Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong xây dựng nông thôn mới qua thực tiễn tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (885.92 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

QUÁCH THỊ HƯƠNG

THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
QUA THỰC TIỄN TỈNH HƯNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Chính trị học

Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

QUÁCH THỊ HƯƠNG

THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
QUA THỰC TIỄN TỈNH HƯNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số 60.31.02.01

Người hướng dẫn: PGS, TS Vũ Hồng Cơng



Hà Nội - 2013


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................................ 5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................... 7
6. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 7
7. Kết cấu luận văn: ....................................................................................... 8
CHƢƠNG I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ Ở NÔNG THÔN ............................................................................ 9
1.1. Vấn đề dân chủ trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng
....................................................................................................................... 9
1.2. Thực hiện Quy chế dân chủ ở nông thôn Hƣng Yên từ năm 1998-2010
..................................................................................................................... 27
1.3. Kết quả, hạn chế, bài học kinh nghiệm trong khi thực hiện quy chế dân
chủ ở xã, phƣờng, thị trấn ........................................................................... 30
Kết quả thực hiện ............................................................................................ 30
Hạn chế, thiếu sót........................................................................................... 33
Bài học kinh nghiệm ...................................................................................... 34
CHƢƠNG 2. THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG BỐI
CẢNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI ..................................................... 37

2.1.Chủ trƣơng xây dựng nông thôn mới của Đảng và Nhà nƣớc .............. 37
2.1.1 Quan điểm của Đảng ...................................................................... 37
2.1.2 Phƣơng hƣớng ............................................................................... 41
2.1.3 Giải pháp ........................................................................................ 41
2.2. Hƣng Yên trong quá trình triển khai xây dựng nông thôn mới ........... 45
2.2.1 Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của tỉnh Hƣng Yên hiện nay 45
Điều kiện tự nhiên ................................................................................... 45
2.2.2. Vai trị cấp ủy Đảng, chính quyền, các đồn thể trong xây dựng
nông thôn mới thời gian qua .................................................................. 50
2.2.3 Vấn đề thƣ̣c hiê ̣n quy chế dân chủ trong xây dựng nông thôn mới58
Nông thôn trải qua xây dựng nơng thơn mới đã có bước trưởng thành nhất định67
2.2.4 Những vấn đề đặt ra trong điều kiện xây dựng Nông thôn mới .... 73
2.2.5. Giải pháp nâng cao hiệu quả quy chế dân chủ trong xây dựng nông
thôn mới .................................................................................................. 76
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 87
Kiến nghị đề xuất ............................................................................................ 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 89

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

stt

Cụm từ viết tắt

Viết đầy đủ

1


CNXH

Chủ nghĩa xã hội

2

QCDC

Quy chế dân chủ

3

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

4

NTM

Nông thôn mới

5

HĐND

Hội đồng nhân dân

6


SDĐ

Sử dụng đất

7

MTQG

Mục tiêu quốc gia

8

GTNT

Giao thông nông thôn

9

BCĐ

Ban chỉ đạo

10

UBND

Ủy ban nhân dân

11


UBTVQH

Ủy ban thƣờng vụ quốc hội

12

HTCT

Hệ thống chính trị

13

CNH,HĐH

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

14

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

15

TBCN

Tƣ bản chủ nghĩa

2



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ln coi trọng tƣ
tƣởng ''Lấy dân làm gốc" và có nhiều thành cơng trong việc phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng nhƣ trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. “Khơng thể có một CNXH
thắng lợi mà lại khơng thực hiện dân chủ hoàn toàn” [31, tr.324]. Trong điều
kiện hiện nay khi Đảng và nhà nƣớc đang phát động phong trào thi đua cả nƣớc
chung tay xây dựng nông thôn mới và phấn đấu đến năm 2020 nƣớc ta trở thành
nƣớc cơng nghiệp phát triển, thì điều quan trọng phải biết huy động đƣợc sức
dân tham gia vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.
Đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, những năm qua, Đảng
và Nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều Nghị định, Chỉ thị quan trọng về dân chủ
trên các loại hình cơ sở nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân
dân để phát triển kinh tế - xã hội ổn định chính trị: Chỉ thị 30- CT/TW của Bộ
Chính trị (Khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Chỉ
thị 22/1998/CT-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về việc triển khai thực hiện
QCDC ở xã; Nghị định số 79/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành quy chế
thực hiện dân chủ ở xã, Pháp lệnh 34/2007/PL của Ủy ban thƣờng vụ quốc
hội về thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn, Nghị định 71/1998
quy định về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan hành chính và Nghị định
07/1999 quy định về Quy chế dân chủ ở doanh nghiệp nhà nƣớc... Đây là một
bƣớc tiến lớn thể hiện sự quyết tâm củng cố, hoàn thiện và phát triển nền dân
chủ XHCN của Đảng và Nhà nƣớc ta, đồng thời cũng là phƣơng thức giải
quyết các nhiệm vụ, mục tiêu chung của đất nƣớc trong công cuộc đổi mới.

3



Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định vị trí và
tầm quan trọng của dân chủ nhằm mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh.
Thực tiễn cho thấy ở đâu cấp ủy đảng nhận thức rõ và quan tâm chăm
lo đúng mức tới việc triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở thì ở đó kinh tế phát
triển, đời sống nhân dân cải thiện, chính trị ổn định, củng cố niềm tin của
Đảng, chính quyền với nhân dân. Ngƣợc lại nếu ở địa phƣơng nào thiếu quan
tâm đến dân chủ và thực hiện dân chủ hình thức, qua loa thì ở đó chính trị
mất ổn định, đời sống nhân dân gặp khó khăn, đơn thƣ vƣợt cấp kéo dài dẫn
đến mất ổn định chính trị trở thành điểm nóng nhƣ Thái Bình, Hƣng Yên đã
từng xảy ra.
Hƣng Yên là tỉnh nằm ở trung tâm châu thổ Sông Hồng, thuộc tam
giác kinh tế trọng điểm miền Bắc (Hà Nội - Hải Phịng - Quảng Ninh) có
nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nhờ đó Hƣng Yên có
thể chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế, theo hƣớng cơng nghiệp hóa – hiện đại
hóa. Nơng nghiệp nơng thơn có nhiều chuyển biến tích cực, hiê ̣n nay các xã
trong toàn tỉnh đang hăng hái thực hiện phong trào thi đua “Cả nƣớc chung
tay xây dựng nông thôn mới”.
Quan điểm cốt lõi trong xây dựng nông thôn mới là phong trào quần
chúng rộng lớn, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, có sự tham gia
tích cực chủ động của mỗi ngƣời dân, mỗi cộng đồng dân cƣ, cần phát huy
dân chủ và sự đóng góp của mỗi ngƣời dân, dựa vào dân để xây dựng nông
thôn mới. Do vậy vấn đề dân chủ là rất quan trọng, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực, là giải pháp mấu chốt, quyết định sự thành công trong xây dựng
nông thôn mới.
Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Hƣng Yên đến nay đã
đƣợc ba năm bƣớc đầu đã đạt đƣợc kết quả ban đầu đáng mừng (nhƣ cơ sở hạ
tầng đƣợc xây dựng và củng cố, đời sống nhân dân đƣợc cải thiện, bộ mặt


4


nông thôn văn minh và ngày càng đổi mới). Song cũng còn nhiều việc phải
làm, nhiều vấn đề nảy sinh phải giải quyết.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên tôi chọn đề tài thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở trong xây dựng nông thôn mới qua thực tiễn ở tỉnh Hƣng Yên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dân chủ, dân chủ ở cơ sở, quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
từ lâu đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà khoa học, những ngƣời làm
công tác lý luận nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Cho đến
nay đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này của các
cá nhân, tập thể đƣợc cơng bố. Ví dụ các cuốn sách nhƣ:
- Bàn về một số vấn đề về nông thôn nƣớc ta hiện nay - GS Hồ Văn Thông.
-Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tiến trình đổi mới - GS
Hồng Chí Bảo.
- Hệ thống chính trị cơ sở - TS Vũ Hồng Cơng - NXB chính trị Quốc
gia năm 2002.
Và rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học, các đề tài
đã đƣợc nghiệm thu, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, về vấn đề dân chủ
cơ sở nhƣ.
- Luận văn thạc sỹ triết học của thạc sỹ Vũ Quỳnh Lê: Đề tài Thực hiện
dân chủ ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
- Luận văn thạc sỹ triết học của thạc sỹ Dƣơng Thị Khánh Ly Đề tài
Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình hiện nay.
Các cơng trình nghiên cứu kể trên đã đi sâu nghiên cứu việc thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với việc tăng cƣờng củng cố, hồn thiện hệ
thống chính trị ở cơ sở. Các cơng trình đó cũng đã cố gắng làm rõ bản chất,
nội dung, tính chất và cơ chế thực hiện dân chủ ở cơ sở nhất là trong điều

kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Các tác giả cũng đã phân tích, lý giải, yêu cầu,

5


chỉ ra phƣơng hƣớng và giải pháp nhất định nhằm bảo đảm thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở nâng lên tầm cao mới phù hợp với xu hƣớng của thời đại. Đó
là những kết quả bƣớc đầu là tƣ liệu quý giá để tác giả tham khảo kế thừa tiếp
thu để tiếp tục làm căn cứ nghiên cứu đề tài.
Tuy nhiên từ khi phát động phong trào xây dựng nơng thơn mới thì
chƣa có cơng trình nghiên cứu nào về dân chủ cơ sở trong xây dựng nông
thôn mới.
Từ đó nghiên cứu đề tài thực hiện quy chế dân chủ trong xây dựng
nông thôn mới qua thực tiễn tỉnh Hƣng Yên và có đóng góp của luận văn về
lĩnh vực xây dựng nơng thơn mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích thực trạng việc thực
hiện quy chế dân chủ, chỉ ra những hạn chế, tồn tại:
-Bƣớc đầu hệ thống hóa vấn đề lý luận trong trong xây dựng nơng
thơn mới.
-Đề xuất những kiến nghị nâng cao chất lƣợng quy chế dân chủ ở cơ
sở và giải pháp để thực hiện QCDC trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh
Hƣng Yên hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ vai trị ý nghĩa của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
đối với phát triển nơng thơn nƣớc ta nói chung, tỉnh Hƣng n nói riêng.
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện
QCDC trong xây dựng nông thôn mới ở của tỉnh Hƣng Yên.
- Đề xuất những phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Hƣng Yên.


6


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu về vấn đề
dân chủ và thực hiện dân chủ trong xây dựng nông thôn mới ở nông thôn tỉnh
Hƣng Yên hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu việc thực hiện QCDC ở các xã,
phƣờng, thị trấn ở tỉnh Hƣng yên (Từ năm 1998 đến nay). Trong đó tập
trung vào giai đoạn 2011-2013 (từ khi triển khai phong trào xây dựng
nông thôn mới).
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, các chủ trƣơng,
chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Bên
cạnh đó, kế thừa, chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số nhà khoa
học đã đƣợc công bố về vấn đề dân chủ cơ sở.
Phương pháp nghiên cứu: Từ góc độ chính trị xã hội vận dụng các
phƣơng pháp lơgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp và so sánh, đồng thời sử
dụng phƣơng pháp điều tra xã hội học để thực hiện luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
-Phân tích q trình thực hiện QCDC ở cơ sở từ khi triển khai phong trào xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Hƣng Yên.
- Khái quát những thành tựu bƣớc đầu; những hạn chế và nguyên nhân thực
hiện dân chủ trong xây dựng nông thôn mới.
-Đề xuất những phƣơng hƣớng và những giải pháp cụ thể, phù hợp, đáp ứng
yêu cầu xây dựng nông thôn mới của tỉnh.

7



7. Kết cấu luận văn:
Gồm: phần mở đầu, 2 chƣơng, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu
tham khảo.

8


CHƢƠNG I
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ Ở NÔNG THÔN

1.1.

Vấn đề dân chủ trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của
Đảng
Xung quanh quan niệm về dân chủ, cho đến nay đã có nhiều cơng

trình khoa học nghiên cứu, luận bàn. Ở đây chúng tơi chỉ kế thừa và nêu lên
một số nét có tính chất khái quát.
Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính trị
có nguồn gốc từ xã hội Hy Lạp cổ đại. Ở đây, "dân chủ" là một từ ghép bao
gồm hai chữ: Dêmos, có nghĩa là ngƣời bình dân, là dân chúng (khơng phải là
quý tộc, cũng không phải là nô lệ), và Kratia - có nguồn gốc từ chữ Kratos có nghĩa là quyền lực cai trị, sức mạnh. Do vậy, từ nguyên Dêmos Kratia có
nghĩa là dân chủ, quyền lực, là sự thống trị, nền cai trị của ngƣời bình dân. Nó
đƣợc biểu hiện theo nghĩa đối lập với chế độ độc tài. Theo đó, dân chủ có
nghĩa là quyền lực của nhân dân; dân chủ là sự cai trị của nhân dân. Nhân dân
là chủ thể của quyền lực, sử dụng quyền lực, trong đó quyền lực chính trị là
quan trọng nhất để tổ chức, quản lý xã hội, thực hiện sự nghiệp giải phóng xã
hội, giải phóng con ngƣời.

Từ khi xuất hiện cho đến nay nội dung của khái niệm dân chủ đƣợc chuyển
hóa ra nhiều ngơn ngữ trên thế giới. "Dân chủ" có nghĩa chung là quyền lực
của ngƣời bình dân, quyền làm chủ xã hội, và làm chủ bản thân con ngƣời, là
quyền làm chủ của nhân dân trong xã hội. Càng ngày, khái niệm dân chủ càng
đƣợc mở rộng nhiều hơn, mang nhiều nội dung mới mẻ hơn, nó đƣợc gắn với
ý thức chính trị, gắn với chính quyền của nhân dân, gắn với tiến trình lịch sử
của xã hội lồi ngƣời. Đồng thời nó cịn là giá trị xã hội nhân văn, đánh dấu

9


những nấc thang tiến bộ của xã hội loài ngƣời. Trong xã hội cộng sản nguyên
thủy, ở buổi bình minh của lịch sử nhân loại, trƣớc sức mạnh huyền bí của
thiên nhiên hoang sơ, để tồn tại và phát triển, con ngƣời buộc phải gắn bó với
nhau thành cộng đồng để tạo nên sức mạnh cộng đồng. Và con ngƣời, ngay từ
buổi đầu ấy đã sử dụng sức mạnh cộng đồng để thực hiện quyền sống, quyền
tự do, quyền mƣu cầu hạnh phúc.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ đƣợc xây dựng và hình thành
trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mang bản chất giai cấp công nhân,
dƣới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản để thực hiện và đảm bảo quyền làm chủ
thực sự của đơng đảo nhân dân đối với xã hội.
Hồ Chí Minh là nhà lí luận và thực hành dân chủ tiêu biểu của Việt
Nam trong thế kỷ XX. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển tƣ tƣởng
dân chủ của C.Mác, F.Ăngghen, V.I. Lê nin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam, Ngƣời không chỉ nêu lên hệ thống những quan điểm về vai trò, bản chất
của dân chủ mà còn chỉ ra những giải pháp quan trọng nhằm xây dựng một
nền dân chủ mới gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con ngƣời ở Việt Nam trong thời đại mới, từ sau thắng lợi cách
mạng Tháng Mƣời Nga
Khi bàn về vai trị của dân chủ, Hồ Chí Minh là ngƣời nhìn thấy rõ

sức mạnh của nhân dân: Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân. Trong
thế giới này khơng gì mạnh bằng lực lƣợng đồn kết của nhân dân. Và chính
Ngƣời đã huy động sức mạnh của tồn dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng
mình, góp phần đƣa dân tộc Việt Nam từ địa vị nô lệ tới độc lập tự do, đƣa
nhân dân ta lên địa vị là chủ đất nƣớc, làm chủ xã hội. Ngƣời luôn tìm mọi
cách để làm cho nhân dân biết hƣởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân
chủ của mình, dám nói, dám làm. Việc giáo dục dân tự ý thức đƣợc vai trò
làm chủ xã hội ở một dân tộc hàng ngàn năm bị phong kiến phƣơng Bắc đô

10


hộ, hàng trăm năm bị chủ nghĩa thực dân thống trị và trình độ dân trí thấp nhƣ
ở nƣớc ta là điều Ngƣời luôn trăn trở, dồn hết tâm lực để tranh đấu, thực hiện.
Với Hồ Chí Minh, “dân chủ là của quý nhất của nhân dân ” [25, tr.279] thực
hành dân chủ một cách rộng rãi là chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi
khó khăn. Từ việc khẳng định địa vị pháp lý (dân là chủ) đến việc hiện thực hóa
lý tƣởng đó, Ngƣời ln địi hỏi phải nâng cao vai trị, năng lực khơng chỉ ở chủ
thể lãnh đạo, quản lý trong việc hoàn thiện thể chế, cơ chế mà quan trọng hơn
nữa là tạo mọi điều kiện cho nhân dân đủ năng lực và bản lĩnh làm chủ. Là nhà
tƣ tƣởng, nhà tổ chức của cách mạng Việt Nam, Ngƣời đã giải quyết thấu tình,
đạt lý những nội dung đó hơn ai hết, Hồ Chí Minh thấy rõ dân chủ là động lực,
là sức mạnh để xây dựng một xã hội ấm no, tự do bình đẳng, hạnh phúc. Chính
vì vậy, Ngƣời ln nhắc nhở cán bộ lãnh đạo rằng: Có phát huy dân chủ đến cao
độ thì mới động viên đƣợc tất cả lực lƣợng của nhân dân, đƣa cách mạng tiến
lên.
Nhƣ thế, dân chủ không chỉ là quyền lực thuộc về nhân dân, làm cách
mạng trao quyền làm chủ cho nhân dân lao động là đủ, mà quan trọng hơn là
bằng phƣơng pháp quản lý dân chủ để làm sao cho nhân dân biết hƣởng quyền
dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Tƣ tƣởng ấy có

sức mạnh khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân.
Khi bàn về bản chất của dân chủ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nƣớc ta là
nƣớc dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” [22, tr.515]. Điều đó có
nghĩa là, Ngƣời đã xác định trên thực tế địa vị ngƣời chủ của nhân dân đối với
xã hội, đất nƣớc. Đây là sự khẳng định quan trọng thể hiện sự thay đổi mang
tính cơ bản trong vị thế, tƣ cách của nhân dân trong đời sống xã hội. Tuy nhiên
giữa địa vị “là chủ” và trình độ “làm chủ” của nhân dân trên thực tế có khoảng
cách rất lớn. “Là chủ” nhƣng chƣa hẳn đã có thể “làm chủ” bởi có thể làm chủ
trên danh nghĩa chứ chƣa đƣợc làm chủ trên thực tế. Từ “dân là chủ” đến “dân
làm chủ” là cả một quá trình phát triển và trƣởng thành về năng lực thực hành về

11


dân chủ của nhân dân. Điều đó hồn tồn khơng dễ dàng, nếu khơng nói là hết
sức khó khăn, phức tạp.
Để dân chủ trở thành một tổ chức nhà nƣớc, thông qua tổ chức và quản
lý của Nhà nƣớc mà nhân dân thực hiện quyền lực của mình đối với xã hội, Hồ
Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ, thể chế
chính trị và thể chế nhà nƣớc dân chủ, trong đó có thể chế dân chủ của Đảng,
nhất là khi Đảng đã ở vào vị trí cầm quyền.
Thực chất của chế độ dân chủ chính là chế độ ủy quyền của dân vào nhà
nƣớc và nhà nƣớc là cơ quan quyền lực của nhân dân, thực thi sự ủy quyền của
dân. Xây dựng thể chế thì trƣớc hết phải xây dựng chính quyền Nhà nƣớc mà
chính quyền đó phải là chính quyền dân chủ, ngƣời chủ thực sự khơng ai khác
chính là nhân dân. Hồ Chí Minh khơng chỉ đề cập tới vai trị của Nhà nƣớc nói
chung mà cịn đặc biệt nhấn mạnh vai trị của Chính phủ - cơ quan hành pháp
của Nhà nƣớc. Chính phủ điều hành, quản lý nhà nƣớc trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Một chính phủ tốt phải là Chính phủ do dân cử ra, mỗi thành
viên trong Chính phủ phải trực tiếp do dân lựa chọn: Chính quyền từ xã đến

Chính phủ Trung ƣơng do dân cử ra. Để xứng đáng với sự ủy thác, tin cậy của
dân chúng thì Chính phủ phải hành động vì lợi ích của nhân dân, nhiệm vụ của
Chính phủ là ngƣời đầy tớ trung thành, tận tụy của nhân dân, nhân dân có quyền
đơn đốc và phê bình Chính phủ, Hồ Chí Minh đã xác lập một hệ thống các quan
điểm về những vấn đề nhà nƣớc từ lựa chọn mơ hình nhà nƣớc dân chủ đến một
loạt chƣơng trình hành động cụ thể, chi tiết cho sự ra đời của nhà nƣớc đó ở Việt
Nam ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, xây dựng Nhà nƣớc đó thực
sự là Nhà nƣớc dân chủ. Đó là kết quả của trình độ, phƣơng pháp sáng tạo trong
quản lý, trong thực hành dân chủ, là hệ quả của cả một quá trình khảo sát, kiểm
nghiệm lựa chọn, xác định mơ hình thể chế của nhà hoạt động chính trị Hồ Chí
Minh. Lần đầu tiên trong lịch sử nƣớc nhà, chính quyền nhà nƣớc đã đƣợc trao
vào tay “dân chúng số nhiều” nhƣ ƣớc nguyện cũng là bài học lịch sử mà Chủ

12


tịch Hồ Chí Minh đã rút ra từ kinh nghiệm của các cuộc cách mạng đi trƣớc, để
tránh cho nhân dân khỏi hy sinh nhiều lần, để dân chúng đƣợc thực sự hạnh phúc.
Giá trị xã hội đích thực của dân chủ là giành về cho đại đa số nhân dân
lao động quyền lực của chính họ thơng qua đấu tranh cải tạo xã hội cũ và xây
dựng xã hội mới. Đó là quyền dân chủ, quyền tự do, cơng bằng, bình đẳng thực
sự của quần chúng nhân dân. Chính vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động chính
trị của mình từ khi ý thức đƣợc nỗi nhục mất nƣớc, ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc
đến khi phải từ giã cõi đời, Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn, ham muốn đến
tột bậc là làm cho nƣớc nhà đƣợc độc lập, nhân dân đƣợc tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng đƣợc học hành. Ngƣời đã làm tất cả để thực
hiện Độc lập - Tự do - Hạnh phúc cho Tổ quốc, dân tộc và nhân dân. Ngƣời đã
rút ra một chân lý vĩnh hằng khơng chỉ cho dân tộc mà cịn cho cả nhân loại
“Khơng có gì q hơn độc lập tự do”. Trong “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra
chế độ Dân chủ cộng hòa ngày 2-9-1945 ở Việt Nam, Ngƣời đã thể hiện ý chí và

quyết tâm của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do: “Nƣớc Việt Nam
có quyền hƣởng tự do và độc lập, và thực sự đã trở thành nƣớc tự do độc lập.
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tinh thần và lực lƣợng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[ 22, tr.4]. Đó chính là tun ngơn về
dân chủ gắn liền với tự do, bình đẳng và cơng bằng xã hội, thể hiện khát vọng
chính đáng về quyền dân chủ và làm chủ của nhân dân Việt Nam, khẳng định
thành quả vĩ đại của cuộc đấu tranh vì dân chủ mà nhân dân Việt Nam đã giành
đƣợc với một ý chí quyết khơng gì lay chuyển nổi cùng tinh thần đồn kết mn
ngƣời nhƣ một của dân tộc Việt Nam để giữ vững nguồn của cải vơ giá đó của
nhân dân. “Nhƣng nếu nƣớc đƣợc độc lập mà nhân dân không hƣởng tự do,
hạnh phúc, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [ 22, tr.56]. Vì vậy, tiêu ngữ:
Việt Nam dân chủ cộng hịa, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc có một ý nghĩa lịch
sử thiêng liêng, nó là mục tiêu phấn đấu của cả dân tộc Việt Nam thể hiện đầy
đủ, toàn diện nội dung nhân quyền và dân quyền mà bất cứ quốc gia văn minh

13


nào cũng phải hƣớng tới. Giải phóng con ngƣời, thực hiện tự do và hạnh phúc
của con ngƣời, đó là mục tiêu phấn đấu cao nhất, thƣờng xuyên chi phối mọi suy
nghĩ và hành động của Hồ Chí Minh
Dù là nói đến nhiệm vụ của Đảng hay của Chính Phủ, dù là nói đến
việc lớn nhƣ kế hoạch xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa hay nói đến việc nhỏ
nhƣ sinh hoạt hàng ngày của cá nhân, bao giờ Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh
phải chăm lo đến con ngƣời, tạo điều kiện cho con ngƣời có những khả năng và
điều kiện tốt nhất để phát triển, thấu hiểu tâm trạng, nguyện vọng của quần
chúng, tôn trọng nhân cách của từng ngƣời một. Đó là chiều sâu giá trị nhân văn
của dân chủ theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
Trong một xã hội dân chủ, con ngƣời có điều kiện rèn luyện tài năng,
đạo đức để phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình. Đó là nhân cách của

ngƣời lao động làm chủ, có tài và có đức mà đức là gốc nhƣ Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh: lời nói đi đơi với việc làm, lấy phục vụ nhân dân làm lẽ sống của
mình, đó là những con ngƣời: trung với nƣớc, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn nào cũng vƣợt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Về xây dựng chế độ dân chủ, đối với Hồ Chí Minh, để xác lập chế độ
dân chủ thì việc xây dựng một nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân là
một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng bởi đó là cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm
quyền dân chủ của nhân dân trong thực tế. Trƣớc hết nhà nƣớc ta là nhà nƣớc
của dân, ngay từ khi giành đƣợc chính quyền (8-1945), Ngƣời đã cùng toàn thể
đồng bào lập tức bắt tay vào một công việc trọng đại là thiết lập một nhà nƣớc
dân chủ của dân tộc Việt Nam, một nhà nƣớc mà: “Tất cả quyền bình trong nƣớc
là của tồn thể nhân dân Việt Nam khơng phân biệt giống nịi, gái trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Một ngày sau khi đọc Tun ngơn độc lập (2-91945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì phiên họp Chính phủ lâm thời (3-9),
Ngƣời nêu rõ: Những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hịa gồm 6 điểm trong đó có việc đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay

14


cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Trong tuyển cử 6-1-1946,
toàn dân đã đi bầu cử, mọi ngƣời tự do ứng cử và lựa chọn đại biểu của mình.
Với một đất nƣớc cịn đang ngổn ngang khó khăn và nền độc lập mới giành
đƣợc 4 tháng đang ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, một Quốc hội, một Chính
phủ qua Tổng tuyển cử hợp pháp đã ra đời. Đây là một Nhà nƣớc có đầy đủ tƣ
cách gánh vác trách nhiệm lớn lao trƣớc dân tộc, đất nƣớc.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, một nhà nƣớc của dân đƣợc lập
ra bằng con đƣờng bầu cử theo chế độ bầu cử phổ thông, trực tiếp, bình đẳng và
bỏ phiếu kín - một chế độ bầu cử dân chủ, tiến bộ của thế giới đƣơng đại mà ở
Việt Nam ngay trong năm đầu của chính quyền cách mạng đã thực hiện đƣợc.
Đây là hình thức chủ yếu nhất để nhân dân chọn ngƣời mình ủy quyền, ở đây,

quyền hành, công việc, lực lƣợng mà cơ quan, nhân viên Nhà nƣớc thực hiện
bắt nguồn từ sự ủy quyền của dân. Nhân viên, cơ quan nhà nƣớc chỉ là ngƣời
đƣợc giao, đƣợc ủy thác và là ngƣời “đầy tớ” thừa hành, gánh vác công việc
trong phạm vi khuôn khổ đƣợc giao và phải đƣợc nhân dân thƣờng xuyên
kiểm tra, giám sát. Nhƣ thế, đủ thấy thực chất của nhà nước dân chủ là nhà
nước của dân. Đây là vấn đề đƣợc thể hiện đậm nét trong tƣ tƣởng dân chủ
của Hồ Chí Minh.
Cùng với xây dựng một nhà nƣớc của dân, Hồ Chí Minh rất chăm lo đến
xây dựng một nhà nƣớc do dân, vì dân. Ngƣời hiểu nhân dân là một lực lƣợng
vô cùng hùng hậu, “Lực lƣợng toàn dân là lực lƣợng vĩ đại hơn ai hết. Khơng ai
chiến thắng đƣợc lực lƣợng đó” [22, tr.20]. Vấn đề lớn đặt ra mà Hồ Chí Minh
quan tâm giải quyết là mối quan hệ giữa nhà nƣớc và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết “Nếu khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lƣợng. Nếu
khơng có Chính phủ thì nhân dân khơng ai dẫn đƣờng. Vậy Chính phủ với nhân
dân phải đồn kết lại thành một khối” [22, tr.56]. Đây là một quan điểm hết sức
cơ bản trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về một nhà nƣớc do dân. Nhà nƣớc và
Chính Phủ do nhân dân bầu nên không phải để làm thay nhân dân, thay xã hội

15


mà để tổ chức các hoạt động của nhân dân trong những khuôn khổ pháp luật quy
định và để thực hiện đúng đắn các quyền của dân chúng, đem lại lợi ích thiết
thân hàng ngày cho dân chúng. Lý do tồn tại của Nhà nƣớc, Chính Phủ là ở sự
đảm trách vai trò của ngƣời điều hành, quản lý. Mặt khác dân có quyền làm chủ
thì cũng phải có nghĩa vụ của ngƣời làm chủ. Lực lƣợng ở nơi dân, nhà nƣớc
muốn làm bất kỳ việc gì đều phải dựa vào sức dân, thông qua việc huy động
nhân tài, vật lực của dân. Vì vậy, nhà nƣớc của dân, do dân giao quyền, ủy
quyền phải đƣợc làm nhiệm vụ “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho
dân”.[21,tr.61]

Xét đến cùng, một nhà nƣớc của dân, do dân xây dựng nên phải là một
nhà nƣớc vì dân - một nhà nƣớc tồn tại và hoạt động vì lợi ích của tồn thể nhân
dân, khơng vì một nhóm hay một tập đoàn xã hội nào nhƣ nhà nƣớc ở các xã hội
cũ. Nhà nƣớc của ta ngồi lợi ích phục vụ dân chúng khơng vì lợi ích nào khác.
Đó là bản chất của nhà nƣớc ta, Ngƣời đòi hỏi mọi việc làm của Nhà nƣớc phải
thể hiện rõ bản chất đó: “Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến
dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta u dân, kính dân thì dân mới u ta, kính
ta” [ 22, tr.56-57]. Ngƣời nhắc nhở chính quyền các cấp phải tránh cho đƣợc các
lầm lỗi, khuyết điểm, những thói hƣ tật xấu nhƣ những chứng bệnh vốn dễ tập
nhiễm trong các cơ quan quyền lực nhà nƣớc nhƣ: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tƣ
túng, cục bộ, chia rẽ, kiêu ngạo… Hồ Chí Minh yêu cầu mọi chủ trƣơng, chính
sách, mọi quy định của nhà nƣớc từ trung ƣơng đến địa phƣơng đều phải xuất
phát từ lợi ích của dân. Mọi cán bộ Nhà nƣớc đều vì dân, hết lòng hết sức phục
vụ nhân dân, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tƣ. Cao hơn nữa, một
nhà nƣớc vì dân phải đảm bảo cho dân có đƣợc cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
Ngƣời đã chỉ ra một cách rõ ràng trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nƣớc, của Đảng
đối với dân. “Nếu dân đói, Đảng và chính phủ có lỗi” [25, tr.572]. Nhà nƣớc của
dân, nhà nƣớc do dân và nhà nƣớc vì dân đó là ba đặc trƣng cấu thành của một
nhà nƣớc kiểu mới mà Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác- Lê

16


nin về nhà nƣớc để xây dựng chính quyền cách mạng ở nƣớc ta. Ba đặc trƣng
này gắn bó hữu cơ với nhau và đƣợc thể hiện nhất quán trong mọi lĩnh vực hoạt
động của đời sống xã hội.
Cùng với tổ chức bộ máy nhà nƣớc, việc xây dựng và hồn thiện pháp
luật là một cơng việc có phần quan trọng đặc biệt đối với nhà nƣớc, đối với việc
xây dựng nền dân chủ cho đa số. Do vậy, theo Hồ Chí Minh nhà nƣớc kiểu mới–
nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân thì tất yếu phải là một nhà nƣớc pháp quyền

dân chủ mạnh, sáng suốt, tổ chức và hoạt động theo pháp luật và quản lý xã hội
bằng pháp luật. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng pháp luật. Theo Ngƣời,
một nhà nƣớc kiểu mới phải là một nhà nƣớc dân chủ và pháp luật phải gắn liền
với nhau, nƣơng tựa vào nhau. Mọi quyền dân chủ của ngƣời dân phải đƣợc thể
chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật, ngƣợc lại hệ thống pháp luật đảm bảo cho
quyền tự do, dân chủ của ngƣời dân phải đƣợc tôn trọng và thi hành trong thực
tế. Hồ Chí Minh địi hỏi khơng chỉ nhân dân mà các cơ quan nhà nƣớc, các cơ
quan đảng và của tồn thể cán bộ, đảng viên cơng chức cũng phải tn thủ pháp
luật, tơn trọng tính tối cao của pháp luật. Đồng thời, Ngƣời cũng đòi hỏi phải
trừng trị rất nghiêm những kẻ phạm tội, nhất là đối với những tội đƣa và nhận
hối lộ, tham ô, trộm cắp của công. Phải thực hiện nghiêm minh pháp luật trong
xét xử, phải thực hiện sự bình đẳng của tất cả đối với mọi công dân trƣớc pháp luật.
Điều đặc sắc trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc pháp quyền dân
chủ là sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức. Ở Ngƣời, hai yếu tố đó khơng hề
mâu thuẫn mà còn thống nhất với nhau một cách biện chứng. Ngƣời chủ trƣơng
“ đức” là để cảm hóa, ngăn cản những thói hƣ tật xấu, hạn chế “cái ác” nảy sinh,
do đó hạn chế những hành vi phạm pháp ở mỗi con ngƣời. Trong quản lý, ở đâu
pháp luật không tới thì ở đó là lĩnh vực điều chỉnh của đạo đức - đây chính là
chỗ gặp nhau giữa đức trị và pháp trị. Đó cũng là sự kết hợp hài hòa, sáng taọ
giữa chủ nghĩa Mác- Lê nin với những tinh hoa của nền văn hóa dân tộc và văn
minh nhân loại trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về một nhà nƣớc kiểu mới, nhà

17


nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nhà nƣớc đó phải thể hiện sâu sắc các
giá trị pháp lý và nhân văn của dân chủ.
Xây dựng và củng cố nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân thực
chất là xây dựng một nhà nƣớc tiêu biểu cho quyền lực chính trị của tồn dân.
Một khi nền dân chủ đƣợc thực hiện triệt để thông qua việc quản lý và tổ chức

các quá trình dân chủ nhà nƣớc, thì pháp luật của nhà nƣớc chính là sự kết đọng
tinh thần dân chủ, bởi pháp luật đó là ý chí chung của tồn dân. Để quyền dân
chủ của nhân dân đƣợc thực hiện, để quyền lực nhà nƣớc đƣợc đảm bảo, Hồ
Chí Minh đã nhấn mạnh ba yếu tố: Hiến pháp, pháp luật và bộ máy chính
quyền, Ngƣời u cầu: phải có hiến pháp thích hợp với sự phát triển của chế
độ, bảo đảm được quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân; phải có
luật pháp thực sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho
nhân dân lao động; phải có một bộ máy chính quyền có đủ năng lực, phẩm
chất, tinh giản, nhạy bén để phục vụ nhà nước có hiệu quả và gắn bó, liên hệ
mật thiết với dân chúng.
Chỉ có một thiết chế dân chủ có hiệu quả thì nhân dân mới thực sự có
quyền, mới có những điều kiện về cơ chế, về pháp luật và về tổ chức có thể
“kiểm sốt ” đƣợc bộ máy chính quyền, cái cơng cụ của mình, mà nó ln có
khuynh hƣớng thốt li khỏi quyền lực của nhân dân để xa rời “dân chủ” và trở
thành “quan chủ”.
Trong xây dựng chế độ dân chủ, Hồ Chí Minh khơng chỉ coi trọng vai
trò của Nhà nƣớc mà Ngƣời còn nhấn mạnh vai trò của Đảng cầm quyền. Ngay
từ những ngày đầu tiên, khi Đảng trở thành đảng cầm quyền, Ngƣời đã giành sự
quan tâm đặc biệt cho công tác xây dựng Đảng.
Tiêu biểu cho sự quan tâm, chăm lo của ngƣời đối với nhiệm vụ xây
dựng Đảng là, Ngƣời dành nhiều thời gian viết cuốn sách: Sửa đổi lối làm việc
(1947). Đây thực chất là cuốn “sách gối đầu giường” cho cán bộ tu dƣỡng bản

18


thân. Đây cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho tƣ tƣởng đổi mới của
Ngƣời, đặc biệt là xây dựng Đảng cách mạng chân chính và thực hành dân chủ.
Ngƣời đặc biệt chú trọng nâng cao chất lƣợng đảng viên và xây dựng
tổ chức đảng cơ sở. Ngƣời coi đó là nền tảng, là cơ sở trực tiếp đảm bảo sự

vững mạnh và trong sạch của Đảng, “Vì trong mỗi đảng viên tốt, mỗi chi bộ
tốt là đảng đƣợc vững mạnh thêm một phần; đảng viên kém, chi bộ kém là
những khâu yếu của Đảng” [27, tr.166]. Ngƣời nói: “Đảng viên có tốt thì chi
bộ mới tốt. Muốn Đảng viên tốt thì chi bộ phải thƣờng xuyên giáo dục mỗi
đồng chí. Nhiệm vụ của đảng viên là gì? Tƣ cách của đảng viên là nhƣ thế
nào? Đồng thời giúp đỡ đảng viên ngày càng tự kiểm điểm mình” [29, tr.80]
cần phải ra sức củng cố các chi bộ để các chi bộ trở lên thật sự là các hạt
nhân lãnh đạo của đảng ở mọi ngành, mọi nghề, mọi nơi. Người quan tâm
nhiều đến việc đảm bảo dân chủ trong mối quan hệ giữa đảng và nhân dân.
Mối quan hệ này thể hiện ở bốn quan điểm cơ bản của Ngƣời: Đảng hoạt
động với tất cả vì quyền lợi của dân; Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân; Đảng phải tránh xa nguy cơ rời
xa dân; Đảng không được theo đuôi quần chúng, phải giáo dục và nâng cao
dân trí. Mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân có đƣợc chủ yếu thực hiện
thơng qua vai trị của Chi bộ, tức là tổ chức Đảng ở cơ sở. Là một nhà hoạt
động chính trị thực tiễn, một lãnh tụ nhƣng luôn ở gần dân, trong dân, hiểu
dân nên Ngƣời thấy rõ vai trò của tổ chức đảng ở cơ sở, do đó đã có những
chỉ dẫn cụ thể, tinh tế:
Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây chuyền liên
hệ Đảng với quần chúng, nhiệm vụ của Chi bộ là:
- Luôn tuyên truyền cho nhân dân và tổ chức cho nhân dân, để thực hiện
khẩu hiệu và chính sách của Đảng.
- Ln chú ý đến tƣ tƣởng và nhu cầu của nhân dân và kịp thời báo cáo
cho cấp trên biết rõ.

19


- Ln quan tâm đến đời sống kinh tế, chính trị và văn hoá của nhân
dân, đồng thời giáo dục nhân dân, tổ chức nhân dân để giải quyết các vấn đề

cho nhân dân.
Chỉ có làm đủ các cơng việc ấy, thì Đảng mới liên hệ chặt chẽ với quần
chúng [25, tr.243].
Đây là những chỉ dẫn hết sức thiết thực và quý báu cho chúng ta, đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay, khi công tác xây dựng Đảng, tăng cƣờng sức mạnh
của Hệ thống chính trị ở cơ sở do Đảng lãnh đạo đang trở

nên một đòi hỏi

bức xúc.
Trong điều kiện đã trở thành đảng cầm quyền, để phòng nguy cơ đảng
thối hố biến chất, Hồ Chí Minh ln ln nhấn mạnh rằng: ngƣời Đảng
viên suốt đời phải làm ngƣời trung thành của Đảng, ngƣời đầy tớ tận tu ̣y của
nhân dân. Trƣớc lúc về cõi vĩnh hằng, Ngƣời còn căn dặn: "Mỗi Đảng viên và
cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm
chính, chí cơng vơ tƣ. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
ngƣời lãnh đạo, là ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân dân" [29, tr.510].
Yếu tố cấu thành thứ ba của hệ thống chính trị, của thể chế dân chủ đó
là các đồn thể quần chúng. Hồ Chí Minh cũng đánh giá cao vai trị của các
đồn thể quần chúng trong xây dựng chế độ dân chủ. Ngƣời cho rằng: Đoàn
thể là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền lợi cho dân, liên
lạc mật thiết giữa nhân dân với Chính phủ.
Nói về nhiệm vụ của đồn thể, Ngƣời nhấn mạnh phải đấu tranh cho
nhân dân và bênh vực quyền lợi của dân. Chẳng hạn: "Cơng đồn phải liên hệ
rộng rãi và chặt chẽ với các tầng lớp thanh niên”. Với những tổ chức khác,
Ngƣời cũng nêu lên những yêu cầu tƣơng tự. Riêng đối với Nông hội Ngƣời
cho rằng: Việt Nam là một nƣớc nông nghiệp, nông dân là một lực lƣợng to
lớn, là lớp ngƣời đông nhất trong nhân dân, cho nên họ là đội quân chủ lực
của cách mạng, nếu khéo tổ chức, khéo lãnh đạo thì lực lƣợng ấy sẽ làm xoay


20


chuyển trời đất. Ngƣời cũng thấy rõ: Trong cuộc kháng chiến của ta, nơng
dân đóng góp nhiều nhất, hy sinh nhiều nhất. Trong quân đội ta, tuyệt đại đa
số là nông dân. Trong công cuộc xây dựng dân chủ mới, muốn phát triển
công nghệ và thƣơng nghiệp, phải do nông dân đƣợc giải phóng, thi đua sản
xuất, cung cấp nguyên liệu và lƣơng thực, đồng thời tiêu thụ dồi dào những
thứ cơng nghệ sản xuất ra.
Nhƣng vì hồn cảnh kinh tế cịn lạc hậu, mà nơng dân thƣờng có tính
thủ cựu, rời rạc, tƣ hữu. Cho nên giai cấp công nhân phải đoàn kết họ, giúp tổ
chức họ và lãnh đạo họ, thì họ là một lực lƣợng rất to lớn và vững chắc [21,
tr. 28]. Còn "nếu hiện nay nơng dân vẫn cịn tình trạng tiêu cực, thì ngun
nhân là họ còn thiếu tổ chức, còn thiếu ngƣời lãnh đạo" '[21, tr.289]. Trách
nhiệm đó rõ ràng thuộc về Đảng, Nhà nƣớc, Hội nông dân...
Với Mặt trận dân tộc thống nhất, Ngƣời coi đó là một liên minh chính
trị của các giai cấp, các tầng lớp, tôn giáo và dân tộc. Mặt trận càng rộng rãi,
chặt chẽ thống nhất bao nhiêu thì khối đại đồn kết càng mạnh mẽ, bền chặt
bấy nhiêu. Ngƣời chủ trƣơng quy tụ, đoàn kết và hoà hợp mọi lực lƣợng của
dân tộc để xây dựng một nƣớc Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập dân
chủ giàu mạnh. Đây cũng là nét độc đáo trong tƣ duy chính trị và hoạt động
chính trị của Hồ Chí Minh trong việc tập hợp lực lƣợng cách mạng tạo nên
sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam vƣợt qua khó khăn thử thách để
giành thắng lợi. Xây dựng củng cố các đoàn thể quần chúng và Mặt trận là
vấn đề có tầm quan trọng chiến lƣợc của cách mạng nƣớc ta trong giai đoạn
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong cả giai đoạn cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Ngƣời chỉ rõ, các tổ chức, các đoàn thể quần chúng cần phải đƣợc
xây dựng từ thấp đến cao phù hợp với trình độ và yêu cầu của quần chúng.
Hình thức tập hợp quần chúng phải hết sức đa dạng; cƣơng lĩnh, chƣơng trình
hoạt động phải phong phú, phù hợp với nguyện vọng và yêu cầu của dân

chúng; cán bộ đồn thể phải đặt cơng tác dân vận lên hàng đầu, phải yêu dân,

21


kính trọng dân và tin dân. Chỉ nhƣ vậy các đồn thể quần chúng mới phát huy
đƣợc vai trị của mình là sợi dây nối liền Đảng với nhân dân, phục vụ có hiệu
quả việc xây dựng nền dân chủ phát triển ở nƣớc ta để đảm bảo thực hiện
quyền dân chủ và làm chủ của dân. Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi ngƣời cách
mạng phải rèn luyện theo những chuẩn mực, nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Làm
kiểu mẫu cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tƣ. Những phẩm chất đó ở con
ngƣời mới, xa lạ với những cái xấu cái ác: tham ơ, lãng phí, quan liêu. Nó là
con đẻ của chủ nghĩa cá nhân và là kẻ thù của nhân dân. Chủ nghĩa cá nhân
rất dễ kéo ngƣời ta xuống dốc, mà xuống dốc thì dễ hơn lên dốc nhƣ Hồ Chí
Minh đã nhiều lần căn dặn chúng ta. Ngƣời đặc biệt chú trọng việc giáo dục
và rèn luyện đạo đức cách mạng, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân.
Những nhân cách trung thực và sáng tạo nêu trên chỉ có thể hình thành
trong một mơi trƣờng xã hội dân chủ mà trƣớc hết là dân chủ trong kinh tế,
dân chủ trong chính trị và dân chủ trong đời sống văn hoá. Ngƣời cũng đặc
biệt chú trọng thực hiện yêu cầu tự do tƣ tƣởng, giải phóng tinh thần con ngƣời.
Ngƣời tin rằng, một khi đã giành đƣợc quyền làm chủ thì địa vị làm chủ
cùng quá trình rèn luyện tự giác của mỗi ngƣời sẽ đem lại cho con ngƣời
những năng lực và khả năng sáng tạo to lớn, những phẩm chất đạo đức tốt
đẹp cùng với sự phát triển tính tích cực chính trị xã hội để trở thành những
cơng dân hữu ích cho xã hội. Nhờ có dân chủ và những tiềm năng sáng tạo,
những sáng kiến của nhân dân đƣợc khai thác và phát huy. Hồ Chí Minh
mƣợn câu nói mộc mạc trong nhân dân để thể hiện quan điểm và niềm tin của
mình về sức mạnh làm chủ của nhân dân: "Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu,
khó vạn lần dân liệu cũng xong” ” [29, tr.212]. Bí quyết để động viên và phát
huy sức mạnh của nhân dân đó là dân chủ: phải tin tưởng lực lượng và trí tuệ

của nhân dân là vơ cùng vơ tận. Tun truyền, giáo dục đồn kết, tổ chức
được trí tuệ và lực lượng đó thì việc gì khó mấy cũng làm được. Đồng thời

22


phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, phải mở rộng dân chủ,
phải thực hành dân chủ rộng rãi…để thực hiện và phát huy dân chủ.
Không chỉ có quan điểm dân chủ đúng đắn, Ngƣời cịn nhận thấy vai
trò, tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
khơng có mục đích tự thân; hiểu dân chủ, thực hành dân chủ trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội là vì mục tiêu đem lại hạnh phúc, ấm no, tự
do, bình đẳng cho mọi ngƣời dân lao động trong đời sống một cách đích thực.
Bởi vậy, Ngƣời nói: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải
quyết mọi khó khăn” [29, tr.249].
Trƣớc lúc “đi xa”, trong bản Di chúc, với mn vàn tình thƣơng u để
lại cho mn đời con cháu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Toàn Đảng,
toàn dân ta, đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nƣớc Việt Nam hịa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới. Nhƣ vậy, dân chủ luôn là nội dung quan trọng
trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Đây chính là cơ sở tƣ tƣởng, lý luận giúp Đảng
Cộng sản Việt Nam vận dụng trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở nƣớc ta.
Hơn 80 năm lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành độc lập và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta bao giờ cũng coi dân chủ là một nội dung quan
trọng trong đƣờng lối cách mạng của mình. Mở rộng dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
để nhân dân ta vƣợt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lƣợc,
vừa là bản chất, đặc trƣng của chế độ mới. Những yếu tố dân chủ, tinh thần
dân chủ: lấy dân là gốc, coi dân là trọng, vốn đã hình thành trong lịch sử dựng

nƣớc và giữ nƣớc của nhân dân ta từ mấy nghìn năm cũng đã đƣợc Đảng ta
kế thừa và phát huy trong điều kiện mới.
Ngày từ khi mới ra đời, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực
hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hai mục tiêu độc lập và dân chủ

23


×