Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

(Luận văn thạc sĩ) đảng bộ tỉnh hải dương lãnh đạo xây dựng hâu phương tại chỗ trong kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (993 KB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------------

ĐẶNG THU HÀ

ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƢƠNG
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƢƠNG TẠI CHỖ
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1946- 1954)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------------

ĐẶNG THU HÀ

ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƢƠNG
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƢƠNG TẠI CHỖ
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1946- 1954)

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ QUANG HIỂN
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG: PGS LÊ MẬU HÃN

Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS. Vũ Quang Hiển.
Các số liệu trong luận văn là trung thực, chính
xác, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày ..... tháng .... năm 2015
Tác giả luận văn

Đặng Thu Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................

3

1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................

3

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ....................... 4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………...

9

5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu……………………………. 10
6. Đóng góp mới của luận văn……………………………………………. 11
7. Kết cấu của luận văn…………………………………………………… 11
Chƣơng 1 : CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH HẢI DƢƠNG TRONG XÂY DỰNG HẬU PHƢƠNG TẠI
12
CHỖ GIAI ĐOẠN 1946 - 1950.................................................................
1.1. Những yếu tố có ảnh hưởng đến việc xây dựng hậu phương tại chỗ
trên địa bàn tỉnh Hải Dương........................................................................
12
1.2. Lãnh đạo xây dựng cơ sở chính trị trong vùng quân Pháp chiếm
đóng, giữ vững vùng tự do (từ tháng 12/1946 đến tháng 11/1949)............. 25
1.3. Lãnh đạo nhân dân kiên trì bám trụ xây dựng chỗ đứng chân trong
vùng quân Pháp chiếm đóng từ cuối năm 1949 đến cuối năm 1950........... 43
Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƢƠNG LÃNH ĐẠO ĐẨY
MẠNH XÂY DỰNG HẬU PHƢƠNG TẠI CHỖ GIAI ĐOẠN 1951 1954.............................................................................................................. 50
2.1. Đặc điểm tình hình và yêu cầu mới của việc xây dựng hậu phương
tại chỗ..........................................................................................................

50

2.2. Lãnh đạo đẩy mạnh chiến tranh du kích ở địch hậu, chủ động chống
phá bình định, xây dựng khu du kích và căn cứ du kích từ đầu năm 1951
đến giữa năm 1952.......................................................................................... 58
2.3. Lãnh đạo củng cố và mở rộng khu du kích, căn cứ du kích, góp phần

đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn từ giữa năm 1952 đến năm
1


1954.............................................................................................................. 69
Chƣơng 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ……………….. 82
3.1. Một số nhận xét……………………………………………………………………

82

3.2. Một số kinh nghiệm lịch sử………..………………………………………………

98

KẾT LUẬN………………………………………..…………………………………..

106

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………….……………...…………………..

108

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đã thành quy luật, muốn tiến hành chiến tranh, phải có hậu phương được tổ
chức vững chắc. Hậu phương luôn là một nhân tố cơ bản, thường xuyên quyết định
thắng lợi của chiến tranh, vì hậu phương là nguồn cung cấp sức người, sức của, là

nguồn cổ vũ về chính trị, tinh thần cho tiền tuyến.
Kế thừa truyền thống đánh giặc của ông cha, tiếp thu lý luận của chủ nghĩa
Mác Lê nin về chiến tranh cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận
thức được tầm quan trọng của việc xây dựng hậu phương, căn cứ địa kháng chiến,
coi đó là một bộ phận chiến lược của đường lối chiến tranh nhân dân.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (cũng như cuộc kháng chiến chống Mỹ
sau này) đã hình thành trên thực tế hai loại hậu phương: hậu phương chiến lược và
hậu phương tại chỗ. Xây dựng hậu phương tại chỗ khắp nơi là u cầu có tính chiến
lược của chiến tranh nhân dân Việt Nam nhằm khai thác, động viên, phát huy cao
độ mọi tiềm lực của từng địa phương, từng chiến trường, bảo đảm cho lực lượng tại
chỗ thực hiện bám trụ, đánh địch liên tục, rộng khắp và lâu dài.
Hải Dương là một tỉnh lớn có vị trí chiến lược về nhiều mặt ở đồng bằng Bắc
Bộ, là nơi có nguồn nhân lực vật lực dồi dào, lại nằm sâu trong vùng địch chiếm
đóng. Vì thế, cuộc chiến đấu trên địa bàn Hải Dương diễn ra hết sức quyết liệt.
Quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, thực hiện khẩu hiệu "Toàn dân
kháng chiến, toàn diện kháng chiến", Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã lãnh đạo quân dân
Hải Dương vượt qua mọi khó khăn gian khổ, vừa chiến đấu vừa xây dựng lực
lượng. Các khu du kích, căn cứ du kích ở Hải Dương tạo điều kiện xây dựng lực
lượng tại chỗ vững mạnh, góp phần to lớn vào việc làm thay đổi so sánh lực lượng,
làm thất bại âm mưu chiếm đóng, bình định của địch và góp sức vào thắng lợi
chung của cuộc kháng chiến trường kỳ; làm rạng rỡ thêm truyền thống anh hùng bất
khuất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của một vùng đất “giàu của, giàu người,
giàu chiến công”.
Từ trước đến nay, đã có nhiều cơng trình khoa học, nhiều tài liệu, sách báo
viết về lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp ở tỉnh Hải Dương trong những năm
1946 – 1954. Nhưng chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn
diện, hệ thống về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong việc xây dựng các
loại hình hậu phương tại chỗ, tạo điều kiện xây dựng lực lượng tại chỗ vững mạnh,
phát huy tiềm lực của địa phương để đánh địch trong kháng chiến chống Pháp. Do


3


vậy, nghiên cứu vấn đề Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo xây dựng hậu phương tại
chỗ trong kháng chiến tồn quốc chống thực dân Pháp khơng chỉ góp phần làm sáng
tỏ quá trình thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, vai trò của hậu
phương đối với tiền tuyến trong sự nghiệp kháng chiến trường kỳ của dân tộc mà
cịn góp phần tìm hiểu cuộc kháng chiến chống Pháp của quân dân Hải Dương, đặc
biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương, đáp ứng u cầu nâng cao
trình độ chun mơn và bồi dưỡng lòng tự hào về truyền thống quê hương.
Hiện nay, đất nước Việt Nam, sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam
đang bước vào thời kỳ phát triển mới với những cơ hội lớn và những thách thức gay
gắt. Nhiệm vụ xây dựng Tổ quốc gắn bó sâu sắc với nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, bảo vệ thành quả cách mạng mà nhân dân Việt Nam đã dày công đấu tranh
xây dựng nên. Bối cảnh trong nước và quốc tế đã có nhiều thay đổi, sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết mà trước hết
là vấn đề xây dựng một nền quốc phịng tồn dân, tồn diện kết hợp với an ninh
nhân dân; vấn đề xây dựng lực lượng, chuẩn bị hậu phương, xây dựng địa bàn
phỏng thủ trên từng địa phương đề phòng chiến tranh xâm lược của kẻ địch.
Do vậy, nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong việc
xây dựng hậu phương tại chỗ trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954)
để rút ra một số bài học, kinh nghiệm lịch sử về xây dựng hậu phương tại chỗ ở Hải
Dương, làm rõ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ tỉnh, góp phần giáo dục truyền
thống cách mạng địa phương cịn là góp phần tổng kết những kinh nghiệm lịch sử
cách mạng cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng ở địa phương và phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo xây
dựng hâu phương tại chỗ trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954)
làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Nghiên cứu về xây dựng hậu phương trên cả nước nói chung và xây dựng hậu
phương tại chỗ ở Hải Dương nói riêng cho đến nay đã có nhiều cuốn sách, nhiều
cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả. Có thể khái qt thành các nhóm sau đây:
2.1. Những cơng trình viết về hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam và
các cơng trình nghiên cứu có đề cập đến vấn đề xây dựng hậu phương tại chỗ
- Nhiều tác phẩm của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã đi sâu vào những nội
dung lý luận, có giá trị chỉ đạo chiến lược hết sức quan trọng như: Đường lối quân

4


sự của Đảng là ngọn cờ trăm trận trăm thắng của chiến tranh nhân dân ở nước ta
của Võ Nguyên Giáp (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970); Chiến tranh giải phóng và chiến
tranh giữ nước (tập 1 và 2) của Võ Nguyên Giáp (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,
1974, 1975); Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam (tập 1 và 2) của
Trường Chinh (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976); Chiến tranh giải phóng dân tộc và
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của Võ Nguyên Giáp (Nxb Sự thật, 1979); Tư tưởng
quân sự Hồ Chí Minh của Bộ Quốc Phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (Nxb
Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2002). Những tác phẩm trên đã khẳng định: Đảng đã
lãnh đạo thành công cuộc xây dựng căn cứ địa cách mạng và hậu phương của chiến
tranh cách mạng. Trong đó, phân tích rõ, chỗ đứng chân của cách mạng Việt Nam
bao gồm từ cơ sở chính trị đến căn cứ địa, hậu phương; có hậu phương chiến lược
và hậu phương tại chỗ, có căn cứ địa ở rừng núi và căn cứ địa ở đồng bằng; trận địa
vững chắc nhất là lòng dân. Nội dung xây dựng căn cứ địa hết sức toàn diện, đi từ
khơng đến có, từ nhỏ đến lớn…
- Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945 – 1975) của Viện Lịch sử
Quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nôi, 1997) là đề
tài cấp Nhà nước nghiên cứu một số vấn đề chiến lược trong lịch sử 30 năm chiến
tranh giải phóng. Đề tài do Trung tướng – GS. PTS Hoàng Phương làm chủ nhiệm.
Cơng trình nêu về vấn đề hậu phương chung của cả nước trong hai cuộc kháng

chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong đó khẳng định: Hậu phương của Việt Nam
trong kháng chiến chống Pháp bao gồm những vùng tự do, các khu du kích, căn cứ
du kích sau lưng địch và lịng dân u nước trong vùng tạm chiếm. Đó là một cơng
trình rất quan trọng để tham khảo đi sâu nghiên cứu về xây dựng hậu phương tại
chỗ trong kháng chiến chống Pháp ở Hải Dương nói riêng.
- Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 – 1954, tập I, II của Viện
Lịch sử Quân sự Việt Nam (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994). Cuốn sách đã
khẳng định, trong suốt chín năm kháng chiến, Đảng đã không ngừng chỉ đạo quân
dân ta ra sức xây dựng, củng cố và phát triển hậu phương, căn cứ địa. Trong tổ chức
hậu phương chiến tranh nhân dân, Đảng đã vận dụng phương thức kết hợp xây dựng
hậu phương tại chỗ ở khắp mọi nơi với xây dựng hậu phương chung cả nước. Trải
qua chín năm vừa kháng chiến vừa kiến quốc, quân và dân ta đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ xây dựng hậu phương, căn cứ địa, giải quyết được vấn đề tiềm lực và đất

5


đứng chân cho cuộc chiến tranh, góp phần hết sức quan trọng vào thắng lợi chung
của cuộc kháng chiến.
- Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ (1946 – 1954)
của Vũ Quang Hiển (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001) là cuốn sách trình bày
một cách cơ bản, có hệ thống sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng trong việc
xây dựng và bảo vệ khu du kích và căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ, từ đó làm
rõ thêm đường lối chiến tranh nhân dân, đường lối xây dựng căn cứ địa hậu phương
của Đảng và vai trò các cấp lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng và bảo vệ
căn cứ du kích.
- Một số căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ trong kháng chiến chống Pháp
(1945 – 1954) của Vũ Quang Hiển (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001) là cuốn
sách nghiên cứu về loại hình chỗ đứng chân của chiến tranh cách mạng Việt Nam,
làm rõ quá trình hình thành và phát triển của một số căn cứ du kích ở đồng bằng

Bắc Bộ, xác định quy luật chung của quá trình đó, bước đầu rút ra một số nhận xét
và bài học kinh nghiệm phục vụ sự nghiệp xây dựng nền quốc phịng tồn dân, bảo
vệ Tổ quốc hiện nay.
- Qn khu ba Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của Phòng khoa học
lịch sử quân sự quân khu 3 (Nxb Quân đội nhân dân, 1998) là cuốn sách viết một
cách tương đối cụ thể và toàn diện những năm tháng chiến đấu oanh liệt trong
kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu Ba, góp phần giáo dục
truyền thống đánh giặc, cứu nước và tổng kết kinh nghiệm chiến tranh nhân dân ở
nước ta.
2.2. Những công trình có đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải
Dương trong xây dựng hậu phương tại chỗ
- Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp trên địa bàn Hải Hưng (1945 –
1954) (Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hải Hưng xuất bản năm 1988); Hải Dương – Lịch
sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 – 1975) của Đảng Ủy,
Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hải Dương (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001); Lịch
sử Đảng bộ tỉnh Hải Dương (1930 – 1975) (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008),
Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh Hải Dương (1947 – 2010) (Đảng bộ quân sự tỉnh Hải
Dương xuất bản năm 2011), Lịch sử truyền thống cách mạng phụ nữ Hải Dương
(1930 – 1975) (Xí nghiệp In Hải Dương xuất bản năm 2000); Lịch sử Mặt trận dân
tộc thống nhất Việt Nam tỉnh Hải Dương 1930 – 2000 (Xí nghiệp In Hải Dương,
xuất bản năm 2002)... Các sách trên đã đề cập khái quát về mảnh đất, con người và

6


truyền thống lịch sử hào hùng của nhân dân Hải Dương trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, khẳng định mỗi bước phát triển của sự nghiệp kháng chiến
đều gắn liền với sự đóng góp to lớn của nhân dân, từ của cải vật chất đến đùm bọc,
che chở nuỗi dưỡng cán bộ, đảng viên, dân quân, du kích, xây dựng lực lượng về
mọi mặt… Các sách báo này đã khẳng định trong những năm chiến tranh, các cấp

ủy đảng đã lãnh đạo quân và dân Hải Dương nói riêng tích cực gây dựng các căn cứ
du kích, cơ sở lãnh thổ hậu phương tại chỗ ở vùng sau lưng và trong lòng “hậu
phương địch”. Cuộc chiến đấu để gây dựng các căn cứ du kích, biến “hậu phương
địch” thành hậu phương tại chỗ của ta diễn ra giằng co, quyết liệt, liên tục và hết
sức gian khổ nhưng cũng là một chặng đường chói lọi chiến cơng của qn dân Hải
Dương, quân dân đồng bằng Bắc Bộ, có đóng góp to lớn vào thắng lợi chung và góp
phần làm phong phú thêm kho tàng kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của nhân dân
Việt Nam, nổi bật là những kinh nghiệm về xây dựng tổ chức hậu phương và nghệ
thuật tiến hành chiến tranh nhân dân trên các vùng đồng bằng rộng lớn bị địch
chiếm đóng.
- Các cuốn: Lịch sử đấu tranh vũ trang cách mạng huyện Thanh Hà (1945 –
1975), Lịch sử đấu tranh vũ trang cách mạng huyện Cẩm Giàng (1945 – 1975), Lịch
sử đấu tranh vũ trang cách mạng huyện Tứ Kỳ (1945 – 1975), Lịch sử đấu tranh vũ
trang cách mạng huyện Gia Lộc (1945 – 1975); Bình Giang – Lịch sử kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 – 1975); Kinh Môn – Lịch sử kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 – 1975); Thanh Miện – Lịch sử
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 – 1975); Nam Sách – Lịch
sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 – 1975) đều có đề cập
đến việc tích cực xây dựng lực lượng, chủ động chống địch lấn chiếm, chủ động
chống địch càn quét và bình định, kiên trì phát động phong trào tồn dân kháng
chiến, mở rộng khu du kích và căn cứ du kích, mở rộng và phát triển các cơ sở
kháng chiến của các địa phương trong cuộc kháng chiến chống Pháp
2.3. Đánh giá chung
Phần lớn các cơng trình nghiên cứu nêu trên đều khẳng định đường lối xây
dựng căn cứ địa, hậu phương của Đảng ta hết sức độc lập, tự chủ, độc đáo và sáng
tạo. Đó là một trong những nguyên nhân thắng lợi của chiến tranh nhân dân Việt
Nam trong thời đại mới.
Các cơng trình đó cung cấp cách nhìn tổng thể và khái quát về cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, ở mức độ khác nhau, đã đề cập đến sự ra đời của hậu


7


phương chiến lược và khái quát việc xây dựng hậu phương của các tỉnh đồng bằng
quân khu Ba, đánh giá vai trò của hậu phương trong cuộc kháng chiến. Nhiều cơng
trình đã viết về cuộc kháng chiến của nhân dân Hải Dương, ít nhiều đã đề cập đến
chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong việc xây dựng hậu phương tại chỗ.
Những cơng trình đó là một nguồn tài liệu quý, đặt cơ sở cho sự nghiên cứu
đầy đủ và toàn diện hơn.
Về lịch sử Hải Dương, đã xuất bản lịch sử đảng bộ, lịch sử truyền thống của
Mặt trận dân tộc thống nhất, của Hội Liên hiệp phụ nữ, lịch sử truyền thống đấu
tranh cách mạng của các huyện, xã… nhưng cho đến nay chưa có một cơng trình
chuyên khảo nào về xây dựng hậu phương tại chỗ ở Hải Dương trong kháng chiến
chống Pháp.
2.4. Các vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu sâu sắc và đầy đủ
- Trình bày luận giải một cách có hệ thống quá trình lãnh đạo xây dựng hậu
phương tại chỗ với chủ trương, biện pháp cụ thể.
- Các giai đoạn và nội dung từng giai đoạn trong quá trình xây dựng hậu
phương tại chỗ ở Hải Dương trong kháng chiến chống Pháp.
- Q trình xây dựng cơ sở chính trị ở Hải Dương trong kháng chiến chống
Pháp; sự ra đời của những khu du kích, căn cứ du kích cụ thể, nội dung xây dựng và
bảo vệ những khu du kích, căn cứ du kích đó.
- Vai trị lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong việc xậy dựng hậu
phương tại chỗ trong kháng chiến chống Pháp.
- Vai trò của hậu phương tại chỗ ở Hải Dương trong kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp.
- Đánh giá ưu điểm và hạn chế của Đảng bộ Hải Dương trong lãnh đạo xây
dựng hậu phương tại chỗ.
- Tổng kết bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn Đảng bộ tỉnh Hải Dương
lãnh đạo xây dựng hậu phương tại chỗ, phục vụ sự nghiệp xây dựng nền quốc

phịng tồn dân, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong quá trình xây
dựng hậu phương tại chỗ trong cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp (1946 –

8


1954) từ đó tổng kết và rút ra một số kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ nhằm
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Trình bày và phân tích một cách có hệ thống q trình chỉ đạo xây dựng
hậu phương tại chỗ trong những giai đoạn khác nhau của cuộc kháng chiến.
- Đánh giá, phân tích để làm rõ những ưu điểm, hạn chế của Đảng bộ tỉnh
Hải Dương trong quá trình lãnh đạo xây dựng và bảo vệ hậu phương tại chỗ.
- Phân tích nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế đó để từ đó rút ra một
số kinh nghiệm lịch sử từ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Chủ trương của Đảng về xây dựng hậu phương tại chỗ ở đồng bằng Bắc Bộ
trong kháng chiến chống Pháp nói chung.
- Hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương về xây dựng hậu phương
tại chỗ trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946- 1954).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung:
+ Những yếu tố, những điều kiện chi phối, có ảnh hưởng đến quá trình lãnh
đạo xây dựng hậu phương tại chỗ của Đảng bộ tỉnh Hải Dương (những thuận lợi và
khó khăn về địa lý, tự nhiên, cư dân, truyền thống; tình hình địch; tình hình so sánh

lực lượng trên địa bàn)
+ Những chủ trương của Đảng và Hồ Chí Minh về xây dựng hậu phương của
chiến tranh nhân dân để phát động toàn dân đánh giặc.
+ Sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng bộ tỉnh Hải Dương trong xây dựng hậu
phương tại chỗ; tinh thần phấn đấu hy sinh của cán bộ, đảng viên ở mặt trận sau
lưng địch.
+ Những hoạt động xây dựng hậu phương của các cấp đảng bộ, chính quyền
và quần chúng nhân dân.
+ Những nội dung cụ thể của việc xây dựng hậu phương tại chỗ về chính trị,
qn sự, kinh tế, văn hóa.
+ Cuộc đấu tranh chống địch càn quét, những hoạt động để bảo vệ hậu
phương tại chỗ trên địa bàn tỉnh Hải Dương, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “lấy
chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch trên địa
bàn tỉnh Hải Dương.

9


- Về thời gian:
+ Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra từ năm 1945, nhưng trên
địa bàn Hải Dương bắt đầu từ 1946, do đó, Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương từ năm 1946 đến năm 1954.
+ Tuy nhiên Luận văn cũng đề cập đến vấn đề xây dựng nơi đứng chân của
cách mạng trong thời gian trước đó (sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công)
để làm rõ một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến xây dựng hậu phương tại chỗ
trong thời gian sau này.
- Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hải
Dương.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu

- Các Văn kiện Đảng, các nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Hải Dương về cuộc
kháng chiến chống Pháp, những tài liệu về chỉ đạo xây dựng và bảo vệ hậu phương
của Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương, Bộ tư lệnh quân khu Ba, các nghị
quyết, chỉ thị của Liên khu Ba, của Tỉnh ủy Hải Dương. Các nguồn tài liệu về xây
dựng hậu phương tại chỗ được lưu trữ ở Trung ương và địa phương.
- Các tài liệu báo cáo, tổng kết, ghi chép của các ban, ngành có liên quan
gồm cả những tài liệu đã công bố và chưa công bố, các tài liệu có lưu trữ tại Tỉnh
ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh, Thư viện Tỉnh, Ban Lưu trữ Tỉnh ủy.
- Các sách báo đã xuất bản ở Trung ương và tỉnh Hải Dương viết về lịch sử
kháng chiến chống Pháp của nhân dân Hải Dương.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng hậu phương tại chỗ.
- Cơ sở phương pháp luận: phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê nin và phương pháp luận
triết học Mác xít.
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu:
+ Phương pháp lịch sử (để mô tả đúng sự thật lịch sử, phản ánh một cách
khách quan sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương xây dựng và bảo vệ hậu
phương tại chỗ đúng như thực tế khách quan)
+ Phương pháp lôgic: tổng kết, đánh giá một cách đúng đắn ưu điểm và hạn
chế của Đảng bộ cũng như thành tựu, hạn chế trong xây dựng hậu phương tại chỗ

10


trong kháng chiến toàn quốc chống Pháp. Đồng thời để bước đầu rút ra một số kinh
nghiệm lịch sử.
+ Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể
khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…

6. Đóng góp mới của luận văn
- Về mặt khoa học: Luận văn phân tích làm rõ sự lãnh đạo và vai trò lịch sử
của Đảng bộ tỉnh Hải Dương đối với việc xây dựng hậu phương tại chỗ trong cuộc
kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp và các điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo
đó.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn rút ra được những nhận xét và những kinh
nghiệm có giá trị về lãnh đạo xây dựng hậu phương của chiến tranh nhân dân phục
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3
chương:
Chương 1 : Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong xây
dựng hậu phương tại chỗ giai đoạn 1946 – 1950
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng hậu
phương tại chỗ giai đoạn 1951 – 1954
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử

11


Chương 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƢƠNG
TRONG XÂY DỰNG HẬU PHƢƠNG TẠI CHỖ
GIAI ĐOẠN 1946 – 1950
1.1. Những yếu tố có ảnh hƣởng đến việc xây dựng hậu phƣơng tại chỗ
trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng
Điều kiện tự nhiên
Hải Dương là một tỉnh lớn, diện tích tự nhiên là 1.662km2.; phía Đơng giáp
thành phố Hải Phịng; phía Tây giáp tỉnh Hưng n; phía Nam giáp tỉnh Thái Bình;
phía Bắc giáp các tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh [33, tr. 9]. Nằm trải dài

và án ngữ phía đơng và phía bắc đồng bằng Bắc Bộ, từ Tả ngạn sông Hồng đến
sông Lục đầu, nên Hải Dương là tỉnh chịu tác động mạnh của hệ thống sơng phía
bắc. Hải Dương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và có vị trí chiến lược
về chính trị, quân sự hết sức quan trọng của cả nước.
Nằm trên một địa bàn quan trọng của Tổ quốc, Hải Dương là vành đai bảo vệ
trực tiếp thủ đô Hà Nội, là tuyến trong của thành phố cảng Hải Phịng. Điểm cực
bắc của tỉnh là xã Hồng Hoa Thám (Chí Linh) chỉ cách biên giới phía bắc 82km
theo đường chim bay, nhân dân địa phương đi theo đường xuyên rừng 2 ngày, đêm
đã tới biên giới Việt Trung. Phía đơng tiếp giáp với thành phố Hải Phịng, điểm gần
biển nhất là Quý Cao (Tứ Kỳ), cách bờ biển 25km theo đường thẳng và 30km theo
đường sông Văn Úc. Từ phía Đơng Hải Dương được thơng với biển bằng mạng lưới
sông lớn đổ ra 6 cửa sông, từ những cửa sơng này, tàu thuyền có thể từ biển vào thị
xã Hải Dương, qua Lục Đầu Giang theo sông Đuống về thủ đô Hà Nội hoặc theo
sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam tiến sâu vào trung tâm Việt Bắc [34, tr.10].
Trong các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nhiều lần các thế lực ngoại xâm đã
sử dụng những tuyến sông này làm những hướng tiến quân chủ yếu. Khi các
phương tiện vận tải đường không, đường sắt, đường bộ chưa phát triển, mạng lưới
đường sông trên đất Hải Dương có vị trí quan trọng trong vận tải nói chung, đặc biệt
là trong vận tải quân sự. Và ngày nay, tuyến đường thủy này vẫn đóng vai trị quan
trọng về kinh tế và quân sự.
Không chỉ quan trọng về đường thủy, Hải Dương cịn giữ vị trí chiến lược về
giao thông đường bộ, đường sắt, nối thủ đô Hà Nội với cảng Hải Phịng và vùng
cơng nghiệp mỏ Quảng Ninh. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, tuyến đường
quốc lộ số 5 và đường sắt Hà Nội – Hải Phòng chạy trên qua Hải Dương là "cái yết

12


hầu" nối "cuống họng" (Hải Phòng) với "cái dạ dày" (Hà Nội) [33, tr.15]. Ở phía
Bắc tỉnh, đường số 18 chạy xun hai huyện Chí Linh, Đơng Triều. Mạng lưới

đường bộ chạy chằng chịt ngang dọc khắp tỉnh cũng khá phát triển, có ý nghĩa lớn
trong chiến tranh cũng như trong phát triển sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân.
Địa hình Hải Dương phần lớn là đồng bằng (chiếm 89%), bán sơn địa và
rừng núi (chiếm 11%), nghiêng từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam. Hải Dương
nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, được chia thành hai mùa rõ rệt. Những
tháng mùa khô, cơ giới hoạt động thuận tiện, các loại xe vận tải quân sự và xe chiến
đấu loại nhẹ đi lại dễ dàng trên cả quốc lộ, đường liên tỉnh, liên huyện, xe bánh xích
có thể cơ động trên các cánh đồng. Về mùa mưa, xe cơ giới chỉ hoạt động được trên
các quốc lộ và các đường liên tỉnh, liên huyện được rải mặt và các tuyến đê [33,
tr.17].
Do kết cấu địa chất của vùng châu thổ, nên đất đai phần lớn của Hải Dương
thuộc loại sa bồi và thịt pha cát, nhất là các huyện nằm ven sông Luộc và các triền
hạ lưu sơng Thái Bình. Vùng đất thịt và sét nằm ở các huyện nội đồng, thường có
cốt đất thấp, lại bị mưa hay gây úng, nên nhìn chung là khó cấu trúc cơng sự ngầm,
khó khăn trong việc xây dựng kho bãi để cất giấu tài sản, vũ khí, khí tài, lương thực,
thực phẩm. Ở các huyện phía Đơng và Đơng Nam của tỉnh do sơng, lạch chằng chịt
nên ngồi những khó khăn trên cịn có thêm trở ngại lớn là địa bàn bị chia cắt, chiến
trường dễ bị bao vây, cơ lập nếu đối phương có thủy đội mạnh [34, tr.12].
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, hầu hết các làng xã trên địa bàn Hải
Dương nằm dọc hai bên các triền sông. Vùng ven sông Luộc, sông Thái Bình, sơng
Kinh Thầy... có các khu vực làng mạc dầy đặc, rất thuận tiện cho việc trú quân và
giấu quân, cơ động lực lượng và tổ chức chiến đấu liên hồn. Một số huyện trong
tỉnh do ít sơng lạch, nguồn nước khó khăn, nên làng mạc thưa thớt, phần nhiều ở thế
độc lập; có nơi làng này sang làng kia cách nhau từ 2 đến 3km, tạo nên những
khoảng trống lớn, có những cánh đồng rộng hàng trăm hecta… Ở các huyện Cẩm
Giàng, Ninh Giang, Gia Lộc, Thanh Miện, Nam Sách, Tứ Kỳ, làng xóm thường có
lũy tre bao bọc kín đáo và chắc chắn, có nhiều ao xen kẽ, đường đi lối lại ngoằn
ngoèo và hiểm trở, cổng làng được xây dựng kiên cố… thuận tiện cho việc xây
dựng công sự và tổ chức chiến đấu, nhưng dễ bị bao vây, chia cắt, bị hỏa lực địch
tập trung đánh phá nếu khơng biết tổ chức chiến đấu liên hồn và giỏi đánh địch

bằng nhiều cách thích hợp. Ở các huyện Chí Linh và Kinh Mơn làng mạc thường
nhỏ nằm bám theo các triền núi, sông; ở trong các thung lũng, khe; một số làng nằm

13


ở ngay cửa rừng hoặc nằm sâu và ăn liền vào dãy núi Yên Phụ rất hiểm trở [33,
tr.19]. Những nơi này vừa tiện cho việc cấu trúc công sự; vừa tiện cho xây dựng các
căn cứ hậu phương, kho, trạm, là nơi đứng chân cho lực lượng chiến đấu lớn và tổ
chức tác chiến cho cả ba thứ quân, với nhiều lối đánh phong phú. Nhưng đây cũng
là vùng dễ bị địch chia cắt do nhiều sông, rạch và nhiều đường chiến lược chạy qua,
là nơi dễ gặp khó khăn về bổ sung tiếp túc do nguồn hậu cần tại chỗ cịn hạn chế.
Như vậy, với vị trí quan trọng, địa hình, khí hậu thuận lợi, Đảng bộ và nhân
dân Hải Dương có điều kiện phát huy thế mạnh xây dựng hậu phương tại chỗ vững
mạnh góp phần làm nên thắng lợi chung của đất nước trong cuộc kháng chiến
trường kỳ chống thực dân Pháp
Điều kiện kinh tế, xã hội
Kinh tế ở Hải Dương dựa trên nền sản xuất nơng nghiệp là chính. Khí hậu ơn
hịa, đất đai màu mỡ, nên nghề nông trồng lúa nước đã trở thành nghề truyền thống
của nhân dân trong tỉnh với trình độ thâm canh ngày một cao. Từ xa xưa, bên cạnh
cây lúa nước là chủ đạo, nhân dân Hải Dương đã tận dụng đất bãi để phát triển nghề
trồng dâu nuôi tằm, tự túc một phần may mặc; đã tận dụng vùng sình lầy ngập mặn
để trồng cói dệt chiếu, tận dụng vùng đồi núi để trồng chè, đậu tương, đỗ, lạc... bổ
sung nguồn thực phẩm phục vụ dân sinh và phục vụ kháng chiến. Chăn nuôi cũng là
thế mạnh của Hải Dương. Nhân dân Hải Dương đã phát triển chăn ni gia súc, gia
cầm... Do có nhiều ao hồ, sơng lạch, nên nghề nuôi và đánh bắt cá nước ngọt ở Hải
Dương cũng khá phát triển. Đặc biệt vùng đồi núi Chí Linh, Đơng Triều, mỗi làng
bản có hàng đàn trâu, bò, dê... cung cấp nguồn sức kéo và thực phẩm cho xã hội. Có
thể khẳng định, lương thực, thực phẩm là những mặt hàng chiến lược của Hải
Dương. Ngoài việc tự cung cấp phục vụ quốc kế dân sinh thì nguồn lương thực,

thực phẩm đó cịn bảo đảm cho nhu cầu thiết yếu của các cuộc khởi nghĩa và chiến
tranh chống lại mọi kẻ thù của dân tộc trong các thời kỳ trên địa bàn quê hương một
cách kịp thời và có hiệu quả.
Ngồi đất đai sản xuất ra lương thực, thực phẩm, Hải Dương cịn có những
khống sản phục vụ cho dân sinh và quốc phòng như than đá, đất chịu lửa, bơ xít,
cao lanh đá vơi, cát trắng, than non, khí đốt... Diện tích rừng trồng khơng lớn nhưng
có nhiều gỗ q ở Bắc An, Hồng Hoa Thám. Song, tre, mây thì khá nhiều, được
trồng bao bọc ở hàng nghìn làng, xóm khắp tỉnh, ngồi việc góp phần phát triển
nghề thủ cơng nó cịn tạo ra cho cơng binh xưởng Chí – Nam – Kinh, cho các bễ lò
rèn của các làng kháng chiến, cả vật liệu rèn kiếm, vót chơng, gậy tầm vơng, đánh

14


dao, đúc mìn, lựu đạn, địa lơi... tự túc một phần quan trọng vũ khí thơ sơ để đánh
giặc ngay giữa lòng địch trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trước Cách mạng tháng Tám, Hải Dương chỉ vẻn vẹn có 3 xí nghiệp than,
một nhà máy rượu, một số xí nghiệp đá. Dân số Hải Dương có khoảng gần 900.000
người, trong đó trên 92% là nơng dân, địa chủ gần 6%, còn lại là các tầng lớp khác.
Đồng bào theo đạo Chiên Chúa ở rải rác trong tỉnh, nhưng tập trung nhiều nhất là ở
khu Kẻ Sặt (Bình Giang), Ba Đông, Bượi Răm (Gia Lộc), thành phố Hải Dương và
những nơi xung yếu ven đường giao thơng có ý nghĩa về mặt quân sự [34, tr.16]
(theo thống kê năm 2005, dân số Hải Dương có 1.711. 364 người [13, tr.13].
Truyền thống lịch sử
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, nhân dân Hải Dương có sức mạnh
cộng đồng vô cùng to lớn được hun đúc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hải Dương
cũng là một trong những miền đất tiêu biểu của các công cuộc trị thủy, khẩn hoang
và lao động cần cù sáng tạo…
Mảnh đất Hải Dương là vùng đất nổi tiếng khắp cả nước về truyền thống đỗ
khoa bảng qua các triều đại phong kiến Việt Nam. Từ khoa thi đầu tiên năm 1075

đến khoa thi cuối cùng 1919, Hải Dương là vùng đất có nhiều tiến sĩ nhất cả nước;
trong đó làng Mộ Trạch (Bình Giang) nổi tiếng là "Lị Tiến sĩ xứ Đông" [13,
tr.25]... Hải Dương là nơi sinh ra và nuôi dưỡng nhiều tài năng lỗi lạc. Mạc Đĩnh
Chi – người làng Lơi Động, Chí Linh nổi tiếng là người “có đầu óc kinh bang tế thế
vào bậc nhất”, được vua Nguyên phong học vị “Lưỡng quốc trạng nguyên”. Chu
Văn An- người được suy tôn “người thầy của muôn đời” quê Thanh Trì, Hà Nội
nhưng những năm tháng cuối đời ơng về sống ở núi Phượng Hồng (Chí Linh) dựng
nhà dạy học. Tuệ Tĩnh (người làng Nghĩa Phú, Cẩm Giàng) là Đại danh y có cơng
lớn trong việc đặt nền móng xây dựng sự nghiệp y học dân tộc. Nguyễn Trãi – danh
sĩ, nhà văn hóa lớn, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới vốn quê làng Chi
Ngãi (nay là Cộng Hịa – Chí Linh). Ngồi ra, mảnh đất Hải Dương còn sinh ra
nhiều danh nhân khác như: Vũ Hữu – danh sĩ, nhà toán học đời Lê Thánh Tơng
(q làng Mộ Trạch, Bình Giang); Nguyễn Thị Duệ – người phụ nữ Việt Nam đầu
tiên có học vị cao nhất trong lịch sử giáo dục thời phong kiến…
Với nguồn tài nguyên phong phú và vị trí chiến lược quan trọng, Hải Dương
ln là mục tiêu chiếm đóng và đặt ách cai trị của các thế lực ngoại xâm. Nhân dân
Hải Dương đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường trong các cuộc
đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, lập nên biết bao chiến công hiển hách. Hải Dương

15


là nơi sinh ra hoặc dựng binh của những nhà quân sự lỗi lạc. Đó là Khúc Thừa Dụ,
người làng Cúc Bồ (Ninh Giang) ngay từ năm 905, giữa đêm dài nghìn năm đơ hộ,
đã lãnh đạo nhân dân đứng lên giành quyền tự chủ từ tay bọn phong kiến nhà
Đường. Trần Quốc Tuấn – một thiên tài quân sự, lãnh đạo quân dân Đại Việt giành
chiến thắng vang dội ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp đuổi giặc ra khỏi đất
nước – cuối đời đã về sống ở Vạn Kiếp (Chí Linh – Hải Dương). Ngồi ra cịn
nhiều nhân vật tiêu biểu khác như Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn
Chế Nghĩa…

Lịch sử đã từng ghi nhận nhân dân Hải Dương một lịng góp sức nâng "con
thuyền" dân tộc vượt qua mọi phong ba, thác ghềnh, để giành và giữ gìn non sơng
gấm vóc. Đến khi nhà nước phong kiến mục nát thì nhân dân Hải Dương lại ln vì
nghĩa lớn, phản kháng quyết liệt lại giai cấp thống trị, không mảy may nhượng bộ.
Trong các thế kỷ XVI – XVII, nhân dân Hải Dương hăng hái tham gia các cuộc
khởi nghĩa của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ (Nam Sách). Sang thế kỷ XVIII, đầu thế
kỷ XIX, cả vùng xứ Đông đã tập hợp lực lượng, dưới cờ khởi nghĩa của Nguyễn
Hữu Cầu (Tức Quận He, người làng Lôi Động, Thanh Hà), góp phần làm lung lay
chế độ phong kiến Lê – Trịnh và cổ vũ cuộc kháng chiến của nông dân ở Đàng
Trong.
Cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm lược và đơ hộ Việt Nam, triều đình nhà
Nguyễn và các thế lực phong kiến đầu hàng giặc. Nhân dân Hải Dương lại vùng lên
chống thực dân Pháp xâm lược. Đứng trước nhục mất nước, mảnh đất Hải Dương
đã sinh thành và ni dưỡng chí lớn cho các nhà yêu nước dựng cờ "Cần vương",
tập hợp hàng vạn nông dân, lập căn cứ kháng chiến.
Như vậy, đất và người Hải Dương “địa linh, nhân kiệt” là một điều kiện
thuận lợi để Đảng bộ địa phương để ra chủ trương và chỉ đạo thực hiện xây dựng
hậu phương tại chỗ, góp phần cùng các địa phương khác trong cả nước tiến hành
thắng lợi cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, tồn diện, lâu dài và dựa vào sức
mình là chính trong cuộc kháng chiến tồn quốc chống thực dân Pháp 1946 – 1954.
Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo xây dựng chế độ mới, đặt cơ sở để xây
dựng hậu phương tại chỗ trước ngày 19/12/1946
Tháng 8/1945, trước tình thế khẩn trương của cách mạng, được sự chỉ đạo
của Xứ ủy Bắc Kỳ, Tỉnh ủy Hải Dương triệu tập Hội nghị Cán bộ tại thôn Đông,
Thanh Tùng (Thanh Miện) từ ngày 13/8/1945. Khi nhận được tin Nhật đầu hàng
Đồng minh, Hội nghị quyết định phát động toàn Tỉnh nổi dậy giành chính quyền từ

16



tay phát xít Nhật, thành lập chính quyền cách mạng ở các cấp. Ngày 18/8/1945, tỉnh
lỵ Hải Dương được giải phóng; ngày 22/8/1945, tổng khởi nghĩa giành chính quyền
thắng lợi trong tồn Tỉnh.
Giành được chính quyền đã khó, giữ chính quyền cịn khó hơn. Nằm trong
bối cảnh chung của đất nước, Đảng bộ và nhân dân Hải Dương đứng trước những
thách thức vơ cùng khó khăn, phức tạp… Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ tỉnh Hải Dương quyết tâm lãnh đạo nhân dân
khắc phục mọi khó khăn, vượt qua thử thách, đấu tranh giữ vững và củng cố chính
quyền cách mạng.
Quán triệt Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Trung ương Đảng; Tỉnh ủy
Hải Dương lãnh đạo nhân dân giải quyết hai nhiệm vụ bức thiết là cứu đói và chống
mù chữ. Tỉnh ủy lãnh đạo nhân dân mở đợt chống giặc đói bằng cách “nhường cơm
sẻ áo”, thực hành tiết kiệm, đẩy mạnh sản xuất… Mặc dù cịn khó khăn về tài chính,
nhưng chính quyền cách mạng thể hiện rõ tính ưu việt của chế độ mới bằng chính
sách thuế hợp lý: bãi bỏ thuế thân và một số loại thuế vô lý, giảm tô 25%; tiến hành
chia lại ruộng đất công một cách hợp lý. Nhờ các biện pháp chỉ đạo đúng đắn, kịp
thời và sự tự khắc phục của nhân dân, nạn đói được đẩy lùi, sản xuất dần phục hồi,
đời sống nhân dân ổn định. Việc khôi phục các ngành kinh tế, tài chính, sản xuất thủ
cơng, kỹ nghệ cũng được Tỉnh ủy quan tâm nhằm ổn định đời sống nhân dân và
phục vụ cho công cuộc chuẩn bị kháng chiến… Bên cạnh đó, thắng lợi to lớn bước
đầu của cuộc vận động chống nạn mù chữ, đẩy mạnh giáo dục của Đảng bộ và nhân
dân Hải Dương góp phần nâng cao dân trí, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham
gia quản lý Nhà nước…
Cởi bỏ được gông xiềng nô lệ và được hưởng các quyền cơ bản do cách
mạng đem lại, nhân dân trong tỉnh nơ nức tham gia góp cơng, góp của để xây dựng
nền tài chính quốc gia. Riêng “Tuần lễ vàng” chỉ tính các huyện Ninh Giang, Gia
Lộc, Nam Sách, Kinh Mơn, Bình Giang và thị xã Hải Dương đã thu được 216 lạng
vàng, 711 lạng bạc, 5 tấn đồng, 33 vạn tiền Đông Dương [34, tr.37].
Sau Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Đảng bộ Hải Dương có nhiều biện
pháp tích cực để củng cố, kiện tồn bộ máy chính quyền cách mạng lâm thời các

cấp. Để khắc phục tình trạng các cơ sở cách mạng phát triển không đều và để tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, ngay từ đầu tháng 9/1945, Tỉnh ủy nhanh chóng sắp
xếp cán bộ, đưa cán bộ xuống các huyện, phát triển đảng viên, xây dựng cơ sở đảng,
thành lập chi bộ. Ở các huyện chưa có hoặc chưa khơi phục được tổ chức đảng như

17


huyện Chí Linh, Bình Giang, Cẩm Giàng…, Tỉnh bổ sung thêm cán bộ, thành lập
Ban Cán sự Đảng của huyện. Có tổ chức và cơ quan lãnh đạo của Đảng, các địa
phương trong Tỉnh đã nhanh chóng củng cố, xây dựng các tổ chức thanh niên, phụ
nữ, nông dân, công đoàn, phụ lão, thiếu niên…
Trong tháng 9/1945, khi đổi Ủy ban Nhân dân Cách mạng Lâm thời thành
Ủy ban Nhân dân các cấp, nhiều cấp bộ Đảng địa phương đã lãnh đạo tốt việc đưa
đảng viên tham gia chính quyền, củng cố một bước chính quyền cơ sở. Thực hiện
Sắc lệnh của Chính phủ, lực lượng cơng an được thành lập, chính quyền cách mạng
có thêm cơng cụ chun chính, để trấn áp thù trong, giặc ngoài.
Từ tháng 12/1945, thi hành chủ trương của Trung ương Đảng và Chính phủ
về việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội, Đảng bộ tổ chức đợt tuyên truyền, cổ
động rộng khắp, chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết cho cuộc bầu cử. Ngày 6/1/1946,
tại Hải Dương, cuộc bầu cử Quốc hội diễn ra trong vòng vây của kẻ thù nhưng đã
giành được thắng lợi rực rỡ. Trên 98% số cử tri đi bỏ phiếu, những người trúng cử
đều là những người trong mặt trận Việt Minh và những người do Mặt trận giới thiệu
[13, tr.132]. Tiếp sau bầu cử Quốc hội, ngày 26/4/1946, nhân dân Hải Dương nô
nức đi bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và xã. Hội đồng nhân dân cử ra Ủy ban
hành chính thay cho Ủy ban nhân dân. Đây là thắng lợi có ý nghĩa quyết định đối
với cơng cuộc xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân. Bộ
máy chính quyền từ tỉnh xuống xã được kiện toàn, phát huy tác dụng trong việc
thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ.
Đồng thời với việc xây dựng và củng cố chính quyền thì Đảng bộ đặc biệt

quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang và nền quốc phòng toàn dân. Tỉnh ủy đã chỉ
đạo gấp rút xây dựng bộ đội cảnh vệ của tỉnh và các phủ huyện. Ở các làng xã trong
tỉnh, lực lượng tự vệ gấp rút được củng cố và mở rộng. Đến cuối năm 1945, Tỉnh tổ
chức ra các đơn vị Giải phóng quân, cả Tỉnh là một chi đội, mỗi huyện gồm một
trung đội. Đây là đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của Tỉnh, dựa vào chiến khu
Đông Triều để xây dựng lực lượng vũ trang tập trung của địa phương.
Dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng, nhiều hội viên hăng hái nhiệt tình trong
các tổ chức quần chúng được lựa chọn bổ sung vào lực lượng vũ trang và bán vũ
trang. Nhờ đó, các đội tự vệ và du kích phát triển nhanh. Phong trào tự vũ trang,
phong trào học tập quân sự, chế tạo, mua sắm vũ khí, trang bị cho bộ đội và tự vệ
phát triển rầm rộ, sơi nổi khắp nơi. Tuy cịn thiếu thốn nhiều mặt, nhưng lực lượng
vũ trang của Tỉnh ngày càng phát huy được truyền thống cách mạng, bản chất tốt

18


đẹp, góp phần quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ, giữ vững và củng cố
chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân, chuẩn bị kháng chiến chống thực dân
Pháp.
Thắng lợi bước đầu trong cuộc đấu tranh xây dựng nền móng chế độ mới, ổn
định và cải thiện đời sống nhân dân có ý nghĩa chính trị hết sức to lớn. Nhân dân
được hưởng quyền tự do dân chủ sẽ càng thêm tin tưởng, gắn bó và quyết tâm bảo
vệ chế độ mới. Đó là sức mạnh để bảo vệ chính quyền cách mạng, giữ vững quyền
lãnh đạo của Đảng, là sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng thù trong, giặc ngoài.
Từ tháng 10/1945, quân Trung Hoa Dân quốc đã vào chiếm đóng địa bàn Hải
Dương, đem theo và gây dựng bọn phản động, âm mưu lật đổ chính quyền cách
mạng non trẻ. Trong đấu tranh với quân Trung Hoa Dân quốc, Đảng bộ Tỉnh luôn
đứng vững trên lập trường bảo vệ chủ quyền và độc lập dân tộc, có lúc phải nhân
nhượng nhưng nhân nhượng có nguyên tắc, kiên quyết và mềm dẻo, sử dụng những
hình thức đấu tranh thích hợp để chống lại sự phá hoại của chúng. Đối với bọn tay

sai phản động phải kiên trì giáo dục, phân loại và kiên quyết trừng trị khi chúng
ngoan cố chống phá. Trước sức mạnh đấu tranh của nhân dân trong Tỉnh, quân
Trung Hoa Dân quốc phải co lại. Âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, phá tan
Việt Minh của chúng ở Hải Dương bị thất bại.
Đêm ngày 22 rạng ngày 23/9/1945, quân Pháp trắng trợn gây hấn ở Sài Gòn,
mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Được sự chỉ đạo của Tỉnh
ủy, phong trào “Nam tiến”, “Quỹ Nam bộ kháng chiến” được phát động trong tồn
Tỉnh, thu hút đơng đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia…
Ngày 28/2/1946, Pháp và Trung Hoa Dân quốc ký hiệp ước Trùng Khánh
(Hiệp ước Hoa – Pháp). Để kìm hãm bước tiến của kẻ thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Trung ương Đảng chủ trương hịa hỗn với thực dân Pháp bằng việc ký Hiệp định
Sơ bộ ngày 6/3/1946. Tiếp đó, ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tiếp với
Chính phủ Pháp bản Tạm ước Việt – Pháp. Cuối tháng 4/1946, quân Trung Hoa
Dân quốc rút khỏi địa bàn Hải Dương, quân Pháp kéo vào. Thực hiện chỉ thị “Hòa
để tiến” của Trung ương, Tỉnh ủy triển khai hàng loạt nhiệm vụ nhằm tranh thủ thời
gian hịa hỗn, tập trung xây dựng củng cố lực lượng về mọi mặt, chuẩn bị cho
kháng chiến lâu dài. Tỉnh ủy đã tổ chức đợt tuyên truyền ý nghĩa của việc ký kết
Hiệp định Sơ bộ, đả phá các tư tưởng bi quan, nơn nóng ảo tưởng; vạch trần luận
điệu cơ hội, chống đối, giả danh cách mạng; phê phán các quan điểm của bọn phản
động xuyên tạc chủ trương tạm thời hịa hỗn của Đảng.

19


Vừa đấu tranh với quân Pháp và diệt trừ nội phản, Tỉnh ủy chỉ đạo tiếp tục
xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, đặc biệt là xây dựng lực lượng vũ trang.
Cuối tháng 5 đầu tháng 6/1946, Chiến khu Ba đã cải tổ, đổi tên các chi đội Vệ quốc
đoàn thành 3 trung đoàn Vệ quốc đoàn, là lực lượng chủ lực của Chiến khu. Trung
đoàn 44 Vệ quốc đồn đóng tại Hải Dương, Hưng n. Mặt khác, Tỉnh ủy chỉ đạo
kiện toàn đại đội cảnh vệ cấp tỉnh và các trung đội cảnh vệ cấp huyện. Việc củng

cố, xây dựng lực lượng tự vệ chiến đấu ở các xã cũng được phát triển, cả Tỉnh có
hàng chục nghìn người tham gia. Nhằm chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống xâm
lược, Tỉnh ủy chỉ đạo các địa phương xây dựng làng chiến đấu, trước mắt tập trung
đến việc rào làng, đắp lũy, củng cố lực lượng là chủ yếu.
Thực hiện chủ trương của Trung ương về việc tăng cường và củng cố khối
đoàn kết toàn dân, tập hợp thêm lực lượng cho cách mạng, Đảng bộ tỉnh vừa củng
cố mặt trận Việt Minh, vừa triển khai cuộc vận động thành lập Hội liên hiệp quốc
dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt, thành lập tháng 7/1946) với các đoàn thể quần
chúng rộng rãi. Dưới sự lãnh đạo của các cấp đảng bộ, các đoàn thể này đã trở thành
lực lượng hậu thuẫn vững chắc cho chính quyền cách mạng, là cơ sở cho việc xây
dựng lực lượng vũ trang và chuẩn bị kháng chiến sau này.
Công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh, số lượng đảng viên tăng, thành
phần giai cấp trong Đảng được mở rộng gồm nông dân, công nhân, tiểu tư sản
nhưng đa số là trung, bần, cố nông. Tháng 6/1946, Đảng bộ tỉnh tổ chức thành công
Đại hội Đảng bộ lần thứ nhất (tại Vĩnh Long – Cẩm Giàng) bầu ra Ban Chấp hành
Tỉnh Đảng bộ chính thức. Đại hội thành cơng có ý nghĩa quan trọng đối với công
tác củng cố phát triển Đảng. Đến cuối năm 1946 hệ thống tổ chức của Đảng bộ đã
được kiện tồn chặt chẽ. Nhờ đó, phong trào cách mạng trong toàn Tỉnh ngày càng
phát triển.
Để chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc kháng chiến, đầu tháng 9/1946,
Ủy ban Hành chính Tỉnh quyết định thành lập cơng binh xưởng của tỉnh với xướng
cơ khí mỏ Mạo Khê làm nịng cốt. Sau đó Ủy ban Tỉnh quyết định thành lâp chi đội
cảnh vệ tỉnh (thay cho đơn vị vệ quốc đoàn đã chuyển thành bộ đội quốc gia). Đến
cuối tháng 11/1946, Ủy ban bảo vệ (sau đổi thành Ủy ban kháng chiến) từ tỉnh đến
xã được thành lập để chuẩn bị kháng chiến.
Trải qua hơn một năm (từ tháng 8/1945 đến tháng 12/1945), trong hồn cảnh
cực kỳ khó khăn, phức tạp, Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo nhân dân toàn Tỉnh
thực hiện nghiêm túc chủ trương của Trung ương Đảng ở địa phương. Trong hơn

20



một năm đó, chính quyền cách mạng từ tỉnh đến các huyện, xã được củng cố; Đảng
bộ có bước trưởng thành mới với đội ngũ đảng viên đông đảo; khối đoàn kết toàn
dân ngày càng sâu rộng; lực lượng vũ trang trong Tỉnh đã sẵn sàng chiến đấu hy
sinh, làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc. Tất cả là cơ sở để Đảng bộ Hải Dương
lãnh đạo toàn quân, tồn dân trong tỉnh xây dựng thành cơng hậu phương tại chỗ
trong kháng chiến chống Pháp sau này.
Chủ trương của Đảng
« Trong q trình lịch sử, mỗi khi dân tộc Việt Nam đứng lên chiến đấu để
giành hoặc bảo vệ nền độc lập dân tộc, những người lãnh đạo đều biết xây dựng chỗ
đứng chân... Từ khi Đảng ra đời, xác định con đường cách mạng bạo lực, con
đường khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, đánh đổ kẻ thù của dân tộc, thì vấn
đề xây dựng chỗ đứng chân cũng được đặt ra... Đảng đã ra sức vận động, giáo dục,
động viên, tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh chính trị dưới nhiều hình thức,
qua đó mà phát triển Đảng và những tổ chức chính trị của quần chúng, xây dựng
những cơ sở chính trị ở khắp nơi... Chính từ những cơ sở chính trị đó..., Đảng đã ra
sức xây dựng những căn cứ vũ trang bí mật, đẩy mạnh đấu tranh chính trị kết hợp
với đấu tranh vũ trang từ thấp đến cao..., phát động chiến tranh du kích và khởi
nghĩa vũ trang từng phần, mở ra khu giải phóng Việt Bắc và một số căn cứ du kích
ở các địa phương khác, đi đơi với phát triển mạnh mẽ và rộng rãi những cơ sở chính
trị trên khắp cả nước, đẩy mạnh cao trào cách mạng của quần chúng ; tiến lên tổng
khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền trên cả nước, thành lập nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa [44, tr.55].
Cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu vào lúc nhân dân Việt Nam vừa giành
được chính quyền. Mười sáu tháng vừa kháng chiến vừa tạm thời hịa hỗn ở miền
Bắc chưa đủ để nhân dân khắc phục hậu quả và giải quyết những di sản nặng nề của
đế quốc, phong kiến và chiến tranh để lại. Nhưng khi khả năng hịa hỗn khơng cịn
nữa, mọi nhân nhượng đến giới hạn cuối cùng, sự lựa chọn duy nhất của Đảng và
nhân dân là cầm vũ khí chiến đấu.

Đường lối kháng chiến của Đảng được xác định trong « Lời kêu gọi tồn
quốc kháng chiến » của Hồ Chí Minh (19/12/1946), chỉ thị « Tồn dân kháng
chiến » của Trung ương Đảng (12/12/1946) và được giải thích cụ thể trong tác
phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Trường Chinh. Đó là đường lối kháng
chiến tồn dân, tồn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính và tranh thủ sự ủng hộ
của quốc tế.

21


Lấy nhỏ đánh lớn là đặc điểm cực kỳ quan trọng của cuộc kháng chiến. Vì
thế, Đảng đã phát động một cuộc chiến tranh nhân dân, lấy lực lượng vũ trang nhân
dân làm nòng cốt, tiến hành đấu tranh trên tất cả các mặt trận, trong đó đấu tranh
quân sự giữ vai trị quyết định. Chỉ thị “Tồn dân kháng chiến‟ của Ban Thường vụ
Trung ương Đảng nêu các khẩu hiệu: “Toàn dân kháng chiến! Kháng chiến khắp
nơi!” “Mỗi phố là một mặt trận! Mỗi làng là một pháo đài” [29, tr.155]. Với tình
hình đất nước lúc đó, “nhân dân ta không thể tiến hành chiến tranh kiểu cổ điển,
chiến tranh quy ước… mà phải thực hiện toàn dân kháng chiến. Không phải chỉ
đánh địch trên mặt trận quân sự mà cịn đánh trên các mặt chính trị, kinh tế, đối
ngoại, văn hóa, tư tưởng… được phối hợp chặt chẽ với nhau. Không phải đánh theo
kiểu dàn trận địa… mà phải phát động và đẩy mạnh chiến tranh du kích khắp nơi, đi
từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du
kích với chiến tranh chính quy. Để đánh thắng kẻ địch có vũ khí, trang bị nhiều và
mạnh hơn ta, cuộc kháng chiến phải lâu dài…” [79, tr.271].
Cuộc chiến tranh toàn dân sẽ diễn ra dưới nhiều hình thái phong phú, phương
thức tác chiến linh hoạt. “Nhiều khi quân chính quy bắt buộc phải rút lui để giữ gìn
lực lượng; nhưng quân du kích và một phần nhỏ quân chính quy lẩn lại sau lưng
quân địch mà đánh… Không những trong vùng ta kiểm soát mà ngay trong vùng
địch kiểm soát, địch cũng không thể củng cố được hậu phương của chúng… Mỗi
căn cứ du kích của ta trong vùng địch kiểm soát khác nào bị địch bao vây. Nhưng

tất cả các căn cứ du kích cộng với căn cứ rộng lớn của các vùng tự do, họp lại thành
một cái lưới bủa vây quân địch…” [20, tr.67].
Muốn thực sự tiến hành chiến tranh nhân dân thì phải có hậu phương vững
mạnh. Ta bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp trong khi hậu phương còn nhiều
yếu kém về kinh tế, khoa học kỹ thuật. Xây dựng một hậu phương vững chắc trong
điều kiện đó cần phải có thời gian lâu dài. Vì thế, Đảng chủ trương vừa kháng chiến
vừa kiến quốc, vừa kháng chiến vừa xây dựng hậu phương… từng bước làm thay
đổi so sánh lực lượng, tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.
Đảng chủ trương ra sức giữ vững, củng cố các vùng tự do rộng lớn làm hậu
phương vững chắc cho cuộc chiến tranh nhân dân, đi đôi với chiến đấu để khơng
ngừng mở rộng những khu du kích và căn cứ du kích ở khắp nơi sau lưng địch… “Ở
vùng bị giặc tạm chiếm, về cơ bản, quy luật xây dựng căn cứ địa cũng diễn ra từ
những cơ sở chính trị bí mật của quần chúng, trải qua đấu tranh từ thấp lên cao, từ
hợp pháp đến không hợp pháp, từ kinh tế, chính trị đến đấu tranh vũ trang, trải qua

22


×