Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

(Luận văn thạc sĩ) nghiên cứu dưới bóng những cô gái tuổi hoa của marcel proust từ lí thuyết phê bình phân tâm học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.88 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

NGUYỄN THỊ ĐÀO

NGHIÊN CỨU DƯỚI BÓNG NHỮNG CƠ GÁI TUỔI
HOA CỦA MARCEL PROUST TỪ LÍ THUYẾT PHÊ
BÌNH PHÂN TÂM HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài

Hà Nội – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

NGUYỄN THỊ ĐÀO

NGHIÊN CỨU DƯỚI BÓNG NHỮNG CƠ GÁI TUỔI
HOA CỦA MARCEL PROUST TỪ LÍ THUYẾT PHÊ
BÌNH PHÂN TÂM HỌC

Chun ngành: Văn học nƣớc ngồi
Mã số: 60 22 0245

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đào Duy Hiệp

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài luận văn“Nghiên cứu Dưới bóng những cơ
gái tuổi hoa của Marcel Proust từ lí thuyết phê bình phân tâm học ” là
cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS. Đào Duy Hiệp và những kết quả nghiên cứu ở trong luận văn này là
hoàn toàn trung thực.
Ngày 13 tháng 07 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Đào


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu, hồn thành luận văn này, tơi
đã nhận được sự động viên, giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của các thầy cơ, gia
đình, đồng nghiệp và bạn bè. Với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin
được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới:
PGS.TS. Đào Duy Hiệp - người thầy vô cùng tâm huyết với nghề dạy
học. Thầy luôn hướng dẫn tôi vô cùng tỉ mỉ, chu đáo, tận tình trong suốt q
trình thực hiện và hồn thành luận văn.
Các thầy cô ở khoa Văn học trường ĐHKHXH&NV đặc biệt là các
thầy cô thuộc chuyên ngành Văn học nước ngồi, trong suốt thời gian tơi theo
học đã cung cấp cho tôi rất nhiều kiến thức quý báu và truyền cho tơi sự tâm
huyết, u nghề để tơi có động lực, niềm tin theo đuổi lĩnh vực mà mình đã

chọn.
Gia đình, bố mẹ, anh chị em, bạn bè, đồng nghiệp của tôi, những người
đã sát cánh bên tôi trong suốt thời gian tôi học tập, làm luận văn.
Một lần nữa xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến tất cả thầy
cơ, bạn bè và gia đình.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………..3
2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………….6
3. Phạm vi đề tài…………………………………………………………15
4. Đối tượng nghiên cứu………………… ……………………………..16
5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………...16
6. Cấu trúc luận văn……………………………………………………..16
CHƢƠNG 1: ................................................................................................. 17
CÁI TƠI, CÁI NĨ, CÁI SIÊU TƠI VÀ RANH GIỚI KHƠNG ĐỊNH
HÌNH GIỮA BA PHẦN CỦA NHÂN CÁCH ............................................ 17
1.1.Cái tơi, cái nó, cái siêu tơi - ba phần của nhân cách thể hiện qua một số
nhân vật điển hình…………………………………………...………………17
1.2 Ranh giới khơng định hình giữa ba phần của nhân cách thơng qua việc
phân tích một số nhân vật tiêu biểu………………………………………….30
Tiểu kết…………………………………………………………………..34
CHƢƠNG 2: ................................................................................................. 35
TÌNH YÊU VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN TÍNH DỤC – HAM MUỐN BẢN
NĂNG ............................................................................................................. 35
2.1. Mối tình với nàng Gilberte - những xung năng tính dục được khơi
gợi, trỗi dậy và trạng thái đau khổ khi khơng được thỏa mãn……………….35
2.2. Mối tình với Albertine - những ham muốn tính dục đẩy lên đến tột độ
và trạng thái thăng hoa, thỏa mãn của tinh thần……………………………..42

2.3. Những biểu hiện tính dục ngồi tình u - ham muốn giải tỏa, thỏa
mãn những nhu cầu bản năng………………………………………………..48
Tiểu kết…………………………………………………………………..53
1


CHƢƠNG 3: ................................................................................................. 54
NHỮNG BIỂU TƢỢNG ĐẶC SẮC – Ý NGHĨA THIÊNG LIÊNG VỀ
SỰ TRƢỜNG TỒN CỦA CÁI ĐẸP ............................................................ 55
3.1. Biểu tượng “hoa” - vẻ đẹp tươi trẻ của thanh xuân…………………55
3.2 Biểu tượng “nhà thờ” - sự chuẩn mực và ý nghĩa thiêng liêng của cái
đẹp…………………………………………………………………………...62
3.3. Biểu tượng “cô gái” trong tranh của Elstir - sự trường tồn, vĩnh cửu
của cái đẹp…………………………………………………………………...67
Tiểu kết…………………………………………………………………..70
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 76

2


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Phân tâm học kể từ khi ra đời với những lí thuyết sơ khai đến tận ngày
hôm nay khi mà lý thuyết về phân tâm học đã thu được những thành quả nhất
định, được phát triển sâu rộng hơn, đưa vào nghiên cứu và áp dụng ở nhiều
lĩnh vực như tâm lí học, tâm thần học và cả văn học thì những vấn đề mà lí
thuyết phân tâm học đề cập đến vẫn ln gây sự tị mị cho những người quan
tâm đến nó,đặc biệt là các nhà nghiên cứu. Càng được chú ý, nghiên cứu và
áp dụng sâu rộng vào đời sống thì càng nảy sinh ra những vấn đề mới đáng

được quan tâm, giải quyết. Bởi phân tâm học chưa dừng lại mà vẫn đang tiếp
tục phát triển, vậy nên cùng với sự tiếp tục phát triển đấy, khi áp dụng lí
thuyết phân tâm học vào nghiên cứu một lĩnh vực cụ thể, ngoài việc áp dụng
những thành tựu đã đạt được thì việc nghiên cứu cũng gặp nhiều khúc mắc
cần tự định hướng và phát triển theo cách riêng của từng trường phái nghiên
cứu, từng nhà nghiên cứu. Nghiên cứu khi áp dụng lí thuyết phân tâm học bên
cạnh việc thu được những kết quả mang tính mới mẻ, độc đáo thì sẽ cịn là
một hướng mở trong tương lai có thể phát triển sâu rộng hơn cùng với sự phát
triểncủa phân tâm học.
Vậy nên có thể nói, việc áp dụng lí thuyết phân tâm học vào nghiên cứu
một lĩnh vực nói chung hay cụ thể hơn là một vấn đề nào đó khơng chỉ mang
lại những thành quả nhất định mà còn hứa hẹn sự mở rộng và phát triển trong
tương lai của vấn đề. Điều đó đồng nghĩa với việc vấn đề được nghiên cứu sẽ
có ý nghĩa khơng chỉ ngay lập tức mà còn là nền tảng cho sự nghiên cứu và
mở rộng sau này đối với những vấn đề liên quan, hứa hẹn sự phát triển xa hơn
nữa.
Những vấn đề của phân tâm học luôn gây sự tị mị, thích thú đối với
những ai muốn tìm hiểu các hiện tượng tâm lícủa con người khơng chỉ bởi
3


nólà những điều tưởng chừng mới mẻ, hoang đường nhưng lại tồn tại trong
mỗi con người, trong cuộc sống. Đó là những hiện tượng tâm lí thường gặp,
hiển nhiên có trong mỗi chúng ta nên vơ hình chung cho đó là một điều sẵn
có, khơng để tâm cho đến. Khi lí thuyết phân tâm học bắt đầu động chạm
đếnnhững vấn đề đó mới ngớ ra rằng chúng ta biết về nó, biết sự tồn tại của
những điều đó nhưng vì nó gắn quá chặt chẽ từ sâu thẳm cái bộc lộ của nhân
cách đến hành động bên ngoài nên nghiễm nhiêm khơng băn khoăn mà coi đó
là cái tất yếu của mỗi người. Thậm chí chúng ta cịn khơng để tâm chuyện
đúng sai hay vì sao mà ta tự nhiên công nhận như một điều tất yếu, và rồi sau

khi biết đến phân tâm họclại thấy rằng ta chưa thực sự hiểu về chính con
người mình, thậm chí cịn hiểu biết rất ít ỏi về những mong muốn, hành vi của
mình trong cuộc sống. Cuối cùng nhận ra rằng, ta cứ tưởng ta hiểu chính mình
nhưng thật ra ta vẫn mơ hồ với chính bản thân mình.
Đến với phân tâm học, cái tưởng như sai trái lại có thể là điều ln
đúng, cái vốn tưởng đúng lại do chính bản thân ức chế, dồn nén để tạo ra
những điều ta tưởng đúng. Đơi khi sự đúng sai do chính những ám thị mà tự
ta tạo ra cho chính mình.Với phân tâm học mọi điều đều có thể.
Phân tâm học ra đời vào khoảng cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, Sigmund
Freud - bác sĩ, nhà thần kinh học người Áo là người đã sáng lập ra bộ mơn
này. Có thể nói ơng chính là cha đẻ của phân tâm học, là người đặt nền móng
quan trọng cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của phân tâm học.Trong quá
trình nghiên cứu và phát triển phân tâm học, S.Freud đã dùng chính cuộc sống
của bản thân để làm một phần của nghiên cứu và kiểm nghiệm dù cho phân
tâm học của S.Freud được coi là phân tâm học cổ điển và cịn nhiều mặt khúc
mắc, bất cập. Chính những điều hạn chế đã góp phần tạo nên nhiều hướng
nghiên cứu,nhiều trường phái nghiên cứu khiến cho phân tâm học được mở

4


rộng. Có thể nói, Freud đã mở ra cho các nhà tâm lí một hướng đi mới, đặt
một nền tảng mới khi nghiên cứu về con người dưới cái nhìn tâm lí.
Ngày nay, thuật ngữ phân tâm học và tên tuổi của S.Freud đã trở nên
quen thuộc trong nhiều lĩnh vực: tâm lí, y học, văn học - nghệ thuật…40 năm
sau ngày mất của S.Freud, tạp chí Newsweek đánh giá rằng tư tưởng của ông
đã đi sâu vào ý thức của chúng ta đến nỗi “khó mà tưởng tượng được thế kỉ
20 lại thiếu ơng”. Ơng thuộc về số ít những nhà tư tưởng đã làm thay đổi căn
bản cái nhìn của chúng ta về chính bản thân mình.
Phân tâm học của S.Freud hay còn gọi là phân tâm học cổ điển có

những nét đặc thù như định hình ba phần của nhân cách: cái tôi, cái ấy, cái
siêu tôi, vai trị vơ cùng quan trọng của những xung năng tính dục (libido)
trong việc tác động đến suy nghĩ, tình cảm và hành động của con người.
Chính những đặc trưng này đã được các nhà nghiên cứu, phê bình văn học
dùng để soi chiếu vào những tác phẩm văn chương, đưa đến cái nhìn mới mẻ
hơn về con người và những điều được thể hiện trong văn chương.
Với việc áp dụng lí thuyết phê bình phân tâm học vào nghiên cứu văn
học, ở luận văn này chúng tôi chọn tập II của bộ tiểu thuyết Đi tìm thời gian
đã mất của Marcel Proust với tên gọi Dưới bóng những cơ gái tuổi hoa để áp
dụng vào nghiên cứu. Giá trị về nội dung và nghệ thuật cùng với tư tưởng
màĐi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust mang lại đã tạo nên sức lôi cuốn
mãnh liệt và sự nổi tiếng khắp thế giới. Bộ tiểu thuyết này gồm 7 tập với tên
gọi lần lượt làBên phía nhà Swann (Tập I), Dưới bóng những cơ gái tuổi hoa
(tập II), Phía nhà Guermantes (tập III), Sodome và Gomorrhe (tập IV), Cô gái
bị cầm tù (tập V), Albertine chạy trốn (tập VI), Thời gian tìm thấy lại (tập
VII). Có thể nói, đây là bộ tiểu thuyết quan trọng giúp Marcel Proust ghi tên
mình lên nền văn chương nhân loại.

5


Tạp chí Time - một tạp chí tin tức hàng tuần của Mỹ đã bầu chọnĐi tìm
thời gian đã mất đứng thứ 8 trong danh sách những cuốn sách vĩ đại nhất mọi
thời đại. Vì những giá trị to lớn cả về nội dung, nghệ thuật và tầm ảnh hưởng
mà bộ tiểu thuyết mang lại nên đã có nhiều nghiên cứu xoay quanh bộ tiểu
thuyết vĩ đại này cùng với tác giả của bộ tiểu thuyết –Marcel Proust.
Marcel Proust (1871-1922) được đánh giá và công nhận là một trong
những nhà văn vĩ đại của thế kỉ 20. Cácsáng tác của ông không chỉ được đánh
giá cao về mặt giá trị nội dung mà cịn cả về mặt nghệ thuật.
Ơng được bầu chọn là tiểu thuyết gia vĩ đại nhất thế kỷ 20 – sánh ngang

với Tolstoy của thế kỉ 19, giá trị những tác phẩm văn chương của ông sẽ tiếp
tục có những ảnh hưởng mạnh mẽđến nền văn chương của thế kỷ 21.Hình ảnh
chiếc bánh madeleine nhúng trà nóng trong kiệt tác Đi tìm thời gian đã mất
của ơng đã trở thành một biểu tượng nổi tiếng trong nền văn học Pháp.Ông
được nhà văn Graham Greene (Người Mỹ trầm lặng) đánh giá là "Nhà văn vĩ
đại nhất thế kỷ 20" và "những nhà văn sinh ra cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20
hầu như không ai tránh được hai nguồn ảnh hưởng lớn là M.Proust và
S.Freud".
2. Lịch sử vấn đề
Với sự trơi chảy của thời gian, Đi tìm thời gian đã mất của M.Proust
ngày càng quen thuộc và in dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả thế giới nói
chung và độc giả Việt Nam nói riêng. Cùng trong dòng chảy của thời gian,
việc áp dụng phân tâm học vào phân tích, phê bình văn học ngày càng phát
triển, sớm trở thành một khuynh hướng cốt yếu trong văn học phương Tây và
ngày càng phát triển mạnh mẽ.Trên thế giới, cuộc đời và các sáng tác của
M.Proust, đặc biệt là tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất của ơng đã được chú
ý từ rất sớm. Đã có nhiều bài báo, bài tham luận, các cơng trình thậm chí là
sách giới thiệu, nghiên cứu và bàn luận về tác giả, tác phẩm. Có thể kể đến
6


một số bài viết, cơng trình tiêu biểu đi sâu về M.Proust vàtiểu thuyếtĐi tìm
thời gian đã mất của ơng như:
Trong “Niên biểu củaĐi tìm thời gian đã mất và những sự kiện lịch
sử”, Willy Hachez đã xuất phát từ những sự kiện lịch sử cụ thể để xác định
thời gian trong tác phẩmcủa M.Proust hay rõ ràng hơn là chỉ ra cách sắp xếp
thời gian, trình tự thời gian trong cuốn tiểu thuyết. Có thể kể đến các mốc thời
gian, sự kiện lịch sử như cuộc chiến tranh Nga - Nhật (1904 - 1905) nhưng lại
được nhắc đến khi người bạn của nhân vật tơi - Bloch nói chuyện và thời gian
hiện tại là một buổi tối năm 1987. Hay sự kiện chiếc máy bay đầu tiên bay

thành công vào năm 1903 nhưng lại được đề cập đến vào thời gian tiểu thuyết
là năm 1900 tức là 3 năm trước. Trình tự thời gian trong cuốn tiểu thuyết
dường như không khớp với thời gian đời thực. Trong cuốn tiểu thuyết này,
thời gian của đời thực, thời gian của các biến cố sự kiện tiểu thuyết, thời gian
của các nhân vật không phải là một đường trùng khớp mà là những đường
thẳng riêng rẽ nhưng lại xếp chồng lên nhau tạo nên những lớp thời gian đan
xen. Tuy rằng các lớp thời gian chồng chéo nhưng chỉ cần đọc một cách chăm
chú, tập trung đều có thể nhận biết rõ được thời gian của các sự kiện, các nhân
vật và phân biệt được thời gian trong tiểu thuyết với thời gian đời thực.Điều
này giúp người đọc dễ dàng nắm bắt câu chuyện và nhân vật trong tiểu thuyết,
phần nào giúp tiểu thuyết đến gần hơn, quen thuộc hơn với độc giả.[37]
G.Genette tập trung nghiên cứu M.Proust trong cơng trình Hình thái III
(Figure III – 1972) [38]. Trong cơng trình nghiên cứu này,G.Genette đã đi vào
phân tích yếu tố tường thuật qua thời gian tường thuật, mức độ tường thuật,
chức năng tường thuật. Chủ yếu lấy những sự kiện, dẫn chứng trong Đi tìm
thời gian đã mất để phân tích, làm rõ những đặc điểm về tường thuật. Đặc
biệt G.Genette đi sâu vào phân tích yếu tố thời gian để thấy được sự khác
nhau giữa các cấp độ thời gian tường thuật: từ tường thuật đến quá khứ, từ
7


tường thuật đến tiên đoán tương lại, tường thuật cho hành động và tường thuật
giữa các khoảnh khắc hành động. Sau khi phân tích đã nhận ra rằng, ở Đi tìm
thời gian đã mất có đầy đủ cả bốn cấp độ của thời gian tường thuật.
Trong Thời gian và truyện kể[41] khi viếtvềĐì tìm thời gian đã
mất,Paul Ricoeur khơng chỉ nêu ra những nhận xét, đánh giá của mình về
những giá trị và tầm ảnh hưởng đối với nền văn học Pháp nói riêng và văn
học thế giới nói chung mà cịn đi sâu vào việc phân tích, chỉ ra những điểm
đặc biệt về thời gian. Thời gian trong tác phẩm không trùng kớp với thời gian
đời thực, thời gian tiểu thuyết chỉ là hư cấu, nhưng sự hư cấu đó lại bắt nguồn

từ hiện thực.Vậy nên, giữa thời gian tiểu thuyết và thời gian đời thực tuy
không trùng khớp nhưng vẫn có nét tương đồng với nhau.
“Ở Việt Nam, phê bình phân tâm học đã hình thành và phát triển từ
trước năm 1945. Nguyễn Văn Hanh, Trương Tửu, sau này có thêm Đàm
Quang Thiện và một vài cây bút khác là những đại diện đầu tiên của khuynh
hướng phê bình phân tâm học này”[34]. Sau đó, phê bình phân tâm học từng
bước phát triển và có thể nói Đỗ Lai Thúy là một người dày công trong việc
theo đuổi lĩnh vực này. Đỗ Lai Thúy đã cho ra mắt những tác phẩm như: Bút
pháp của ham muốn (2009), Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy (2010)…
Tuy nghiên cứu và áp dụng phê bình phân tâm học vào văn học phát triển
mạnh mẽ trên thế giới nhưng ở Việt Nam việc áp dụng khuynh hướng này để
đi sâu vào nghiên cứu một tác phẩm cụ thể còn hạn chế, đặc biệt là những tác
phẩm văn học đồ sộ, mang giá trị và tầm ảnh hưởng lớn đối với văn chương
nhân loại. Việc nghiên cứu, đi sâu vào những tác phẩm của Marcel Proust còn
chưa nhiều.Ban đầu, M.Proust và tác phẩm của ông chủ yếu được nhắc đến ở
mức giới thiệu khái quát những thông tin về tác giả tác phẩm, những giá trị
nội dung, đặc sắc nghệ thuật và thành cơng mà nó mang lại. Cụ thể là trên
một số tạp chí, sách, báo sau:
8


Tạp chí Thanh Nghị (1943) số 40, 41 có đăng bài “Ba cuốn tiểu thuyết
Pháp hiện đại”, trong bài viết đó Lê Huy Vân đã nhắc đếntác phẩmĐi tìm thời
gian đã mất của M.Proust. Đây được coi là một trong những bài viết đầu tiên
giới thiệu về bộ tiểu thuyết vĩ đại này. Tuy nhiên, bài viếtmới chỉ dừng lại ở
việc giới thiệu, tóm tắt cốt truyện của tập I - Bên phía nhà Swann mà khơng đi
tìm hiểu sâu vào nội dung và nghệ thuật.[36]
Đỗ Đức Hiểu có viếtvề M.Proust trong Từ điển vănhọc(1983) [19].
Ơng đã giới thiệu tồn bộ cuộc đời, sự nghiệp và đặc biệt nhấn mạnh đến tài
năng của M.Proust cũng như thành cơng củaĐi tìm thời gian đã mất. Đây có

thể được coi là bản khá đầy đủ những thông tin cơ bản về tác giả, tác phẩmvà
thành cơng của bộ tiểu thuyết này.
Tiếp đó, trong giáo trình Lịch sử Văn học Pháp thế kỉ XX, Đặng Thị
Hạnh có bài viết về M.Proust, bà đã giới thiệu những nét tiêu biểu về
M.Proust vàĐi tìm thời gian đã mất.Đó là những bài giới thiệu, nghiên cứu,
đánh giá chung về tác giả M.Proust và bộ tiểu thuyết của ông được in ấn và
phát hành phục vụ cho việc tìm hiểu, nghiên cứu trong văn học. [9]
Trong cuốn Một vài gương mặt văn xuôi Pháp thế Kỷ XX, Đặng Thị
Hạnh đã bàn đến M.Proust và tác phẩm của ông. Trong cuốn sách này, bà đã
dành một số lượng trang sách tương đối lớn để giới thiệu về M.Proust và các
sáng tác của ông, đặc biệt là tác phẩm Đi tìm thời gian đã mất. Bên cạnh đó
bà cịn có những trang sách viết lên những nhận định đánh giá của mình về
giá trị của Đi tìm thời gian đã mất. [11]
Bên cạnh những bài viết được in ấn trên báo chí, trong sách, trong giáo
trình văn học thì cũng có những bài viếttrên diễn đàn, website bàn về
M.Proust và tác phẩm của ông như bài viết của Thụy Khuê (1999) - một nhà
báo, nhà phê bình văn học, bà đã viết bài giới thiệu về M.Proust vàĐi tìm
thờigian đã mất trên trang web của mình. Ở bài viết này, Thụy Khuê không
9


chỉ đưa ra những thông tin cơ bản về tác giả, tác phẩm, giá trị nội dung, nghệ
thuật mà còn nhấn mạnh những ảnh hưởng của M.Proust cùng bộ tiểu thuyết
của mình đối với nền văn học Pháp nói riêng và nền văn học thế giới nói
chung. [25]
Số lượng các bài báo, bài đánh giá, phê bình và các cơng trình nghiên
cứu khoa học về tập I và tập II của tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mấtngày
càng nhiều. Có cơng trình nghiên cứu về thời gian xun suốt 7 tập của tác
phẩm, có những bài viết nhận định đánh giá về nội dung, nghệ thuật và sức
ảnh hưởng của tập I - Bên phía nhà Swann. Tuy nhiên, các cơng trình đi sâu

vào nghiên cứu tập II - Dưới bóng những cơ gái tuổi hoa - một trong hai tập
đã được dịch sang tiếng Việt còn hạn chế về mặt số lượng.
Chúng tơi đã tìm được những cơng trình khoa học nghiên cứu về Dưới
bóng những cơ gái tuổi hoa cụ thể như sau:
Khóa luận tốt nghiệp của Tạ Thị Hường (1998) với đề tài “Thời gian
trong Dưới bóng những cơ gái tuổi hoa của M.Proust” đã đi sâu vào yếu tố
thời gian trong tập II của Đi tìm thời gian đã mất. Khóa luận đã đi vào phân
tích thời gian lịch biểu, thời điểm chủ chốt, khoảng cách thời gian giữa nhân
vật và người kể chuyện. Bên cạnh đó, khóa luận cũng làm nổi bật nghệ thuật
tỉnh lược thời gian trong tập này. Các cấp độ câu - chữ chỉ thời gian cũng
được dành riêng một chương để phân tích, làm rõ. Tạ Thị Hường đi đến kết
luận là yếu thời gian đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc làm nên giá trị
của tác phẩm. M.Proust là một trong những nhà văn tiên phong mang lại cho
nền văn học thế kỉ XX một hình thức, một quan niệm thời gian mới. Thời
gian nghệ thuật gắn liền với tư duy liên tưởng, chiều sâu văn hóa và ý thức về
q trình lịch sử sơi động, bên cạnh đó là sự xáo trộn các bình diện thời gian,
tăng cường thời gian tâm lí.[22]

10


Đến luận án tiến sĩ của Đào Duy Hiệp với đề tài “Thời gian trong Đi
tìm thời gian đã mất của Marcel Proust” (2003) [16],ta mới thấy được một
cơng trình nghiên cứu thực sự đi sâu và xuyên suốt bộ tiểu thuyết. Luận án đã
đi sâu vàonghiên cứu, phân tích vấn đề thời giantrongĐi tìm thời gian đã mất.
Đây có thể coi là một cơng trình nghiên cứu có tính quy mô đầu tiên về bộ
tiểu thuyết nổi tiếng này tại Việt Nam. Ở luận án này, Đào Duy Hiệp đã khai
thác từng khía cạnh của thời gian, từ thời gian truyện kể, thời gian niên biểu,
quan niệm của M.Proust về thời gian và cả những thủ pháp thời gian, thời
gian qua cấp độ câu, chữ. Sau quá trình phân tích, luận án đã đi đến kết luận

đó là thời giankhông chỉ mang ý nghĩa cách tân vềmặt nghệ thuật kể chuyện,
mà còn mang ý nghĩa triết học. Trong sự nhìn nhận của M.Proust về cuộc
sống, về con người thì thời gian khơng cịn là tuyệt đối nữa. Trong lĩnh vực
thời gian và các cấp độ phụ thuộc của nó trong truyện kể, M.Proust là người
có cơng đầu trong suốt thế kỉ XX mà những người đi sau khó có thể vượt qua
ông. Luận án không chỉ chứa đựng đầy đủ những thơng tin về tác giả, tác
phẩm mà cịn mang lại một cái nhìn mới mẻ khơng chỉ riêng về thời gian
trong Đi tìm thời gian đã mất mà có sức ảnh hưởng lớn đến cách nhìn nhận
thời gian trong văn học Việt Nam đương thời. Luận án giúp cho độc giả nói
chung và giới nghiên cứu văn học Việt Nam nói riêng có cái nhìn chi tiết, cụ
thể về thời gian trong bộ tiểu thuyết, qua đó giúp hiểu rõ hơn về từng nhân
vật, từng vấn đề trong tiểu thuyết. Đó cũng là cơ sở vànguồn đề tài cho những
cảm hứng mới mẻ, muốn khám phá những khía cạnh độc đáo khác của Đi tìm
thời gian đã mất.
Trong khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thùy Linh (2005) với đề tài
“Nghệ thuật biểu hiện con người, xã hội trong Dưới bóng những cơ gái tuổi
hoa của M.Proust” đã làm rõ những khía cạnh của con người thơng qua việc

11


phân tích các nhân vật và làm nổi bật nghệ thuật biểu hiện con người trong
tập này. [27]
Bên cạnh đó cịn cóluận văn nghiên cứuvề Dưới bóng những cơ gái
tuổi

hoacủa

M.Proust.


LuậnvăncủaNguyễnThị

Thu

Hương

(2011):

“NghệthuậtmiêutảtrongDướibóngnhữngcơgáituổihoacủa
Proust”[21].Luận

văn

thạc



của

TrầnThúyAn

“TrầnthuậttrongDướibóngnhữngcơgáituổihoacủa

Marcel
(2012)

Marcel

-vớiđềtài


Proust”

[1],

luậnvănđisâuvàonghiêncứu,
phântíchnghệthuậttrầnthuật.Luậnvănkhơngchỉcungcấpmộtcách

chi

cụthểvàđầyđủthơng

tiết,
tin

củatácgiảtácphẩmmàcịnchỉrađượcnhữngđặcsắcvềnghệthuậttrầnthuậttrongcuố
ntiểuthuyếttừđóthấyrõđượctàinăngvănchươngcủatácgiảM.Proust.
LuậnvăncủaChu

ThịThuỳDương

(2015)

vớiđềtài

“ChấtthơtrongBênphíanhà Swanncủa Marcel Proust” đãchỉranhữngnétđộcđáo,
đặcsắcvềchấtthơtrongvănchươngcủaM.Proust.Chấtthơđượcthểhiện

qua

nhữngcâuvănđầynhịpđiệu, nhữngtrangvănđầynhạctính. Câuvănnhẹnhàng, bay

bổng,
mỗicâumỗichữgợilênnhữnghìnhảnhsinhđộng.Chínhsựdàingắnkhácnhaucủamỗ
icâutrầnthuậtđãtạonênnhịpđiệuuyểncủatácphẩm.Luậnvănđãđisâuvàophântíchy
ếutốnhạcvàhọatrongBênphíanhà Swann từđóchochúng ta thấyđượctồnbộtập I
làmộtbứctranhsinhđộngvềcuộcsốngcủacácnhânvật.Kếtquảnghiêncứucủaluậnv
ănnàygiúpchúng

ta

hiểurõhơncácnhânvật,

giúpchoviệchiểuchínhxácvàsâuhơnkhiđọctập

cácsựkiện,
II

-

Dướibóngnhữngcơgáituổihoađượcdễdànghơn. [3]
LuậnvăncủaLêThị

Loan

vớiđềtài“ĐốithoạivàđộcthoạitrongDướibóngnhữngcơgáituổihoacủa
Proust”
12

(2016)
Marcel



đãchỉrađượcđộcthoạinộitâmtrongsángtạocủaM.Proustđóngvaitrịchủyếutrongtr
ầnthuậttiểuthuyếtcủng,

thểhiệnnhữngsuytư,

trăntrở,

nhữngcảmxúccủanhânvật. Độcthoạinộitâmvớimộtsựtự do liêntưởng, tự do
pháttriển,
khơngcómụctiêuđặcbiệtnàovàcàngkhơngbìtróibuộctrongbấtcứmộtquyđịnhnào.
Dịng

ý

thứccóthểcùngmộtlúcthểhiệnhaithếgiới:

thứclênbềmặtmộtcáchtựnhiêntự

do,

hỗnđộn,

tiềmthứcvà

khơngrõràng,

riêngbiệt.Nhữngkếtquảmàluậnvănmanglạiđãgiúpchúng
hiểusâuhơnvềcácnhânvật,


ý
ta

đặcbiệtlànhữngđiềuthuộcvềbêntrong,

thuộcvềnộitâmnhânvật. Qua việchiểurõnộitâmnhânvật, ngườiđọcdễhiểuhơn,
dễthơngcảm hay dễtánthưởnghơnvềnhữnghànhđộngmànhânvậttạora.[28]
Bêncạnhcácluậnvăn,
luậnáncótínhquymơcùngcáckhóaluậntốtnghiệpthìcịncónhữngbàiviết,
bàithamluận, phêbìnhđánhgiávềM.Proustvàtácphẩmcủng.Khơng thể khơng
đến

kể

3

viết

bài

của

ĐàoDuyHiệp:

“NhữngquytụthờigiantrongDướibóngnhữngcơgáituổihoacủa
Proust”đăngtrêntạpchíVănhọcsố

6/1999

[14],


bài

vàĐitìmthờigianđãmấtđăngtrêntạpchíVănhọcnướcngồisố

Marcel
viết
3/2002

“Proust
[15]
“Lev

vàbàiviết

TolstoitrongĐitìmthờigianđãmấtvànhữngquanniệmvềphongcách”đăngtrêntạp
chíNghiêncứuvănhọcsố 12/2010 [17], đâylànhữngbàiviếtđisâuvàotácphẩm,
giúpngườiđọccócáinhìntổngquannhấtvềnội

dung

cũngnhưnghệthuậtmiêutảthờigiantrongtácphẩm.
Đó là những nghiên cứu liên quan trực tiếp đến Marcel Proust và tác
phẩmĐi tìm thời gian đã mất, đặc biệt là tập II - Dưới bóng những cơ gái tuổi
hoacủa bộ tiểu thuyết.Bên cạnh đó cịn có những cơng trình khoa học sử dụng
lí thuyết phê bình phân tâm học vào nghiên cứu như:
13


Trong luận văn “Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu” của Đồn

Thị Hồng Sương (2014) [33] tuy khơng áp dụng tồn bộ lý thuyết phê bình
phân tâm học vào trong nghiên cứu của mình nhưng đã phần nào chạm vào lý
thuyết phê bình phân tâm học khi đi phân tích, nghiên cứu những biểu tượng
về hoa, về mùa xuân, về trái tim và cả nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong
thơ Xuân Diệu. Luận văn này đã giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn vềbiểu
tượng trong tác phẩm văn học nhất định.
Cùng nghiên cứu về biểu tượng, luận văn thạc sĩ với đề tài “Thế giới
biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư” của Nguyễn Thị Ngọc Lan [26]
đã đem đến một bức tranh sinh động về những biểu tượng và nghệ thuật xây
dựng biểu tượng trong suốt quá trình sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Luận văn
đã cho thấy một điềuđó là những hình tượng có thể chỉ xuất hiện một lần
trong một tác phẩm nhưng cũng có thể xuất hiện nhiều lần, xun suốt q
trình sáng tác của nhà văn và luôn biểu đạt cho một điều gì đó.Ngồi những
luận văn, luận án thì cịn có những tạp chí, bài báo liên quan đến những vấn
đề nằm trong phạm vi của phê bình phân tâm học. Tuy nhiên với giới hạn về
phạm vi cùng dung lượng của luận văn nên chúng tôi không thể liệt kê một
cách tỉ mỉ, cụ thể hết được. Phần điểm lại tên và tác giả những bài báo, nghiên
cứu liên quan đến luận văn sẽ được đưa ra đầy đủ ở phần tài liệu tham khảo.
Qua quá trình tìm hiểu thì chúng tơi đi đến nhận định rằng, đã có nhiều
nghiên cứu về Marcel Proust và bộ tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất cũng
như những bài báo, cơng trình khoa học áp dụng vấn đề phân tâm học và phê
bình phân tâm học vào trong nghiên cứu tác phẩm văn học. Tuy nhiên, tính
đến thời điểm này thì việc áp dụng phê bình phân tâm học vào nghiên cứu tập
II với tên gọi Dưới bóng những cơ gái tuổi hoa là hồn tồn chưa có. Vì vậy
với luận văn này, chúng tơi mong muốn sẽ gópmột phần hữu ích trong việc
tìm hiểu sâu hơn về Dưới bóng những cô gái tuổi hoa của M.Proust. Mong
14


muốn góp thêm một tiếng nói vào việc nghiên cứu những giá trị nội dung và

nghệ thuật của Dưới bóng những cơ gái tuổi hoa. Bằng việc áp dụng lí thuyết
phê bình phân tâm học vào nghiên cứu, chúng tơi hi vọng sẽ đem lại cho độc
giả cái nhìn rõ hơn, sâu hơn một phần giá trị về nội dung, nghệ thuật và tư
tưởng mà Dưới bóng những cơ gái tuổi hoa mang lại.
3. Phạm vi đề tài
Tính đến thời điểm hiện tại, ở nước ta đã có 2 bản dịch, bản dịch đầu
tiên là của Nguyễn Trọng Định với tên Dưới bóng những cơ gái tuổi hoa
được in ấn và phát hành năm 2008. Đây là bản dịch đầu tiên, góp phần đưa
tập II củaĐi tìm thời gian đã mất đến gần với độc giả Việt Nam hơn. Bản dịch
thứ 2 là của Dương Tường, cuối năm 2016 bản dịch được giới thiệu và công
bố rộng rãi đến bạn đọc qua các buổi tọa đàm giới thiệu sách. Bản dịch này
được đánh giá là bản dịch đáng mong đợi khi ra mắt.
Ở phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tơi nghiên cứu xoay
quanh cuốn Dưới bóng những cô gái tuổi hoa, tập II của bộ tiểu thuyếtĐi tìm
thời gian đã mất của M.Proust do Nguyễn Trọng Định dịch, nhà xuất bản Văn
học in ấn và phát hành năm 2008.Chúng tôi chọn bản dịch của Nguyễn Trọng
Định là vì 3 lí do:
- Đây là bản dịch đầu tiên của tập II tại Việt Nam, trong suốt hơn 10
năm qua, bản dịch này đã được độc giả tiếp nhận và đã để lại dấu ấn
sâu đậm trong lòng người đọc.
- Nhiều nghiên cứu, đánh giá về tập II của Đi tìm thời gian đã mất dựa
trên cơ sở tài liệu là bản dịch của Nguyễn Trọng Định.
- Dù được đánh giá là bản dịch đáng mong đợi khi ra mắt nhưng vẫn còn
nhiều tranh luận, ý kiến trái chiều xoay quanh bản dịch Dưới bóng
những cơ gái đương hoa của Dương Tường.
4.

Đối tƣợng nghiên cứu
15



Đối tượng nghiên cứu của luận văn chính là ba phần của nhân cách: cái
tơi, cái nó, cái siêu tơi, tình u gắn liền với những biểu hiện tính dục của các
nhân vật trong Dưới bóng những cơ gái tuổi hoa của Marcel Proust.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để việc tiến hành nghiên cứu được kết quả như mong muốn, trong luận
văn này chúng tôi sử dụng các phương phápnghiên cứu sau:
- Phương pháp tiếp cận dựa trên lí thuyết phê bình phân tâm học vào
phân tích - tổng hợp, dẫn chứng từ đó khái quát thành những luận điểm, luận
cứ.
- Phương pháp tiểu sử: Chúng tôi đặt tác phẩm và tác giả trong bối cảnh
lịch sử đương thời nghiên cứu để thấy được những ảnh hưởng của hoàn cảnh
vào trong tác phẩm cũng như sự ra đời của tác phẩm đã tạo ra những nhìn
nhận như thế nào về xã hội đương thời.
- Phương pháp xã hội học kết hợp với nghiên cứu tiểu sử của tác giả để
đi sâu vào tác phẩm.
6. Cấu trúc luận văn
Cấu trúc luận văn ngoài ba phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham
khảo thì phần nội dung gồm có 3 chương.
Chương 1. Cái tơi, cái nó, cái siêu tơi và ranh giới khơng định hình giữa
ba phần của nhân cách.
Chương 2. Tình yêu và những biểu hiện tính dục - những ham muốn
bản năng.
Chương 3.Những biểu tượng đặc sắc - ý nghĩa thiêng liêng về sự
trường tồn của cái đẹp.

16


CHƢƠNG 1

CÁI TƠI, CÁI NĨ, CÁI SIÊU TƠI VÀ RANH GIỚI KHƠNG ĐỊNH
HÌNH GIỮA BA PHẦN CỦA NHÂN CÁCH
1.1.

Cái tơi, cái nó, cái siêu tơi - ba phần của nhân cáchthể hiện qua một
số nhân vật điển hình
Xuyên suốt Dưới bóng những cơ gái tuổi hoa là những câu chuyện,

biến cố xảy ra quanh nhân vật “tôi”. Bởi những sự việc xảy ra xoay quanh
nhân vật“tơi” nên những nét tính cách, những đặc trưng của nhân cách nhân
vật “tôi” được biểu lộ một cách rõ nét và hết sức độc đáo qua những hành
động, lời nói, suy nghĩ và tình cảm, cảm xúc.
Qua lời nói, suy nghĩ, cảm xúc và những hành động khi nhân vật
“tôi”ứng xử với bố mẹ, với bà nhũ mẫu, khi xem Berma biểu diễn hay lúc
giao tiếp với ông bà Swann ta thấy được những nét tính cách, những biểu hiện
rõ rệt của cái tơi, cái nó, cái siêu tơi trong con người nhân vật“tơi”.
Cái tơi : cịn gọi là bản ngã thuộc về ý thức. Có thể nói, đó là tất cả mọi
tri giác đến từ bên ngồi, cũng là tất cả những gì chúng ta gọi là cảm giác và
tình cảm đến từ bên trong. Hay hiểu một cách đơn giản đó là tất cả những
phần tính cách chúng ta bộc lộ ra. Làm cho một người là chính mình, khác
biệt với những người cịn lại. Cái tơi giúp cho mỗi người là một thực thể khác
biệt với những người khác khi sống trong xã hội. Cái tôi đảm bảo cho nhu cầu
củacon người được thỏa mãn mà không vi phạm các nguyên tắc xã hội. Cái
tơi được xã hội kiểm sốt và hoạt động dưới sự điều chỉnh của các quy luật xã
17


hội.
Qua cách giao tiếp, cư xử của nhân vật“tôi” với bố mẹ, với bà nhũ mẫu,
với ông bà Swann hay với một số nhân vật như ông nhà thơ, ông hầu tước, ta

thấy được cái tôi - một phần nhân cách của nhân vật“tơi” thể hiện rõ nét và
mang tính đặc trưng của riêng mình nhân vật.
Trong cuộc sống hàng ngày, cái tôi của nhân vật “tôi” bộc lộ nhiều
nhất, rõ nhất trong cách giao tiếp với bố mẹ và với nhũ mẫu - một người nấu
ăn mà theo những lời các vị khách khen thì thật là ngon.Cái tơi của mỗi người
luôn được bộc lộ, biểu hiện và theo người đó cả cuộc đời. Làm cho nét tính
cách và giá trị nhân cách của mỗi người có sự khác biệt. Ở luận văn này,
chúng tôi chọn thời gian khi mà nhân vật “tôi” vẫn sống cùng bố mẹ, khi mà
nhân vật“tơi” có những cuộc gặp gỡ mang dấu ấn cả cuộc đời bởi thời điểm
này nhân vật “tôi” đang ở giai đoạn trưởng thành, phát triển từ thiếu niên lên
thanh niên. Bởi những thay đổi lớn cả về tâm sinh lí nên những nét tính cách,
những giá trị đạo đức dù đã được hình thành từ thuở nhỏ sẽ có những thay đổi
và ngày càng bộc lộ rõ chính bản thân mình hơn. Có thể nói, ở giai đoạn này
gần như tính cách nhân vật được định hình và gần như đóng đinh, ít thay đổi
trong suốt phần đời còn lại. Ở giai đoạn phát triển này phần nhân cách nào đã
được hình thành thì sẽ tiếp tục phát triển và ổn định, những phần chưa biểu
hiện sẽ bộc lộ và có thể nói nhân cách của một con người sẽ được đầy đủ và
hoàn thiện ở giai đoạn phát triển này. Dù sau này nhân cách có thay đổi cũng
chỉ là sự thay đổi theo hướng phát triển thái q một phần nào đó phụ thuộc
vào hồn cảnh sống, vào những biến cố mà người đó gặp phải. Vậy nên
những phần chính, cốt lõi của nhân cách hay gọi là cái tơi gần như được định
hình và khơng thay đổi sau giai đoạn trưởng thành này.Đối với cha mẹ mình,
nhân vật“tơi” chính là một đứa con cưng, một đứa con mà họ hết lịng u
mến, chăm sóc và lo lắng. Người cha của nhân vật“tôi” luôn luôn nhớ đến con
18


trai mình và trong mọi cuộc nói chuyện, ơng ln cố nhắc đến con trai hay
một việc gì đó liên quan đến cậu con trai yêu quý của mình để luôn chắc chắn
rằng, không ai không biết đến sự tồn tại của cậu, đảm bảo tất cả những người

ông gặp gỡ đều đã từng nghe và biết đến sự tồn tại của con trai mình.Ơng đã
từng tính: “Một buổi chiều nào đó, khi ở Hội đồng trở về, bố sẽ mời ơng ấy đi
ăn tối. Con sẽ chuyện trị chút ít để ơng ấy có thể đánh giá con”. Hay: “Này
con, buổi biểu diễn ngày ấy có làm con hài lịng khơng”[32, tr37].Ơng hỏi
trong khi mọi người ngồi vào bàn ăn, nhằm đề cao giá trị của con mình - vì
nghĩ sự nhiệt tình của nhân vật“tơi” sẽ được ơng Norpois chú ý đến và ca
ngợi. Sau lời nói đó ông - người cha cố gắng nhắc đến con trai mình để nhân
vật “tơi” trở thành một phần xuất hiện trong trí nhớ của mọi người.Với sự
quan tâm, bao bọc hết mức như vậy, nhân vật“tôi” luôn tỏ ra là một người khá
tình cảm, ln biết quan sát một cách nhanh chóng đến thái độ, tâm trạng của
người khác để nắm bắt tình hình, từ đó biết được nên tránh những điều gì và
cũng vì sự quan sát tỉ mỉ đó, nhân vật “tơi” biếtchọn lọc cách thể hiện mình để
lưu lại những ấn tượng tốt đẹp mà nhân vật “tôi” nghĩ là tốt đẹp với người
khác. Nhân vật“tôi” là một người suy nghĩ rất nhanh nhạy, cậu ta chọn những
lời lẽ và cách ứng xử khôn khéo để đạt được mục đích của mình, ví như khi
nói về buổi biểu diễn của Berma, cậu đã nói là hồn tồn thất vọng trong khi
cậu đã rất chăm chú, không bỏ sót một cử chỉ, hành động, lời nào của Berma.
Nói như vậy nhằm cố tình cơng kích, khơi gợi để Norpois nói ra những điểm
chủ yếu, những nhận xét của ông về Berma – mà đối với nhân vật“tôi” thì
những nhận xét đó thật quý giá, nó giống như những sự thật, những chân lí
mà nhân vật “tơi” hằng mong chờ. Và sau khi tính tốn, suy nghĩ một cách
cẩn thận, nhân vật“tơi” đã chọn cách nói ra những lời lẽ hoàn toàn khác với
những cảm nhận, suy nghĩ của mình để đạt được mục đích của mình. Sự
thơng minh, nhạy bén và khả năng nắm bắt cơ hội của nhân vật“tơi” cịn được
19


thể hiện rõ nét khi nhân vật“tôi” luôn cố gợi lên những chuyện liên quan đến
nhà Swann và đặc biệt đến nàng Gilberte để ngài Norpois thấy rằng nhân
vật“tơi” có sự thân quen với gia đình họ mặc dù sự thực lại chỉ là biết đến chứ

chưa từng đến thăm, quen biết, để biểu lộ một cách thiết tha nhất mong muốn
được ngài giới thiệu trước mặt gia đình Swann để cái giá trị con người của
nhân vật“tôi” sẽ được đặt ở một vị trí cao hơn vị trí nó vốn có và được
Gilberter chú ý đến . Đây chính là sự thể hiện của cái tôi ra hành động cử chỉ,
qua đó ta thấy được sự khơn khéo và nắm bắt nhanh cơ hội của nhân vật“tôi”,
cũng thấy được tình cảm và cả sự tơn trọng của nhân vật“tơi” đối với cha mẹ
mình. Nhân vật“tơi” nhận thức được: “mục đích sống khơng cịn là chân lí
mà là tình thương, tôi cho cuộc sống tốt hay xấu là tùy thuộc vào chỗ bố mẹ
tôi sung sướng hay đau khổ”. Nhân vật“tơi” nhận thức được rằng, cuộc sống
là của chính mìnhnhưng sống khơng chỉ cho riêng mình mà cịn vì bố mẹ, vì
những người thân, những người mình yêu thương. Khi dung hịa được những
điều đó thì cuộc sống mới thực sự hạnh phúc. Đó chính là nhận thức đúng đắn
mà nhân vật “tơi” có thể tự hiểu ra và chính vì điều đó cái tơi của nhân vật
“tơi” sẽ định hướng theo con đường phát triển thành một người tốt theo những
nguyên tắc mà sách vở khẳng định.
Nhân vật “tôi” khi đến nhà Swann: những biểu hiện, cử chỉ hành vi thể
hiện đó là một con người cẩn thận ln cân nhắc trong suy nghĩ, biết tạo ấn
tượng, biết mình cần làm gì, nên làmgì. Sau một thời gian dài bị cha mẹ
Gilberte ngăn cản thì nhân vật“tơi” đã được mời đến ngôi nhà mà mùi nước
hoa của bà Swann phả ra đến tận ngồi cầu thang, nhân vật“tơi” cảm nhận
được sự yêu mến dần dần của ông bà Swann nhưng song hành với đó là sự
chán ngán, ghét bỏ của nàng Gilberte khi mà luôn thấy nhân vật“tôi” xuất
hiện trong buổi tiệc trà của mẹ và bây giờ là xuất hiện trong cả bữa tối. Nhân
vật “tôi” luôn sáng suốt, biết nên lựa chọn hành động như thế nào để được
20


gặp gỡ, tiếp xúc với Gilberte nhiều hơn, ngay cả trong suy nghĩ, tơi ln cân
nhắc suy xét nhanh chóng trước những hành động của mình khi ở nhà Swann
để sao cho, những hànhh động đó được đánh giá cao, được công nhận và quan

trọng là những người trong gia đình Swann nhìn nhận được tình cảm chân
thật, thiết tha của mình đối với tiểu thư Gilberte nhà họ. Nhân vật “tơi” đánh
ngay vào tâm lí của cha mẹ là ông bà Swann, thể hiện mình là một người tốt,
thể hiện được cái giá trị của mình trước mặt họ mặc cho một số điều dù là cố
tình nhầm, hay cố tình dối trá nhưng trước mặt họ nhân vật“tơi” vẫn thể hiện
được cái giá trị của bản thân, từ đó nâng cao địa vị của mình trong lịng ơng
bà Swann và vị trí của mình trong gia đình Swann. Qua những hành động, suy
nghĩ và tình cảm mà nhân vật “tơi” thể hiện khi ở gia đình Swann đã cho
chúng ta thấy rằng: nhân vật“tôi” là một người khôn khéo, biết lợi dụng tình
hình, ln cân nhắc cẩn thận hành động cũng như suy nghĩ của mình để đạt
được điều mình muốn. “Tơi” tỏ ra là một con người khơn ngoan và có một
phần dối trá của sự ranh mãnh, ví như khi uống trà ở nhà Swann:“tơi đâu biết
mình uống trà. Mà dù có biết thì tơi cũng sẵn sàng uống ngay lập tức, vì dù có
thừa nhận tơi trở lại sáng suốt trong chốc lát để có thể xem xét hiện tại, thì
cũng khơng phải vì vậy mà hồi tưởng nổi dĩ vãng và tiên đoán nổi tương
lai…” [32, tr93] Qua đó có thể thấy được rằng, nhân vật“tôi” ý thức rất rõ
thực tại, là một con người lí trí và khá đề cao cái tơi của mình. Điều này được
thể hiện rất rõ ở điểm khi mà thường xuyên đến thăm, dùng trà và ăn tối ở nhà
Swann, dần dần nhân vật“tôi” cảm nhận được sự lạnh nhạt, xa lánh và thậm
chí chán ghét của nàng Gilberte dành cho mình. Cái tơi tự ái, cái tơi được đề
cao và lúc đó nhân vật“tơi”đã cố tình thể hiện rằng mình khơng phải đến vì
nàng mà chủ yếu là đến thăm ơng bà Swann, chính xác là bà Swann, cố tình
tránh mặt nàng khi đến nhà nàng vào những giờ chắc chắn nàng khơng có ở
nhà. Nhân vật “tôi” viết thư cho nàng nhưng không gửi, một thời gian dài
21


×