Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

(Luận văn thạc sĩ) bộ công an thực hiện chủ trương của đảng về tập trung giáo dục, cải tạo những phần tử nguy hại cho xã hội từ năm 1961 đến năm 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------  ----------

NGUYỄN THÁI HẬU

BỘ CÔNG AN THƢ̣C HIỆN CHỦ TRƢƠNG CỦA
ĐẢNG VỀ TẬP TRUNG GIÁO DỤC, CẢI TẠO
NHƢ̃ NG PHẦN TƢ̉ NGUY HẠI CHO XÃ HỘI
TƢ̀ NĂM 1961 ĐẾN NĂM 1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------  ----------

NGUYỄN THÁI HẬU

BỘ CÔNG AN THƢ̣C HIỆN CHỦ TRƢƠNG CỦA
ĐẢNG VỀ TẬP TRUNG GIÁO DỤC, CẢI TẠO
NHƢ̃ NG PHẦN TƢ̉ NGUY HẠI CHO XÃ HỘI
TƢ̀ NĂM 1961 ĐẾN NĂM 1975

Chuyên ngành:


Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số:

60.22.56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. HOÀNG HỒNG

Hà Nội - 2013


NHỮNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ANQG:

An ninh quốc gia

ANTT

An ninh, trật tự

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

CT/TW

Chỉ thị Trung ương


NXB:

Nhà xuất bản

TTGDCT:

Tập trung giáo dục, cải tạo

UBHC:

Ủy ban Hành chính

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 3
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 3
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 7
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu ................................................... 7
6. Đóng góp của đề tài ...................................................................................... 8
7. Kết cấu luận văn ........................................................................................... 8
Chƣơng 1. BỘ CÔNG AN THỰC HIỆN CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VỀ
TẬP TRUNG GIÁO DỤC, CẢI TẠO NHỮNG PHẦN TỬ NGUY HẠI
CHO XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1961 - 1964. ........................................................ 9
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về

cơng tác tập trung giáo dục cải tạo. .............................................................. 9
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác tập trung, giáo dục
cải tạo. ............................................................................................................. 9
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác tập trung giáo dục, cải tạo. ........... 13
1.2. Chủ trƣơng của Đảng và q trình thực hiện của Bộ Cơng an về tập
trung giáo dục, cải tạo. ................................................................................. 16
1.2.1. Chủ trương của Đảng và phương hướng, kế hoạch của Bộ Công an. 16
1.2.2. Q trình thực hiện của Bộ Cơng an ................................................ 288
Chƣơng 2. BỘ CÔNG AN THỰC HIỆN CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VỀ
TẬP TRUNG GIÁO DỤC, CẢI TẠO NHỮNG PHẦN TỬ NGUY HẠI
CHO XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1965 - 1975 ....................................................... 45
2.1. Chủ trƣơng của Đảng và phƣơng hƣớng, kế hoạch của Bộ Công an.45
2.1.1. Chủ trương của Đảng ......................................................................... 45
2.1.2. Phương hướng, kế hoạch của Bộ Công an ......................................... 51
1


2.2. Q trình thực hiện của Bộ Cơng an về tập trung giáo dục, cải tạo
giai đoạn 1965 - 1975 .................................................................................... 55
2.2.1. Công tác lập hồ sơ và bắt giữ đối tượng TTGDCT ............................ 55
2.2.2. Công tác quản lý, giáo dục cải tạo ..................................................... 57
2.2.3. Công tác xét tha và quản lý đối tượng được tha về địa phương......... 67
Chƣơng 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ............................. 75
3.1. Một số nhận xét ...................................................................................... 75
3.1.1. Ưu điểm ............................................................................................... 75
3.1.2. Hạn chế………………………………………………………………80
3.2. Một số kinh nghiệm ............................................................................... 82
3.2.1. Vận dụng sáng tạo chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước,
Chính phủ về cơng tác TTGDCT vào thực tiễn của ngành Công an. .............. 82
3.2.2. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ trong công tác TTGDCT ......... 87

3.2.3. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong cơng tác
TTGDCT. ....................................................................................................... 92
3.2.4. Đảm bảo cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu công tác TTGDCT………...98
KẾT LUẬN .................................................................................................... 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 104

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960) đã
khẳng định “Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên cơ sở liên minh cơng nơng
và được ủng hộ của tồn thể nhân dân, phải thực hành chuyên chính với bọn
phản cách mạng, nghiêm trị những kẻ chống lại cách mạng xã hội chủ nghĩa
và công cuộc thực hiện thống nhất nước nhà. Phải kiện tồn cơ quan Cơng an
nhân dân, cơ quan Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân; giáo dục nhân dân
nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng: động viên và tổ chức quần chúng
tham gia giữ gìn trật tự trị an, đấu tranh nhằm trừng trị bọn phản cách mạng
và cải tạo những phần tử lạc hậu” [37]. Như vậy, cùng với xây dựng nhà
nước dân chủ nhân dân cần phải thực hiện chuyên chính với kẻ chống lại cách
mạng XHCN. Ngày 04/10/1961, Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ đạo: Vấn
đề tập trung giáo dục, cải tạo những phần tử nguy hại cho xã hội là một công
tác rất quan trọng và phải tiến hành một cách khẩn trương.
Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng Công an nhân dân đã tổ chức tập trung
giáo dục, cải tạo hàng vạn phần tử gây nguy hại cho xã hội trở thành những
người lương thiện, sống có ích cho gia đình và xã hội, góp phần giữ vững an
ninh, trật tự, an toàn xã hội. Đặc biệt từ năm 1961 đến năm 1975, công tác
giáo dục tập trung giáo dục, cải tạo đã đạt được những thành tựu to lớn góp

phần vào cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nghiên cứu nhằm khẳng định vai trò quan trọng của Đảng đối với lĩnh
vực cải tạo những người lầm lỗi trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước và rút ra những bài học kinh nghiệm phục vụ cho công tác giáo dục
phạm nhân trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước là cần
3


thiết. Vì vậy, tơi chọn đề tài “Bộ Cơng an thực hiện chủ trương của Đảng về
tập trung giáo dục, cải tạo những phần từ nguy hại cho xã hội từ năm 1961
đến năm 1975” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Bản chất của công tác giáo dục, cải tạo người lầm lỗi là giáo dục làm
cho họ chuyển biến về mặt tư tưởng, nhận thức rõ bản chất nhân đạo của chế
độ xã hội chủ nghĩa để trở thành những người cơng dân lương thiện, có ích
cho xã hội. Nghiên cứu về công tác TTGDCT những phần tử gây nguy hại
cho xã hội đã có một số cơng trình nghiên cứu về đề tài tập trung giáo dục, cải
tạo của ngành Công an như:
- Đề tài “Tổng kết lịch sử 35 năm công tác tập trung giáo dục cải tạo
(1961 - 1995)”, đã tập trung nghiên cứu những Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng,
Nhà nước; Lực lượng Công an quán triệt và thực hiện chỉ đạo của Đảng, Nhà
nước về công tác TTGDCT từ thực tiễn rút ra bài học kinh nghiệm về công
tác TTGDCT từ năm 1961 đến năm 1995.
- Đề tài “Tổng kết lịch sử công tác TTGDCT đối tượng xâm phạm an
ninh quốc gia” đã nghiên cứu về các văn bản, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng,
Nhà nước, Bộ Công an về công tác TTGDCT đối tượng xâm phạm an ninh
quốc gia và rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác TTGDCT đối
tượng xâm phạm ANQG trong 35 năm (1961 - 1995).

- Đề tài “Tổng kết lịch sử công tác tập trung giáo dục cải tạo đối tượng
hình sự 1945 - 2000”, cơng trình nghiên cứu khái qt về cơng tác TTGDCT
đối tượng hình sự: Sự hình thành và phát triển cơng tác TTGDCT 1945 1961; cơng tác tập trung giáo dục góp phần bảo vệ an ninh trật tự thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược 1961 - 1975; tập trung cải tạo đối tượng hình sự góp
phần bảo vệ an ninh trật tự trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
4


Nam xã hội chủ nghĩa (1975 - 2000). Cơng trình nghiên cứu những Chỉ thị,
Nghị quyết của Đảng, Nhà nước và Bộ Cơng an về cơng tác TTGDCT đối
tượng hình sự trong suốt 55 năm từ năm 1945 đến năm 2000 và rút bài học
kinh nghiệm về công tác quản lý, giam giữ đối tượng hình sự trong giai đoạn
hiện nay.
- Cuốn sách “Lịch sử lực lượng Cảnh sát trại giam 60 năm xây dựng,
chiến đấu và trưởng thành”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005, đề cập
tồn diện các mặt công tác của lực lượng Cảnh sát trại giam trong từng giai
đoạn, sự ra đời trưởng thành của các đơn vị trại giam, cơ sở giáo dục, trường
giáo dưỡng trong từng thời kỳ.
- Kỷ yếu “Hội thảo lực lượng Cảnh sát quản lý trại giam trong sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm 2010”, nghiên cứu về vai trò
của các trại giam trong việc quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân và
đối tượng TTGDCT góp phần bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Qua đó rút ra những bài học
kinh nghiệm của lực lượng Cảnh sát trại giam trong công tác hiện nay.
- Cuốn sách “Đồng chí Trần Quốc Hồn về công tác Công an”, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội 2011, với nội dung là những bài viết và bài phát
biểu của Đồng chí Trần Quốc Hồn về những vấn đề mang tính chiến lược về
chủ trương, đường lối chính sách; nguyên tắc, phương châm, hình thức và
biện pháp đấu tranh chống phản cách mạng và các loại tội phạm khác nhằm
bảo vệ vững chắc an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội của đất nước trong

suốt hai cuộc kháng chiến và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cuốn
sách gồm 16 vấn đề cơ bản về công tác nghiệp vụ trên các lĩnh vực như chống
phản cách mạng, bảo vệ nội bộ, công tác sưu tra, vấn đề đấu tranh chống gián
điệp, chống phản động lợi dụng đạo Thiên chúa, đặc biệt là về công tác trại
giam… mang tính lý luận cao và giá trị thực tiễn sâu sắc. Trong cuốn sách có
5


một số bài viết về công tác trại giam như: Một số vấn đề căn bản về công tác
đánh địch (Bài nói chuyện của đồng chí Trần Quốc Hồn trong Hội nghị Tổng
kết công tác cải cách ruộng đất đợt 5 của đoàn Bắc Ninh, tháng 6 năm 1956);
Tăng cường công tác đấu tranh chống phản cách mạng để bảo đảm thắng lợi
cho cách mạng xã hội chủ nghĩa (Tham luận tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ ba, tháng 9/1960); Bài nói chuyện của đồng chí Bộ trưởng với Hội nghị
tổng kết công tác trại giam lần thứ III (tháng 3/1971)…
Nói chung tình hình nghiên cứu về tập trung giáo dục, cải tạo đã được
quan tâm và có nhiều cơng trình nghiên cứu. Tuy nhiên, tập trung nghiên cứu
sâu vào sự lãnh đạo của Đảng và sự triển khai thực hiện của Bộ Công an đối
với tập trung giáo dục, cải tạo từ năm 1961 đến năm 1975 thì chưa có cơng
trình nào.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ hệ thống các chủ trương của Đảng về công tác tập trung giáo
dục, cải tạo từ năm 1961 đến năm 1975 .
- Làm rõ q trình thực hiện cơng tác tập trung giáo dục, cải tạo của Bộ
Công an và những kết quả đạt được.
- Nêu được những thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm nhằm
thực hiện có hiệu quả lĩnh vực này trong những năm tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp những tư liệu liên quan đến chủ trương của Đảng Cộng sản

Việt Nam và quá trình thực hiện của lực lượng Công an nhân dân trong công
tác tập trung giáo dục, cải tạo thời gian từ năm 1961 đến năm 1975.
- Hệ thống hóa và trình bày q trình Bộ Cơng an thực hiện chủ trương
của Đảng về tập trung giáo dục cải tạo những phần tử nguy hại cho xã hội qua
2 giai đoạn 1961 - 1964 và 1965 - 1975.
6


- Đánh giá những thành tựu, hạn chế và đúc rút những bài học kinh nghiệm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các chủ trương chính sách Đảng và Nhà nước về cơng tác tập trung
giáo dục, cải tạo.
- Các kế hoạch, biện pháp của Bộ Công an trong công tác tập trung giáo
dục cải tạo những phần tử nguy hại cho xã hội từ năm 1961 đến năm 1975.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung:
- Bối cảnh lịch sử và những yêu cầu đặt ra đối với công tác tập trung
giáo dục, cải tạo trong những năm 1961 - 1975.
- Q trình Bộ Cơng an quán triệt chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước về công tác tập trung giáo dục, cải tạo và tiến hành tổ chức thực
hiện trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Về thời gian: Từ năm 1961 đến năm 1975
Về không gian: Ở miền Bắc Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử, phương pháp
lơgíc, ngồi ra trong đề tài cịn sử dụng một số phương pháp như thống kê,
tổng hợp…
Nguồn tư liệu:
- Các Văn kiện, Nghị định, Chỉ thị, Quyết định của Đảng và Nhà nước

về công tác tập trung giáo dục, cải tạo.
- Các Nghị quyết, kế hoạch, báo cáo tổng kết của Bộ Công an về công
tác tập trung giáo dục cải tạo.
- Các cơng trình, bài viết của các chun gia nghiên cứu về tập trung
giáo dục, cải tạo.
7


6. Đóng góp của đề tài
- Hệ thống lại quá trình Bộ Cơng an chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác
tập trung giáo, cải tạo từ năm 1961 đến năm 1975.
- Chỉ rõ ưu điểm, hạn chế và nêu lên một số bài học kinh nghiệm phục
vụ cho công tác tập trung giáo dục, cải tạo trong giai đoạn tiếp theo.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung luận văn có 3 chương:
Chƣơng 1. Bộ Công an thực hiện chủ trương của Đảng về tập trung
giáo dục, cải tạo những phần tử nguy hại cho xã hội giai đoạn 1961 - 1964.
Chƣơng 2. Bộ Công an thực hiện chủ trương của Đảng về tập trung
giáo dục, cải tạo những phần tử nguy hại cho xã hội giai đoạn 1965 - 1975
Chƣơng 3. Một số nhận xét và kinh nghiệm.

8


Chƣơng 1. BỘ CÔNG AN THỰC HIỆN CHỦ TRƢƠNG CỦA
ĐẢNG VỀ TẬP TRUNG GIÁO DỤC, CẢI TẠO NHỮNG PHẦN TỬ
NGUY HẠI CHO XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1961 - 1964.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về cơng tác tập trung giáo dục cải tạo.
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác tập trung,

giáo dục cải tạo.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội nảy sinh từ quá trình lao động của lồi
người, thực chất của nó là truyền thụ cho người khác những kinh nghiệm về lao
động sản xuất những tri thức khoa học tự nhiên và xã hội đã được hình thành.
V.I.Lênin cho rằng: Giáo dục là một hiện tượng xã hội biến đổi theo sự
biến đổi của quan hệ xã hội của phương thức sản xuất cho nên giáo dục cũng
là một hiện tượng lịch sử, không có một nền giáo dục chung chung trên tất cả
các giai cấp mà giáo dục bao giờ cũng bị chi phối bởi nền kinh tế và chính trị
của một xã hội nhất định. Như vậy giáo dục có tính chất giai cấp rõ ràng.
Theo C.Mác “Sự tồn tại của giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn
phát triển lịch sử nhất định của sản xuất” [28, tr.662]. Sự phân hóa giai cấp
trong xã hội có nguyên nhân sâu xa là tình trạng phát triển nhưng chưa đạt tới
trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất.
Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa về
giai cấp như sau: “Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những
người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất
định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ
này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về
vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách
thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng”
[76, tr.17-18].
9


Như vậy, thực chất của sự phân hóa những con người trong một cộng
đồng xã hội thành các giai cấp khác nhau, đối lập nhau là do có sự khác nhau
và đối lập nhau về địa vị của họ trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định,
do đó tất yếu dẫn đến việc “tập đồn này có thể chiếm đoạt được lao động của
tập đoàn khác”. Do vậy V.I.Lênin khẳng định “Giai cấp là những tập đoàn
người, mà tập đồn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đồn khác, do chỗ

các tập đồn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”
[76, tr.18]. Sự phân hóa những con người trong một cộng đồng đó chính là sự
phân hóa giai cấp. Thực chất trong lịch sử đã chứng minh sự phân hóa giai
cấp thành những giai cấp đối kháng nhau như chủ nô và nô lệ thời kỳ cổ đại,
giai cấp tư sản và vô sản thời kỳ cận đại đến nay.
Thực tiễn đã chứng minh giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất chủ
yếu của xã hội thì đồng thời có khả năng chiếm được địa vị là chủ quyền lực
chính trị và quyền lực nhà nước, do đó có khả năng khách quan trở thành giai
cấp thống trị xã hội, thực hiện được việc chiếm đoạt lao động của giai cấp
khác và duy trì được tình trạng tương đối ổn định của xã hội trong điều kiện
có đối kháng giai cấp.
Theo V.I.Lênin, đấu tranh giai cấp dùng để chỉ “cuộc đấu tranh của
quần chúng bị tước hết quyền, bị áp lực và lao động, chống bọn có đặc quyền,
đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công dân
làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư
sản” [75, tr.237-238]. Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của
những người lao động làm thuê, những người nô lệ bị áp bức về chính trị - xã
hội và bóc lột về kinh tế chống lại sự áp bức và bóc lột, tức là nhằm giải quyết
mâu thuẫn lợi ích về kinh tế và chính trị xã hội giữa giai cấp thống trị và giai
cấp bị trị ở những phạm vi và mức độ khác nhau.

10


Để khống chế và đàn áp những cuộc đấu tranh giai cấp của những
người lao động làm thuê, những người nơ lệ nhằm duy trì và thực hiện sự bóc
lột, các giai cấp thống trị trong lịch sử tất yếu phải sử dụng đến sức mạnh bạo
lực có tổ chức đó là nhà nước với những đội vũ trang đặc biệt và hệ thống
pháp luật nhằm duy trì trật tự của sự thống trị giai cấp.
Vì vậy, vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề

trung tâm và cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. Bất cứ cuộc đấu
tranh giai cấp nào nếu chưa giải quyết được vấn đề chiếm giữ quyền lực nhà
nước thì chưa thể giải quyết được những vấn đề căn bản nhất của cuộc đấu
tranh giai cấp. Tuy nhiên, không phải mọi cuộc đấu tranh giai cấp đều xác
định vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm,
chỉ có sự phát triển của đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ đấu tranh chính trị
thì vấn đề đó mới trở thành vấn đề trung tâm và cơ bản của nó. Đó cũng là
vấn đề cơ bản của mọi cách mạng xã hội với tư cách mà đỉnh cao của sự phát
triển đấu tranh giai cấp.
Sự ra đời và tồn tại của nhà nước là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp
trong xã hội đã bị đẩy đến chỗ không thể giải quyết được thì tất yếu giai cấp
thống trị cần đến sức mạnh bạo lực đặc biệt để duy trì xã hội trong vịng một
“trật tự” theo ý chí của nó, thực hiện lợi ích của nó. Sự ra đời và tồn tại của
nhà nước không phải để giải quyết mâu thuẫn mà là để duy trì trật tự xã hội
trong điều kiện mâu thuẫn không thể giải quyết được.
Khác với các kiểu nhà nước khác trong lịch sử nhà nước chun chính
vơ sản là nhà nước kiểu mới, là “nửa nhà nước”, “nhà nước khơng cịn
ngun nghĩa đen của nó”, tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
là cơng cụ bạo lực có tổ chức và công cụ quản lý kinh tế - xã hội của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động.

11


Nhà nước ta mang tính chất xã hội chủ nghĩa, vì vậy nhà nước được tổ
chức để làm cơng cụ quản lý - kinh tế. Nhà nước ta cũng tổ chức những lực
lượng vũ trang bảo vệ bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ chính trị của mình. Lực
lượng đó bao gồm tổ chức trấn áp những đối tượng chống phá cách mạng,
chống phá chế độ chính trị, làm mất ổn định trật tự xã hội.
Công cụ vũ trang của Nhà nước không chỉ trấn áp và bắt giữ những đối

tượng chống lại Đảng, Nhà nước, làm rối trật tự an ninh trật tự mà còn giáo dục
lại để họ có nhận thức đúng đắn hơn, khơng cịn có những hành vi sai trái, để
trở thành người tin tưởng vào Đảng, vào chính sách của nhà nước.
Giáo dục đối tượng tập trung giáo dục cải tạo: Là giáo dục để cải tạo
nhằm làm cho người phạm tội nhận rõ tội lỗi của họ và xóa bỏ được những tư
tưởng phản động, chống phá cách mạng tư tương ăn bám bóc lột và những tư
tưởng đồi trụy lạc hậu của đối tượng phạm tội khác để họ thấy được cách
mạng là chính nghĩa làm cho họ thêm tin tưởng vào đường lối chính sách giáo
dục của Đảng ta đối với họ. Họ thấy được sự cần thiết phải tích cực cải tạo để
sớm trở thành người công dân lương thiện xã hội chủ nghĩa. Đối với việc cải
tạo đối tượng TTGDCT là giáo dục lại có nghĩa là hoặc trước kia chưa làm ta
phải làm, xây dựng lại về nhận thức tư tưởng về đạo đức phẩm chất nhân cách
con người nơi họ.
Như vậy, giáo dục mang tính chất đấu tranh giai cấp rõ ràng nó thể hiện
cuộc đấu tranh giai cấp ở trong lĩnh vực chính trị tư tưởng của một giai cấp
của một xã hội nhất định (ở xã hội nào thì nền giáo dục đó sẽ phục vụ cho bản
chất xã hội đó. Giáo dục cải tạo đối tượng TTGDCT mang đầy đủ hai chức năng
bạo lực tổ chức xây dựng của nhà nước chun chính vơ sản và giáo dục cải tạo
những người phạm tội để họ trở thành người công dân làm ăn lương thiện.

12


1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác tập trung giáo dục, cải tạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham
muốn tột bậc đó là làm sao cho đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành”. Đó là tâm niệm, nỗi khát khao, mục tiêu phấn đấu là lẽ sống mà Người
suốt đời theo đuổi. Vì vậy, sẽ là khơng đầy đủ nếu chúng ta nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người mà lại khơng nghiên cứu tư

tưởng của Bác về giải phóng một bộ phận những người phạm phải sai lầm,
khuyết điểm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra nguyên nhân sai phạm của con người ở
khía cạnh xã hội: Con người khơng có ai bẩm sinh đã là hiền hay dữ, lớn lên
họ trở nên tốt xấu chủ yếu do được hưởng một sự giáo dục đúng hay sai. Các
loại tệ nạn, tội phạm như buôn lậu, trộm cắp, gái điếm... chỉ là nạn nhân của
chế độ xã hội cũ mà thôi. Trên tinh thần “nhân vô thập tồn” Người khẳng
định “khơng có ai là người bỏ đi, ai cũng có mặt tốt, mặt xấu” và tất yếu con
người khơng ai giống ai, có người thế này có người thế khác, như bàn tay phải
có ngón ngắn ngón dài. Tuy nhiên, ai cũng có lịng u nước. Nếu có ai đó
chống lại Tổ quốc là do lầm đường, chứ đâu phải sinh ra họ đã là kẻ phản bội,
làm tay sai cho ngoại bang. Trong thư gửi đồng bào Nam Bộ ngày 13/6/1946,
Người nhấn mạnh: “ai cũng có lịng u nước, chẳng qua có lúc vì lợi nhỏ mà
quên nghĩa lớn”, cái vụ lợi nhỏ đó đâu có gì khác là do điều kiện sống đưa
đẩy, do thiếu tiếp thu giáo dục ở mỗi con người.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đối xử với người lầm lỗi là
trấn áp kết hợp khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ: Đối với đồng
bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ, Người chỉ rõ:

13


“Trong mấy triệu con người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này
thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta... vậy nên ta phải khoan hồng đại độ”.
Biết tha thứ cho người lầm lỗi cũng là biện pháp để đoàn kết toàn dân
tộc, tạo nên sức mạnh của dân tộc. Trong thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng
bào Nam Bộ có nhắc nhở đồng bào “Đối với những đồng bào lạc lối, lầm
đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hố họ. Có như thế mới thành đại đồn
kết, có đại đồn kết thì tương lai chắc chắc sẽ vẻ vang”.

Với con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh u cầu phải tơn trọng nhân
cách, phẩm giá cho dù họ có tội đi chăng nữa. Bác nhắc nhở lực lượng Công
an phải kiên quyết tránh bắt bừa, bắt ẩu, mớm cung, nhục hình, Người cho
rằng “những điều đó chỉ tỏ rõ cái yếu, cái dốt, cái vụng của mình” mà “dùng
nhục hình là dã man chỉ có bọn phong kiến, đế quốc mới dùng nhục hình”[33,
tr.19]. Khơng chỉ có thái độ khoan hồng với con dân Việt Nam mà người cịn
khoan hồng với cả binh lính xâm lược Việt Nam khi bị bắt, Người đã gửi thư
cho binh lính đối phương bị bắt ngày 24/12/1946 như sau: “Tôi mong một
ngày rất gần đây, hai dân tộc Pháp - Việt có thể cộng tác trong vịng hồ bình
và thân ái để mưu hạnh phúc cho hai dân tộc. Trong khi chờ đợi, các bạn hãy
yên lòng và sống dưới sự che chở của chúng tôi, cho đến khi hết chiến tranh,
khi đó các bạn sẽ được tự do”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp hài hồ giữa trí tuệ và tình cảm; giữa
trấn áp và khoan hồng; giữa trừng trị và giáo dục “nghiêm khắc với kẻ ngoan
cố, đối với người thực sự chịu sự cải tạo thì khoan hồng”. Cùng với tinh thần
này, trong “Thư chúc tết” ngày 22/01/1949, Người khẳng định: “Đối với
những kẻ cố ý hại dân, cam tâm phản quốc, phép nước sẽ khơng khoan hồng,
quốc dân sẽ khơng tha thứ. Cịn những người vì một cớ gì mà đi lầm đường
như đi lính hoặc làm cơng cho giặc chẳng hạn, tơi tha thiết kêu gọi những
người này mau mau quay về với tổ quốc”. Chính phủ sẽ ln ln rộng lượng
14


với những ai biết cải tà quy chính, trọng thưởng những ai biết lập công chuộc
tội. Trong “Tám điều mệnh lệnh” của Chính phủ do Người ký đã nêu rõ chính
sách: “Bọn phản quốc đại gian, đại ác sẽ bị trừng trị, những người bị giặc bắt
ép phải theo chúng, nay khơng chống lại chính quyền và qn đội nhân dân sẽ
được chính phủ khoan hồng”.
Hồ Chí Minh tin tưởng vào khả năng làm cho người lầm lỗi trở thành
người tốt nếu có phương pháp giáo dục thích hợp “người đời ai cũng có

khuyết điểm, có việc làm thì có sai lầm” và “sai lầm là vì khơng hiểu, khơng
biết”. Trách nhiệm của chúng ta phải giúp họ sửa chữa sai lầm để trở thành
người tốt. Xuất phát từ quan điểm “hiền dữ đâu phải là tính sẵn, phần nhiều
do giáo dục mà nên”, nếu có phương pháp giáo dục thích hợp thì “ai cũng có
thể trở thành người tốt” “khơng ai là người bỏ đi”. Từ niềm tin đó, Bác
khẳng định sự cần thiết phải làm tốt công tác giáo dục, cải tạo. Người nhắc
nhở lực lượng Công an: “Phải kiên quyết làm thật tốt việc giáo dục cải tạo
những người trước kia là tề nguỵ và phỉ, những người trước kia đã tham gia
các đảng phái phản động. Việc này phải làm kiên quyết, nhưng phải hết sức
cẩn thận và khơn khéo”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho tư tưởng chủ đạo “biến q
trình giáo dục cải tạo thành tự cải tạo” Người nhấn mạnh: “Muốn họ thành
tâm sửa chữa phải giải thích rõ ràng, làm cho họ trơng thấy, tự nhìn vào sai
lầm đó, làm cho họ vui lịng sửa đổi, chứ khơng phải bị cưỡng bức mà sửa
đổi”. “Trong cuộc vận động này giáo dục là chính, làm cho những người phạm
tội có dịp để thật thà, cải quá tự tân”. Quan điểm này cũng đã được Hồ Chủ tịch
khẳng định trong thư gửi cho nguỵ binh ngày 20/8/1951 là: “Nặng về giáo dục,
nhẹ tay xử phạt để dìu dắt các người bỏ đường tà theo đường chính”.
Một trong những phương pháp giáo dục rất quan trọng mà Hồ Chí
Minh nêu ra là “phải làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở để đẩy
15


lùi phần ác, giống như ánh sáng đẩy lùi bóng tối”. “Cái ánh sáng đó nhiều khi
chỉ cịn là đốm lửa leo lét, chập chờn trong cái màn vô minh của tâm hồn đã
bị rượu, ma tuý, các tham vọng cá nhân lệch lạc, bệnh hoạn che phủ”. Tiếp thu
lời Bác những người làm công tác giáo dục lại, phải biết giáo dục những người
lầm lỗi để họ tích cực cải tạo để trở thành người lương thiện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dặn dị trong Di chúc: “Đối với những nạn nhân
của chế độ xã hội cũ như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, bn lậu... thì nhà nước

phải vừa dùng giáo dục vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên
những người lao động lương thiện”. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định một nguyên tắc rất quan trọng của giáo dục lại là kết hợp giữa giáo
dục và quản lý chặt chẽ bằng pháp luật đối với đối tượng tập trung giáo dục cải
tạo - chỉ có trên cơ sở đó mới có thể làm cho đối tượng TTGDCT tiến bộ.
1.2. Chủ trương của Đảng và quá trình thực hiện của Bộ Công an về
tập trung giáo dục, cải tạo.
1.2.1. Chủ trương của Đảng và phương hướng, kế hoạch của Bộ
Công an.
1.2.1.1. Chủ trương của Đảng
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 20/7/1954 thực dân Pháp ký Hiệp
định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự tại Việt Nam công nhận độc lập, chủ
quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, rút hết quân viễn
chinh về nước, lập lại hòa bình ở Đơng Dương, Việt Nam tạm thời bị chia cắt
thành 2 miền: Miền Bắc tiến hành cải tạo XHCN và xây dựng CNXH, miền
Nam tiếp tục công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc để hồn thành cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ.
Lợi dụng tình hình khó khăn của đất nước lúc này, được các thế lực đế
quốc bên ngoài tiếp tay, số phản cách mạng và tội phạm hình sự các loại ở
miền Bắc, đặc biệt là các đối tượng phản động trong đạo Thiên chúa ra sức dụ
16


dỗ, mua chuộc kích động, cưỡng ép đồng bào, nhất là giáo dân di cư vào Nam
và gia tăng các hoạt động cướp bóc, trộm cắp tài sản của nhân dân. Chúng
tung ra các tin bịa đặt: “Chính phủ Việt Nam cấm đạo”, “Chúa vào Nam”, “ở
lại miền Bắc sẽ bị rút phép thông công”, “ở lại với Cộng sản sẽ bị mất linh
hồn, sẽ bị trả thù”, “Mỹ sẽ ném bom nguyên tử xuống miền Bắc, “vào miền
Nam sẽ được Chúa che chở”... Vừa dùng giáo lý để lừa bịp đồng bào di cư,
vừa dùng vũ lực để ép đồng bào di cư, điển hình là ở Quảng Bình, Quảng

Trị… Mặc dù đó là các hoạt động trái phép, song khi chính quyền can thiệp
thì chúng liều lĩnh, cơng khai, trắng trợn chống lại, gây ra các vụ bạo loạn lớn
như ở Ba Làng (Thanh Hóa), Phát Diệm (Ninh Bình), Diễn Tiến (Nghệ An).
Một số đối tượng là ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái phản động, địa
chủ đã chôn giấu vũ khí, cấu kết với gián điệp cài lại, ra sức xây dựng lại cơ
sở, điều tra thu thập tin tức tình báo, chuẩn bị vũ khí để khi có điều kiện sẽ
phá hoại các cơng trình kinh tế - quốc phòng, ám sát cán bộ và tung tin bịa
đặt, nhân dân hoang mang lo lắng, không yên tâm sản xuất, gây mất an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội. Các đối tượng trong các đảng phái phản
động như Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng, Phục quốc… lập các nghiệp
đồn giả hiệu để lơi kéo quần chúng và thành lập tổ chức phản động âm mưu
lật đổ chính quyền.
Ở nơng thơn, địa chủ cường hào gian ác, số đối tượng thuộc tầng lớp
phú nông chưa cải tạo cũng ngóc đầu dậy, cùng số phần tử phản động trong
ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái phản động cũ, ngấm ngầm hoặc công khai
chống phá phong trào hợp tác hóa, chống chính sách nghĩa vụ qn sự, dân
cơng, lương thực của Nhà nước. Khi Đảng phát hiện tiến hành sửa sai trong
cải cách ruộng đất, số đối tượng này cấu kết với gián điệp, tề, ngụy, phỉ, đảng
phái phản động cũ, số lưu manh côn đồ, lôi kéo một số người bị oan sai, tổ
chức các cuộc vây bắt, đánh đập cán bộ cốt cán và đoàn cán bộ cải cách ruộng
17


đất để trả thù. Lợi dụng những sai lầm và công tác sửa chữa sai lầm trong cải
cách ruộng đất và công tác chỉnh đốn tổ chức của Đảng, những biến chuyển
xấu ở một số nước XHCN.
Số gián điệp, biệt kích đã tìm cách xâm nhập vào vùng dân tộc miền
núi, cấu kết với các đối tượng phản động tiếp tục hoạt động phá hoại, ám sát
cán bộ, cưỡng bức tài sản nhân dân, gây rối an ninh trật tự. Số này đã lôi kéo
được một số phần tử phản động trong tầng lớp trên của đồng bào dân tộc miền

núi, lợi dụng những thiếu sót, sơ hở của cán bộ trong việc thi hành chính sách
của Đảng để tuyên truyền xuyên tạc Hiệp định đình chiến, xuyên tạc những
thắng lợi của cách mạng, chống các chính sách, đặc biệt là chính sách dân
cơng, thuế nơng nghiệp, xây dựng qn đội. Lợi dụng sự giác ngộ của quần
chúng ở một số vùng dân tộc thiếu số còn hạn chế, đời sống vật chất văn hóa
chưa cao, tập quán lạc hậu, tâm lý thật thà để lừa bịp, gây ra những vụ “xưng
vua, đón vua”, thành lập các tổ chức phản động, tiến hành bạo loạn vũ trang…
Hoạt động này đã làm thiệt hại nhiều đến tính mạng, tài sản của nhân dân và
của Nhà nước, phá hoại nghiêm trọng tình hình an ninh trật tự ở địa phương1.
Số gián điệp cài lại cũng hoạt động mạnh, tăng cường thu thập tin tức
tiến hành các hoạt động chiến tranh tâm lý và phá hoại cơ sở vật chất hịng
gây khó khăn cho đất nước trong việc khôi phục, phát triển kinh tế xã hội ở
miền Bắc. Trong khi đó, gián điệp các nước đế quốc và tư bản chủ nghĩa đều
tăng cường hoạt động thu thập tình báo, phá hoại tinh thần và vật chất, gây cơ
sở hoạt động lâu dài hịng ngăn cản cơng cuộc kiến thiết chủ nghĩa xã hội và
làm suy yếu miền Bắc nước ta. Các đối tượng này phối hợp với các lực lượng
thù địch, gián điệp đã thu thập tin tức tình báo để tiến công phá hoại miền
Bắc, ngăn cản công cuộc kiến thiết chủ nghĩa xã hội và làm suy yếu miền Bắc
nước ta.
1

Từ 1954-1975, các tỉnh dân tộc miền núi phía Bắc đã xảy ra 26 vụ xưng vua, đón vua.

18


Các đối tượng lưu manh, đối tượng xấu cũng lợi dụng tình hình phức
tạp của miền Bắc lúc này để hoạt động ráo riết, vì vậy phạm pháp hình sự
cũng diễn biến hết sức phức tạp. Các đối tượng lưu manh hoạt động nhiều
trên các phương tiện tàu hỏa, từ thành phố ra các tỉnh Phú Thọ, Lạng Sơn…

Ngoài ra cịn có thêm số ngụy binh, con cháu địa chủ… cũng tham gia các
hoạt động tội phạm này.
Để xây dựng thành công CNXH và củng cố trâ ̣t tự, an ninh vững chắ c ở
miề n Bắ c , làm cơ sở vững chắc cho c

uô ̣c đấ u tranh ở miề n Nam

, ngày

17/02/1960, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 186CT/TW về mấy công tác lớn phải làm để đẩy mạnh công tác đấu tranh, chống
bọn phản cách mạng, nhằm bảo vệ công cuộc cải tạo XHCN và xây dựng
CNXH ở miền Bắc. Trong Chỉ thị có nêu lên “Những bọn phản cách mạng ở
miền Bắc nước ta bao gồm: những bọn gián điệp của các nước đế quốc, các
nước tư bản và của bọn Diệm, bọn phản động lợi dụng đạo Thiên chúa; và các
lực lượng phản động khác có tổ chức hoặc cá nhân chưa có tổ chức chống đối
lại cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp thống nhất nước nhà” [38, tr.1].
Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương yêu cầu cần phải: Tích cực
giáo dục, cải tạo bọn tề, ngụy, phỉ cũ, tổ chức phản động cũ và các cơ sở xã
hội khác mà bọn phản cách mạng dễ dàng lợi dụng “Đi đôi với việc giáo dục
chung của Đảng về chủ nghĩa xã hội, đối với nhân dân yêu cầu của việc cải
tạo các tầng lớp này chủ yếu là làm cho bọn họ nhận rõ trước kia họ có tội với
nhân dân, nay đã được Chính phủ và nhân dân khoan hồng, thì cần phải tích
cực cải tạo thành người làm ăn lương thiện, tuân theo pháp luật của Nhà nước,
tích cực thực hiện các chính sách, ủng hộ cách mạng xã hội chủ nghĩa, khơng
được có những lời nói phản động hoặc hành động phá hoại” [38].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tháng 9 năm 1960 đã đề
ra nhiệm vụ “đi đôi và kết hợp với phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc
19



phòng, tăng cường trật tự, an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc”. Đại hội III của Đảng xác định cả nước có hai nhiệm vụ
chiến lược “một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là,
giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực
hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước” [37].
Bước vào giai đoạn thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), đất
nước phải đương đầu với bao khó khăn thử thách.
Trong q trình xây dựng CNXH, các đối tượng phản cách mạng trước
đây đã từng làm tay sai cho địch gây nhiều tội ác với nhân dân, khơng phải đã
hồn tồn khuất phục mà các đối tượng này vẫn tìm mọi cách chống đối quyết
liệt. Vì vậy, Đảng xác định muốn xây dựng thành công CNXH và củng cố trật
tự, an ninh thật vững chắc ở miền Bắc làm cơ sở cho cuộc đấu tranh cách
mạng ở miền Nam thì cần phải trấn áp kịp thời mọi hành động chống đối của
các đối tượng phản cách mạng, đồng thời tiến hành giáo dục cải tạo những
phần tử có hành động phương hại đến an ninh, trật tự. Một trong những biện
pháp chuyên chính là TTGDCT những phần tử có hành động nguy hại cho xã
hội. Tuy nhiên, đi đơi với trấn áp cịn cần phải tiến hành giáo dục cải tạo xóa
bỏ tư tưởng hận thù giai cấp, xóa bỏ tư tưởng ăn bám của những đối tượng
này, sớm đưa họ hòa nhập với cuộc sống cộng đồng. Đây vừa là chủ trương,
vừa là chính sách của Đảng, Nhà nước.
Về việc bảo vệ an ninh trật tự, Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng lần thứ III năm 1960 chỉ rõ: Động viên và tổ chức quần chúng tích
cực tham gia giữ gìn trật tự trị an, đấu tranh nhằm trừng trị bọn phản cách
mạng và cải tạo những phần tử lạc hậu… Nhằm đáp ứng yêu cầu của cách
mạng miền Nam trong tình hình mới, ngày 23/01/1961, Ban Chấp hành Trung
ương cục miền Nam quyết định thành lập Trung ương cục miền Nam thay xứ
ủy Nam Bộ. Tháng 10/1961, Ban Bảo vệ an ninh Trung ương cục ra đời. Sau
20



đó, tổ chức an ninh miền Nam lần lượt hình thành ở các địa phương từ khu,
tỉnh, huyện, nhiều nơi có cả bảo vệ an ninh xã.
Ngày 01/03/1961, Ban Chấp hành Trung ương có Chỉ thị số: 13CT/TW về tăng cường cơng tác đấu tranh chống cách mạng, giữ gìn trật tự an
ninh trong đó có nêu lên cơng tác TTGDCT: “Đối với những phần tử phản
cách mạng nguy hiểm cho trật tự an ninh chung để ở ngoài xã hội khơng có
lợi, nhưng hiện nay đưa ra Tịa án xử cũng khơng có lợi thì cần phải cưỡng
bức tập trung lao động cải tạo lâu dài để chủ động ngăn chặn những hoạt động
phá hoại của chúng và làm cho chúng trở thành người lao động lương
thiện”[39, tr.3].
Quán triệt tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960) và các
Chỉ thị của Đảng , ngày 20/06/1961 Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành
Nghị quyết số 49/NQ/TVQH về việc tập trung giáo dục, cải tạo những phần
tử có hành động nguy hại cho xã hội, quy định những đối tượng từ đủ 18 tuổi
trở lên, có hành động nguy hại cho xã hội, đã được giáo dục nhiều lần mà
không chịu hối cải, nhưng xét thấy không cần đưa ra tòa án nhân dân để xử
phạt, đối tượng TTGDCT gồm 2 loại sau: Những phần tử phản cách mạng
ngoan cố có hành động phương hại đến an ninh chung và những phần tử lưu
manh chuyên nghiệp. Việc TTGDCT thực hiện theo phương châm giáo dục
chính trị kết hợp với cải tạo bằng lao động nhằm khuyến khích người được
giáo dục cải tạo cố gắng lao động sản xuất, học tập nghề nghiệp, cải tạo tư
tưởng để trở thành người lương thiện.
Ngày 09/08/1961, Hội đồng Chính phủ ra thông tư 121/CP hướng dẫn
thực hiện Nghị quyết số 49/NQ/TVQH, cụ thể hóa các loại đối tượng cần
TTGDCT. Hội đồng chính phủ đã quy định cụ thể các loại đối tượng trong đó
những phần tử lưu manh chuyên nghiệp phải đưa đi tập trung giáo dục cải tạo
gồm các đối tượng cụ thể là:
21


“1. Những tên cầm đầu lưu manh và những tên chuyên sống bằng nghề

oa trữ và tiêu thụ những thứ trộm cắp của người khác, đã qua nhiều lần giáo
dục cải tạo mà vẫn không chịu sửa chữa.
2. Những tên lưu manh trộm cắp đã tái phạm nhiều lần và khơng có
nghề nghiệp hoặc chỉ có nghề nghiệp ngụy trang chuyên sống bằng nghề trộm
cắp, lừa đảo và những tên chủ chứa, bọn gái điếm hiện đang hoạt động.
3. Những tên có nghề nghiệp nhưng quen thói trộm cắp đã nhiều lần
được nhân dân phê bình giáo dục hoặc chính quyền cảnh cáo mà vẫn không
chịu sửa chữa.
4. Những tên chuyên phá rối trật tự trị an, có hành động côn đồ, ngang
ngược, không tôn trọng pháp luật của Nhà nước qua nhiều lần giáo dục và
chính quyền cảnh cáo vẫn không chịu sửa chữa.
5. Những tên đã bị quản chế nhưng ngoan cố không chịu tuân theo kỷ
luật quản chế.
6. Những tên lưu manh đã hết hạn tù nhưng không chịu cải tạo”[29].
Đồng thời Thông tư cũng quy định các đối tượng không dùng biện
pháp đưa đi TTGDCT mà phải dùng các biện pháp trừng trị hoặc biện pháp
hành chính thích hợp khác đó là:
- Những phần tử phản cách mạng và lưu manh chuyên nghiệp cần trừng
trị thì phải đưa ra tòa án nhân dân xét xử.
- Những phần tử phản cách mạng và lưu manh chuyên nghiệp đang
hoạt động ngấm ngầm mà Công an đang theo dõi thì phải tiếp tục cơng tác
điều tra để tìm ra toàn bộ âm mưu tổ chức và hoạt động của chúng.
- Những phần tử phản cách mạng và lưu manh chuyên nghiệp có tội nhẹ
có thể cải tạo ở địa phương được thì phải dựa vào nhân dân, các đồn thể quần
chúng, các hợp tác xã mà tiến hành giáo dục, cải tạo hoặc quản lý tại địa phương.

22



×