thơ việt Nam vẫn tiếp tục viết theo cảm hứng cũ, hình thức cũ

như một thói quen, một qn tính của thơ ca thời kỳ Cách mạng. Cảm hứng ngợi
ca là cảm hứng chủ yếu. Phải ít lâu sau, sang đầu những năm 80, trong thơ mới
có những chuyển biến rõ rệt, được thể hiện qua một số tập thơ và bài thơ tiêu biểu
như: Dấu chân qua trảng cỏ của Thanh Thảo 1978, Đường đến thành phố của

13


Hữu Thỉnh 1980, Bài thơ không năm tháng của Lâm thị Mỹ Dạ 1983, Những
điều cùng đến của Vũ Quần Phương 1983, Ánh trăng của Nguyễn Duy 1984,
Người đàn bà ngồi đan của Ý Nhi 1985…
Mười năm sau chiến tranh là chặng đường quán tính của thơ ca cách mạng.
Đời sống nhân dân, thân phận nhà thơ khơng khỏi xót xa trước tình cảnh chung
của đất nước, nhưng thơ vẫn hát theo cảm hứng vui tươi. Nhà thơ và thơ, thân
xác và tâm hồn cứ có những nghịch âm trong một hợp xướng… Thế nhưng ở
chiều sâu của một quá trình chuyển động, thực tế thơ đang có những phương thức
biểu hiện mới. Do tự thân phát triển của thơ, do nhu cầu đổi mới của nhà thơ, thơ
hướng về cá nhân chiêm nghiệm và đối thoại với chính mình, với cuộc sống.
Từ những nhận thức ấy, các tập thơ tiêu biểu của thời kỳ này đã có sự thay
đổi: đề tài chiến tranh, đất nước nhân dân anh hung chuyển dần sang cuộc sống
đời thường, thơ bớt tả mà đi sâu biểu hiện tâm trạng cá nhân, cái tôi trở thành
trung tâm của cảm hứng sáng tạo, hình thức thể hiện phong phú, nhiều tìm tịi. So
với thời kỳ trước, thơ sau 1975 xuất hiện một tư duy nghệ thuật mới: cảm hứng
nghệ thuật bắt nguồn từ chính số phận và kinh nghiệm cá nhân nhà thơ. Thơ đã
có một cái nhìn mới. Các mặt, các khía cạnh khác nhau của hiện thực được soi rọi
bằng một nhận thức mới. nhận thức trong thơ đa dạng đa chiều cả về nội dung và
nghệ thuật. Nguyễn Đức Mậu cho rằng: “Sau chiến tranh và những năm gần đây,
thơ bắt nhịp cuộc sống mới đa chiều hơn, phức tạp hơn. Cảm hứng ngợi ca trong
thơ hôm nay dường như lắng lại, thay vào đó là dịng thơ mang chính nội tâm tác
giả, trước sự bề bộn, lo toan đời thường. Nhà thơ hướng vào nội tâm lấy cái tôi

làm chủ đạo. Sử đổi mới trong thơ hôm nay là trở về với bản chất vốn có của thơ,
tạo ra giọng điệu thích hợp với thời đại mình sống” (Sự đổi mới trong thơ –
Nhân dân chủ nhật, 1989). Ta có thể thấy sự cảm nhận cuộc sống đa chiều thể

14


hiện ở nhiều tập thơ như: Tự hát 1984 của Xuân Quỳnh, Ánh ttrăng 1984 của
Nguyễn Duy, Khối vuông rubic 1985 của Thanh Thảo, Người đàn bà ngồi đan
1985 của Ý Nhi, Ngơi nhà có ngọn lửa ấm 1986 của Nguyễn Khoa Điềm… Có
nhiều bài thơ đã nói lên những suy nghĩ thấm thía về con người, cuộc đời.
Cũng chính thời kỳ hậu chiến này, nhiều nhà thơ đã dồn sức cho việc hồn
thành trường ca, qua đó nói được nhiều hơn, bao quát hơn hiện thực của đất nước
và nhân dân. Hàng loạt trường ca ra đời đã ghi lại dấu ấn khó quên của một thời
đại lịch sử: Những người đi đến biển1977, Những ngọn sóng mặt trời 1982 của
Thanh Thảo, Ngọn giáo búp đa 1977 của Ngô Văn Phú, Thông điệp mùa xuân
1985 của Thu Bồn, Đường đến thành phố 1979 của Hữu Thỉnh, Trường ca sư
đoàn 1980 của Nguyễn Đức Mậu, Đất nước hình tia chớp 1981 của Trần Mạnh
Hảo… Tất cả đã đánh dấu sự cố gắng và trình độ nghệ thuật của các tác giả.
Có thể nói phong trào sáng tác thơ dần trở lại gắn bó hơn với cuộc sống hiện
tại. Khoảng cách giữa thơ và nhà thơ đang dần được rút ngắn lại và khỏa lấp.
Những vấn đề mà trong chiến tranh thơ khơng đụng đến, hoặc có gợi lên thì vẫn
nhằm tới lợi ích cộng đồng, bây giờ đã được khơi sâu nhấn mạnh, khẳng định:
nỗi buồn riêng, thân phận cá nhân, những phía chìm, mặt khuất của thế giới nội
tâm, vấn đề muôn thuở của con người… Thơ lúc này khơng phải chỉ là tả, là kể,
là trình bày mà là biểu hiện hiện thực bằng những tâm trạng, những cá tính sáng
tạo độc đáo, nhờ vậy vừa phản ánh cuộc sống, thơ vừa đi vào tầng sâu, vùng xa
của tình cảm con người. Và có những mảng hiện thực đến bây giờ chủ thể sáng
tạo mới đủ bản lĩnh, đứng ở một tư thế mới và yêu cầu mới để biểu hiện một cách
trung thực và tạo nên chất lượng thẩm mỹ mới cho thơ.

1.1.1.2 Những cảm hứng chính trong thơ thời kỳ hậu chiến 1975 – 1985

15


Những năm trước đây, nhà thơ với tư cách là cơng dân, là chiến sĩ trên mặt
trận văn hố văn nghệ đã làm tốt phần việc của mình. Giờ đây tiếp tục nhận thức
về trách nhiệm đó, nhà thơ vẫn đóng vai trị là người cổ vũ động viên quần
chúng. Với thế hệ các nhà thơ chống Mỹ, trữ tình công dân vẫn là mạch nguồn
quan trọng. Cảm hứng ngợi ca trước hết là một thái độ, một rung động chân thành
trước thực tế đất nước đang phải đối mặt với cuộc chiến tranh mới. Tình cảm
cơng dân, tinh thần yêu nước lại một lần nữa bùng lên ở mỗi người, nhất là ở nhà
thơ có phần nhạy cảm. Mặt khác những giá trị tinh thần cộng đồng được tồn tại
bền vững qua nhiều thời gian, trong những ngày kháng chiến chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ, càng được khẳng định chói sáng, khơng dễ dàng bị phai nhạt.
Hơn nữa chính các nhà thơ đã từng nếm trải gian lao thử thách, hi sinh và tự
nguyện, tự giác hoà chung một giọng điệu, cất cao lời thơ ca ngợi đất nước do
những yêu cầu tất yếu của lịch sử. Vì vậy, hậu chiến, hồn cảnh cịn những tương
đồng, tâm trạng nghệ sỹ vẫn chưa thôi xúc động về Tổ quốc nhân dân.
Có điều nhân dân trong thơ lúc này hiện lên với những cảm nhận cụ thể sinh
động, sâu sắc hơn: chiến công và cái giá phải trả, chiến thắng và những mất mát
hi sinh. Trong các trường ca, nhân dân là hệ qui chiếu, là điểm tựa cho mọi tư
tưởng, cảm hứng. Nhân dân hiện lên qua hệ thống hình tượng người chiến sĩ, bà
mẹ, người vợ…, hình tượng tập thể với sức mạnh kỳ vĩ.
Xét tới cùng, cảm hứng ngợi ca trong thơ những năm thời kỳ hậu chiến
được quy định bởi khơng khí xã hội, thái độ của nhà thơ lúc đó. Xã hội cần ổn
định phát triển, cần khẳng định những việc đã qua là đúng, là chân lý đáng tự
hào. Và hiện tại là đẹp đáng sống dù hiện tại còn bộn bề vất vả, nhưng đất nước
sẽ tươi đẹp, giàu mạnh. Tố Hữu đã tin tưởng thật nhiều:


16


“Ta sống thật đây, gian khổ đêm ngày
Mà cứ tưởng bay trong mơ ước
Bữa cơm khoai, ít cá nhiều rau
Mà ngăn sông làm điện, khoan biển làm dầu
Chân dép lốp
Mà lên tàu vũ trụ”.
( Một nhành xuân )
Các thế hệ nhà thơ cùng đứng vào dàn đồng ca, ca ngợi để giữ niềm tin, để định
hướng cuộc sống. Nhưng cũng chính từ dàn đồng ca lãng mạn ấy đã bắt đầu xuất
hiện những giọng trầm có dư vang. Cùng với cảm hứng ca ngợi, thơ bắt đầu
chuyển sang cảm hứng đời tư thế sự. Thơ chuyển từ hiện thực mô tả cách mạng
sang biểu hiện hiện thực riêng tư hàng ngày, thường xuất hiện qua những mơ típ:
tơi một mình, tôi suy tư triết lý về thân phận cá nhân, về cuộc đời. Thực ra cảm
hứng đời tư, hạnh phúc gia đình, tình u đơi lứa lúc này vẫn cịn ngượng ngập
nhưng cảm hứng thế sự đã tìm được hướng đi và cũng phải đến đầu những năm
80, trước khi sự nghiệp đổi mới diễn ra trên qui mô cả nước, mới phát triển.
Cái tơi suy tư đích thực xuất hiện trong thơ Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Ý
Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ… và trở lại ở những nhà thơ lớn trụ cột của nền thơ cách
mạng. Chế Lan Viên đã sớm nhận ra trong thơ có sự thay đổi cảm hứng, thay đổi
đối tượng mà cất lên:
“Những nhà thơ bỏ các đề tài khống đạt
Về trong phịng con ngột ngạt
Như con hổ đại ngàn
Hoá chú mèo con”
(Đề tài )

17



Nếu như ở các bài thơ mang cảm hứng ngợi ca, con người được nhìn nhận
nghiêng bề nổi, phía hành vi cuộc sống quan hệ với vận mệnh cộng đồng dân tộc
thì ở cảm hứng thế sự thơ chú ý phân tích lý giải con người ở nhiều bình diện, cả
bề nổi lẫn bề chìm, cả mặt ổn định lẫn dao động, cả phần ý thức lẫn vô thức.
Nguyễn Duy trong Đánh thức tiềm lực 1982, Bằng Việt trong Khoảng cách
giữa lời 1983, Lâm Thị Mỹ Dạ trong Bài thơ không năm tháng 1983, Xuân
Quỳnh trong Tự hát 1984, Ý Nhi trong Người đàn bà ngồi đan 1985… khao
khát tìm lại mình, tìm lại những giá trị đích thực trong cuộc đời, tình u bằng
những rung động chân thành, thơng cảm, sẻ chia cùng những lo toan trách nhiệm.
Bằng những khảo sát trên mặt bằng thơ mười năm thời hậu chiến, cảm hứng
ngợi ca vẫn nổi trội và tâm lý thị hiếu người đọc, người làm thơ vẫn hướng về vẻ
đẹp, kỉ niệm bi tráng cùng hiện tại nhiều dự cảm lãng mạn. Cảm hứng thế sự còn
là mạch ngầm, khởi động nhưng đó chắc chắn là sự chuẩn bị cho những bứt phá
mạnh mẽ sau 1985.
1.1.2 Thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 đến nay)
Năm 1986, sự nghiệp đổi mới đã diễn ra ở mọi cấp độ đã làm thay đổi diện
mạo đất nước, ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng tình cảm và tư duy sáng tạo nghệ
thuật của các nhà thơ cũng như các văn nghệ sĩ nói chung. “Phát huy yếu tố con
người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động”
(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI - Đảng cộng sản Việt Nam) là
định hướng quan trọng cho mọi suy nghĩ và hành động. Trước đây, con người cá
nhân nhà thơ đôi khi phải sống trong ngụy tạo, chưa có sự thống nhất giữa hình
thức bên ngồi và nội dung bên trong. Thậm chí, ngay những năm đầu hồ bình,
đời sống văn học nghệ thuật có nhiều chuyển biến, một số nhà thơ vẫn còn ở

18



trạng thái phân đơi: thực tại khó khăn mà thơ cứ ca hát, lãng mạn. Từ sau 1985,
thơ vẫn tiếp tục những cố gắng của thời kỳ tiền Đổi mới: cái tơi nhà thơ được
khẳng định, cá tính sáng tạo được tôn trọng, con người cá nhân được đặt ở vị trí
ưu tiên. Bên cạnh giọng điệu ngợi ca, thơ mở ra và chấp nhận nhiều giọng điệu,
nhiều sắc thái tâm lý: nỗi buồn, cô đơn, tâm trạng xao xuyến không yên… của
thời mở cửa, kinh tế thị trường phát triển. Trên cái mặt bằng thơ ấy, chúng ta có
thể nhận chân được giá trị đích thực và những bài học cho phong trào sáng tác
thơ.
1.1.2.1 Những đổi mới trên phương diện nội dung
Từ sau 1985, cái tôi cá nhân trong thơ được nhận thức và đề cao một cách rõ
rệt. Nét nổi bật của thơ từ giai đoạn này là khẳng định con người cá tính. Được
thể hiện ở ngay tên gọi của nhiều tập thơ, bài thơ: Tôi vẽ mặt tôi của Lê Minh
Quốc, Tôi gọi tôi của Đinh Thị Thu Vân, Người đi tìm mặt của Hồng Hưng…
Thơ trở về với đời tư, cái tôi được biểu hiện và trở thành một khát vọng vừa âm
thầm vừa mãnh liệt:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chả có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời khơng cịn nữa
Nhưng biết u anh cả khi chết đi rồi”
(Tự hát – Xn Quỳnh)
Đó cịn là cái tơi khơng giấu diếm, tìm mọi cách khẳng định mình, thể hiện
mình; cái tơi trải nghiệm, đau khổ xót xa, triết lý về một thời phải biến dạng, ẩn
hình; cái tơi giờ đây nhận ra sự nhỏ bé hữu hạn của mình; cũng có khi là cái tơi tự
tin, hi vọng nhưng rất tội nghiệp… Thơ đã cố gắng và đã thành công trong việc

19


phản ánh cái tơi bản ngã đích thực chứ khơng phải là con người của lý trí bỏ quên
cái riêng cá nhân.

Cùng với khẳng định cái tôi cá nhân, thơ Việt Nam từ sau đổi mới còn thể
hiện những quan niệm về con người, sự sống và cái chết. Chiến tranh đã đi vào
quá khứ, cuộc sống đặt ra nhiều so sánh, đối nghịch, những trải nghiệm trong đời
sống, những mất mát đã qua và những thiệt thịi khơng bao giờ bù đắp được…
đều tạo nên những cảm hứng cho thơ. Nhà thơ Phùng Khắc Bắc suy nghĩ và
chiêm nghiệm:
“Chết là hết
Mọi cái đều khơng
Vì ta khơng chết trên chiến địa
Vì vết thương này khơng chứng minh được ta là liệt sĩ”
(Ta chết đây)
Và khác với thơ kháng chiến, thơ bây giờ không tồn tại những phạm trù khái
quát, những biểu tượng cao vời mà hiện hình trong những đường nét cụ thể,
những con người, những mái đình, ngày hội quê hương… Thơ viết nhiều về
người mẹ, người bà, người thân với những cảm xúc chân thành biết ơn xen lẫn
chút gì đó ăn năn của kẻ đã một thời lãng qn, vơ tình với những gì thân u
nhất:
“Hai mươi năm xa cách quê hương
Tóc sắp bạc lần đầu về giỗ mẹ”
(Xuân Tùng)
“Thương cha tóc bạc như mây trắng
Cỡi gió đồng hanh gánh lúa về

20


Bụi hoa phố hội con nào biết
Mồ hôi sinh thành ướt đẫm chân đê”
( Phan Hoàng)
Trở về quá khứ, thơ cũng trở về với thiên nhiên, mượn thiên nhiên để gửi

gắm tình người. Thiên nhiên trong thơ như một đối tượng để nhìn ngắm, bầu bạn
tâm sự và chiêm nghiệm. Nữ thi sĩ Ý Nhi có lần từng giãi bày:
“Đơi lần
Em nhìn tán cây mà ứa nước mắt
Vì màu xanh
Đơi lần
Em nghe tiếng chim khuyên mà ứa nước mắt
Vì sự trong trẻo”.
(Vườn 1)
Cái tôi nhà thơ giờ đây đã thực sự đối diện đời thường. Thơ miêu tả xoáy
sâu vào những vết đau hiện hữu của xã hội, đất nước, những tệ quan liêu, cửa
quyền, thói cơ hội, nhiều tật xấu, đặc biệt những vấn đề số phận con người trong
mơi trường mới đang có sự xuống cấp, báo hiệu lương tâm con người đang dần bị
tha hoá. Thơ phê phán để khẳng định và hướng tới cái cao cả, cái mn thuở của
con người. Nghệ sỹ nhìn hiện thực với nỗi lo âu về sự xuống cấp của nhân cách
và những giá trị tinh thần, điều này có thể thấy qua tập thơ Một chấm xanh của
Phùng Khắc Bắc và Sự mất ngủ của Nguyễn Quang Thiều, những tập thơ được
đánh giá như là tiếng nói có trách nhiệm tới những vấn đề thế sự nhân sinh.
1.1.2.2 Những đổi mới trên phương diện nghệ thuật

21


Từ những đổi mới từ phương diện nội dung, đổi mới cảm hứng thẩm mỹ,
quan niệm thơ đã dẫn tới sự đổi mới nghệ thuật biểu hiện. Hình thức thơ đã đổi
mới sao cho phù hợp với nội dung cảm hứng thơ. Chúng ta có thể nhận thấy sự
thay đổi diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc trên hai mặt thể loại và ngơn ngữ thơ.
Đầu tiên đó là sự đa dạng cấu trúc thể loại: trường ca thực sự thưa thớt và
bài thơ ngắn có khi rất ngắn xuất hiện nhiều. Thơ tự do, thơ không vần, thơ văn
xuôi phát triển đem lại thuận lợi cho việc thể hiện cảm xúc. Câu thơ vắt dòng,

xuống dòng, leo thang tạo dáng mới. Thơ cổ được phục hồi và có sự sáng tạo,
nâng cao. Đặc biệt là sự trở lại của thể thơ lục bát dân tộc với sức sống bền vững
và nhiều biến hoá. Nguyễn Trọng Tạo thật tài hoa trong việc biến thể lục bát:
“Chia cho em một đời tơi
Một cay đắng
Một niềm vui
Một buồn”
( Chia)
Cùng với đó là thơ bảy chữ cũng tạo ra nhiều biến thể phóng túng, nhấn
mạnh ý, hình ảnh, cảm xúc thơ; hình dáng bài thơ, cấu trúc bài thơ phong phú; có
thơ ngắn và thơ cực ngắn, cả bài thơ chỉ ba câu, hai câu, có khi một câu. Thơ văn
xi cũng khẳng định vị trí của mình. Câu thơ dài rộng chứa chất nhiều tâm sự,
có khi bộc bạch những trải nghiệm cá nhân, có lúc trầm tư suy nghĩ hoặc triết
luận về thế sự.
Như vậy, cùng tồn tại với thể thơ dân tộc, thơ có những tìm tịi đổi mới, làm
cho thơ có dáng vẻ hiện đại hơn và nhất là để thơ biểu hiện đúng hơn nội dung

22


cảm xúc đầy những phức tạp, có khi đối cực trong tâm trạng chủ thể trữ tình
trước cuộc sống mới nhiều biến động.
Ngôn ngữ thơ trước đây trang trọng, sử dụng nhiều ngơn ngữ sử thi thì giờ
trong sáng, giản dị, là ngôn ngữ đời thường. Loại ngôn ngữ này nhằm góp phần
thể hiện trực tiếp tình cảm, tạo cảm giác thuận, thoải mái trong tiếp nhận. Ngơn
ngữ thơ cịn giàu sức gợi, tạo nghĩa mờ, hàm ngôn. Nhiều từ ngữ được chọn lọc,
gia công kỹ làm tăng thêm chất biểu cảm. Lê Đạt tìm chữ, chọn chữ, làm chữ tạo
nghĩa mới. Nhà thơ tạo chữ để hiện lên những câu thơ tạo nghĩa, các hình ảnh, ý
thơ chứa đựng nhiều nghĩa: “Hè thon cong thân nắng cựa mình” (Nụ xuân).
Hệ thống ngôn ngữ phong phú, đa dạng, nhiều kiểu loại từ ngữ, ít gặp trong

thơ trước 1975, làm cho thơ “đời” hơn và cũng “bụi” hơn. Nhưng mặt khác có
những tìm tịi câu chữ tiếp tục cách tư duy của những năm trước 1945, có những
sáng tạo mới, gây đột biến táo bạo nhằm đi đến một cách tân thực sự triệt để. Tất
nhiên, đa phần các nhà thơ vẫn giữ cho mình một ngơn ngữ gần gũi, một tiếng
nói cảm thơng, dù thế giới nội tâm mở ra nhiều chiều, nhiều hướng.
1.2 Hành trình sáng tác của Thanh Thảo
Là nhà thơ và nhà báo, sinh năm 1946 ở Quảng Ngãi, lớn lên ở Hà Nội, tốt
nghiệp khoa văn đại học Tổng hợp Hà Nội, Thanh Thảo hiện nay sống và làm
việc tại quê nhà Quảng Ngãi. Trong chiến tranh chống Mỹ, Thanh Thảo là phóng
viên tác nghiệp chiến trường, phóng viên chương trình phát thanh Qn đội nhân
dân của đài tiếng nói Việt Nam. Là thành viên hội đồng thơ, hội nhà văn Việt
Nam, Thanh Thảo được trao giải thưởng Nhà nước về văn học năm 2001, giải
thưởng Hội nhà văn cho tập thơ Những dấu chân qua trảng cỏ năm 1978 và giải
thưởng của bộ quốc phòng năm 1996 cho trường ca Những ngọn sóng mặt trời.

23


Cũng như một số cây bút cùng thời với mình như Nguyễn Khoa Điềm,
Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy… vào chiến trường, Thanh Thảo vừa tham gia
chiến đấu vừa sáng tác văn học. Và ông cũng sớm khẳng định được vị trí của
mình trên thi đàn thơ ca chống Mỹ. Từ bài thơ đầu tay ra đời trong khơng khí rát
bỏng của chiến trường, tới nay, thơ Thanh Thảo đã đi trọn chặng đường bốn
mươi năm. Bốn mươi năm ấy, Thanh Thảo đã trải qua khơng ít thăng trầm.
Nhưng nhà thơ vẫn ln ln chung thuỷ với cái nghiệp mà mình đã chọn. Điều
đáng trân trọng ở Thanh Thảo là ông đã đem đến cho thơ ca ViệtNam nhiều nét
mới mẻ trên con đường hội nhập. Không ngừng lao động sáng tạo, khơng ngừng
tìm tịi đổi mới thơ ca, thơ Thanh Thảo đã thực sự chinh phục được bạn đọc nhiều
thế hệ.
Vào chiến trường năm 1971, năm 1972 Thanh Thảo viết Thử nói về hạnh

phúc. Bài thơ đến được tay Chế Lan Viên (người đang phụ trách trang thơ tạp chí
Tác phẩm mới của Hội Nhà văn) nhưng vì bài thơ có phần đau thương quá nên
nhà thơ Chế Lan Viên chưa cho in. Sau này, khi được hỏi về bài thơ đầu lòng
“duyên may phận rủi ấy” ấy, Thanh Thảo tâm sự: “Nó gây ngạc nhiên thì đúng
hơn, vì nó viết rất thật về chiến tranh, về những hi sinh mất mát, về cả quan điểm
của một người lính trẻ khơng chịu chết cho một tín điều mù qng nào, mà chỉ
chết cho đất nước của mình” [49]. Sau đó khơng lâu, Thanh Thảo viết và gửi đến
tồ soạn một chùm 13 bài thơ. Mười ba bài thơ của một người lính trẻ đã thực sự
chinh phục nhà biên tập cẩn trọng Chế Lan Viên. Và Chế Lan Viên đã làm một
công việc xưa nay chưa từng làm: cho in một loạt 13 bài thơ của người lính trẻ từ
chiến trường miền Nam gửi ra và “Thi đàn chống Mỹ từ đấy có Thanh Thảo”.
Chính những “quả đầu mùa” ấy đã làm nên gương mặt thơ Thanh Thảo trước
năm 1975 như Thiếu Mai đã khẳng định: “Thơ Thanh Thảo có dáng riêng”. Và

24


cũng từ thời điểm ấy, Thanh Thảo đã đem đến cho độc giả “một thực đơn tinh
thần mới mẻ và độc đáo”, làm phong phú thêm cho tiếng nói chung của thi đàn
thời chống Mỹ.
Có thể khẳng định giai đoạn từ 1975 đến 1985 là thời kì sáng tác sung sức
nhất của Thanh Thảo. Sau chiến tranh, tác giả có được quãng lùi thời gian cần
thiết để có một cái nhìn sâu hơn về những vấn đề mà ơng đã nghiền ngẫm trong
chiến tranh. Thanh Thảo đã tìm đến trường ca và thể loại này đem lại cho nhà thơ
nhiều thành tựu. Và ông được xem là “ông vua trường ca” (Chu Văn Sơn).
Trường ca đầu tiên gây tiếng vang lớn đó là Những người đi tới biển (1976).
Tiếp sau đó là một loạt 7 trường ca khác: Trẻ con ở Sơn Mỹ (1976 – 1978),
Những nghĩa sĩ Cần Giuộc (1978 – 1980), Bùng nổ của mùa xuân (1980 –
1981), Đêm trên cát (1982), Trò chuyện với nhân vật của mình (1983), Cỏ vẫn
mọc (1983), Khối vng rubic (1984). Tám trường ca trong khoảng mười năm

quả là một thành tựu đáng nể đối với một nhà thơ. Tuy nhiên, chỉ có 6 trường ca
được xuất bản trước 1985, cịn lại hai trường ca Trị chuyện với nhân vật của
mình và Cỏ vẫn mọc vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà mãi đến năm 2002 mới
được xuất bản. Trong khoảng thời gian này, Thanh Thảo còn sáng tác khá nhiều
thơ ngắn nhưng chưa có tuyển tập riêng. Chỉ có tập Khối vuông rubic xuất bản
năm 1985 cùng với trường ca cùng tên của nhà thơ. Sau này, Thanh Thảo cho
xuất bản tập thơ Thanh Thảo 70, tuyển những bài thơ được tác giả viết trong
những năm 70 của thế kỉ trước. Đây là kết quả của một đời lao động nghệ thuật
đầy đam mê và nghiêm túc của một nhà thơ “giàu nghĩa khí”. Mỗi sáng tác của
Thanh Thảo đều thể hiện một phong cách thống nhất, độc đáo của một cây bút
ham cách tân, dám dấn thân trên con đường cách tân văn học. Thơ Thanh Thảo
thực sự đã góp phần thúc đẩy q trình hiện đại hố thơ ca ViệtNam hiện đại.

25


×