Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

(Luận văn thạc sĩ) ảnh hưởng của phật giáo hòa hảo đối với đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh đồng tháp hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

MAI THỊ THANH

ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO HỊA HẢO
ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HĨA TINH
THẦN Ở TỈNH ĐỒNG THÁP HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

MAI THỊ THANH

ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO HỊA HẢO
ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HĨA TINH THẦN
Ở TỈNH ĐỒNG THÁP HIỆN NAY

Luận văn thạc sĩ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Đăng Sinh

Hà Nội - 2012



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................ 3
1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................ 5
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................... 8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.......................................................... 8
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ................................................................................ 9
7. Kết cấu của đề tài ................................................................................................ 9
Chương 1: PHẬT GIÁO HÒA HẢO Ở TỈNH ĐỒNG THÁP HIỆN NAY ........ 10
1.1 Khái lược sự hình thành và phát triển của Phật giáo Hòa Hảo ........... 10
1.1.1 Hồn cảnh ra đời Phật giáo Hịa Hảo ............................................ 10
1.1.2 Qúa trình tồn tại và phát triển của Phật giáo Hòa Hảo ................... 18
1.2 Giáo lý cơ bản của Phật giáo Hòa Hảo ............................................ 23
1.2.1 Tư tưởng về Học Phật ................................................................... 24
1.2.2 Tư tưởng về Tu Nhân .................................................................... 28
1.3. Sinh hoạt tơn giáo của tín đồ và cơ cấu tổ chức của Phật giáo Hòa
Hảo ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay ............................................................. 36
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO HÒA HẢO ĐỐI VỚI ĐỜI
SỐNG TÂM LINH VÀ ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG Ở TỈNH ĐỒNG THÁP
HIỆN NAY .......................................................................................................... 44
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và đời sống văn hóa tinh thần
của tỉnh Đồng Tháp ................................................................................ 44
2.2 Phật giáo Hòa Hảo với đời sống tâm linh và đạo đức, lối sống ở tỉnh
Đồng Tháp hiện nay ................................................................................ 52
2.2.1 Ảnh hưởng của Phật giáo Hòa Hảo đối với đời sống tâm linh ở tỉnh
Đồng Tháp hiện nay .............................................................................. 53

1



2.2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo Hòa Hảo đối với đạo đức, lối sống ở
Đồng Tháp hiện nay .............................................................................. 60
2.3. Một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của Phật giáo Hòa Hảo ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay .... 78
2.3.1. Một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực của Phật giáo
Hòa Hảo ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay ..................................................... 81
2.3.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo
Hòa Hảo ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay ..................................................... 87
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 98
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 105

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tơn giáo là hình thái ý thức xã hội, một thực thể xã hội và là sản phẩm
lịch sử do con người tạo ra. Tầm ảnh hưởng của tơn giáo đến chính trị, văn
hóa, xã hội đã thể hiện rõ nét trong lịch sử và tiếp tục được khẳng định trong
xã hội đương đại. Ở nước ta tín ngưỡng, tơn giáo có vị trí quan trọng trong
đời sống chính trị, văn hóa, tinh thần của xã hội. Tín ngưỡng và tơn giáo gắn
bó lâu dài với dân tộc và phục vụ lợi ích dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử
dựng nước và giữ nước. Mục đích của tơn giáo khá phù hợp với mục đích xây
dựng xã hội mới ở nước ta hiên nay. Những giá trị đạo đức của tôn giáo tương
đồng với đạo đức con người Việt Nam, cộng đồng các tơn giáo ln đồn kết,
đồng hành và phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc theo tinh thần “sống tốt đời
đẹp đạo”, “đạo pháp – dân tộc – chủ nghĩa xã hội”, “nước vinh đạo sáng”, góp

phần củng cố truyền thống dân tộc, đạo đức gia đình đó là “uống nước nhớ
nguồn”; “hiếu kính cha mẹ” và giúp đỡ người nghèo khó… Nhận thức vị trí,
vai trị của tơn giáo trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã khẳng định “đạo đức
tơn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”[17, tr. 45
– 46] và “tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đồng bào các dân tộc tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân
tộc”[17, tr. 48].
Tín ngưỡng, tơn giáo là một nhu cầu khơng thể thiếu được trong đời
sống tâm linh của một bộ phận nhân dân. Nó gắn chặt với đời sống văn hóa
tinh thần của nhiều dân tộc trong q trình tồn tại và phát triển theo cả hai
chiều tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhu cầu tín
ngưỡng tơn giáo của nhân dân có xu hướng gia tăng, hoạt động của các tổ
chức tôn giáo tiếp tục diễn ra phức tạp, các thế lực thù địch trong và ngoài

3


nước ln lợi dụng tín ngưỡng tơn giáo để kích động, chống phá Nhà nước
Việt Nam. Do đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương chính sách
về vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo được thể hiện trong văn kiện hội nghị lần thứ
năm Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản khóa VIII; nghị quyết trung
ương bảy khóa IX, ngồi ra cịn được thể hiện qua báo cáo chính trị của các
kỳ đại hội Đảng và đặc biệt là Pháp lệnh tín ngưỡng tơn giáo được ban hành
ngày 29/6/2004 (có hiệu lực từ ngày 15/11/2004). Việc ban hành Pháp lệnh
tín ngưỡng, tơn giáo thể hiện một mốc quan trọng trong việc thể chế hóa
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về vấn đề tín
ngưỡng, tơn giáo. Để từ đó người dân có thể tự do tín ngưỡng theo đúng pháp
luật, phát huy mặt tích cực sống “tốt đời đẹp đạo” và “vì đạo pháp vì dân tộc”,
đồng thời thấy được mặt hạn chế, tiêu cực để khắc phục nó.

Đồng Tháp là tỉnh đa dân tộc, đa tơn giáo và đa văn hóa. Các dân tộc
ở đây đã sớm cùng nhau chung sống, đoàn kết giúp đỡ nhau khai phá vùng
đất phì nhiêu này từ nhiều thế kỷ qua. Nơi đây hội tụ nhiều tơn giáo, có cả
tơn giáo ngoại nhập, tơn giáo nội sinh và tín ngưỡng dân gian. Tín ngưỡng,
tơn giáo có vai trị to lớn trong việc hình thành và phát triển văn hóa, lối
sống của người dân Đồng Tháp, cũng như giữ gìn tính cố kết cộng đồng
trong q trình khai hoang lập ấp, mở mang bờ cõi. Các tôn giáo ở đây tuy
có khác nhau về nguồn gốc, giáo lí, giáo luật, lễ nghi và phương thức hành
đạo, nhưng tư tưởng cốt lõi của các tôn giáo là đều dạy con người hướng
thiện, u chuộng hịa bình, đồn kết, giúp đỡ nhau, sống có tình có nghĩa.
Đặc trưng của các tơn giáo nơi đây đó là sự đan xen, hịa đồng với nhau.
Riêng đối với các tơn giáo nội sinh thì giáo lí dễ hiểu, dễ nhớ, khơng triết lí
sâu xa, gần với cuộc sống, các nghi thức tơn giáo đơn giản khơng phức tạp.
Chính điều này đã tạo nên nét khác biệt, đặc trưng góp phần làm phong phú
thêm đời sống văn hóa tinh thần của người dân tây Nam bộ nói chung và
người dân Đồng Tháp nói riêng.

4


Người dân với bản tính hiền hịa chất phác, sống trong điều kiện thiên
nhiên đa dạng, ưu đãi và qua q trình lao động, người dân Đồng Tháp đã tích
lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất và qua đó tạo nên những quan hệ
xã hội mang tính cộng đồng. Qua quá trình lao động sản xuất, đấu tranh với
thiên nhiên và xã hội, bảo vệ cuộc sống, duy trì sự sinh tồn của mình thì các
phong tục, tập quán được hình thành và phát triển, bén rễ sâu trong đời sống
tinh thần của họ. Bên cạnh đó tín ngưỡng, tơn giáo cũng giữ vai trị khá quan
trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân, nó giúp họ vượt qua
mọi khó khăn trong cuộc sống, hướng cho họ đạt tới cuộc sống tốt đẹp, mở
rộng lòng từ bi giúp đỡ tất cả mọi người. Đồng Tháp là tỉnh có nhiều tơn giáo

như Phật giáo, Cơng giáo, Tin Lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo (PGHH) và
đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa…Sự ảnh hưởng của tơn giáo đối
với đời sống văn hóa tinh thần là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, tác giả
không thể nghiên cứu hết tất cả các tơn giáo có mặt ở tỉnh Đồng Tháp mà chỉ
chọn PGHH để nghiên cứu, với tên đề tài: “Ảnh hưởng của Phật giáo Hòa
Hảo đối với đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay” để làm đề
tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
So với các tơn giáo khác thì sách hoặc các cơng trình nghiên cứu về
PGHH khá ít. Ngồi một số luận văn, luận án và bài báo viết riêng về PGHH
thì phần lớn là những cơng trình lồng ghép. Dưới đây là một số cơng trình
tiêu biểu.
- Sách đã xuất bản gồm có:
Nguyễn Văn Hầu (1968), Nhận thức Phật giáo Hịa Hảo, Nxb Hương
Sen. Trình bày nguồn gốc ra đơi của PGHH, quá trình truyền đạo của Huỳnh
Phú Sổ, phân tích một số tư tưởng trong giáo lí PGHH.
Đặng Nghiêm Vạn (1998), Về tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam hiên nay,
Nxb Khoa học xã hội. Trong đó trình bày một số vấn đề về lý luận và thực trạng

5


tôn giáo Việt Nam, đề cập đến các lĩnh vực tơn giáo cụ thể như: Nho giáo, Phật
Giáo, Đạo Hồ Hảo, và những hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam.
Đỗ Quang Hưng (2001), Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo Nam bộ,
Nxb Khoa học xã hội. Đề cập đến một số vấn đề về tôn giáo Việt Nam nói
chung và Nam bộ nói riêng: văn hố, Phật giáo, Đạo Nho, Cơng giáo, đạo
Cao đài và đạo Hồ Hảo…
Ban trị sự trung ương Phật giáo Hoà Hảo - Ban phổ truyền Giáo lý
(2004), Tôn chỉ hành đạo Phật giáo Hồ Hảo của Đức Huỳnh giáo chủ, Nxb

Tơn Giáo. Giới thiệu tơn chỉ hành đạo Phật giáo Hồ Hảo, những điều răn,
cách tu hiền và sự ăn ở của một người bổn đạo.
Nguyễn Mạnh Cường – Nguyễn Minh Ngọc (2005), Tơn giáo tín
ngưỡng của các cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Phương Đông.
Phác hoạ về lịch sử và ảnh hưởng của tơn giáo, tín ngưỡng dân gian tới văn
hóa, lối sống của bốn dân tộc người Khmer, Chăm , Hoa, Việt ở đồng bằng
song Cửu Long.
Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn
Giáo. Tác giả giới thiệu lịch sử ra đời, phát triển, giáo lý, luật lệ, lễ nghi, cách
thức hành đạo, cơ cấu tổ chức giáo hội của đạo Phật, đạo Công giáo, đạo Tin
lành, đạo Hồi, đạo Cao Đài, đạo Phật, đạo Hoà Hảo và một số tổ chức quốc tế
tơn giáo trên thế giới.
Phạm Bích Hợp (2007), Người Nam bộ và tôn giáo bản địa, Nxb Tôn
Giáo. Chỉ giới hạn ở việc khảo sát và kiến giải về đạo Cao Đài, Bửu Sơn Kỳ
Hương và Phật giáo Hòa Hảo từ góc độ tâm lý, làm rõ nguyên nhân sự xuất
hiện, tồn tại và chỉ ra một số nét đặc trưng thể hiện bản chất của đạo Hịa Hảo.
Từ đó, làm rõ vai trò ảnh hưởng, xu hướng phát triển và một số giải pháp đặc
thù cho đạo Hòa Hảo hiện nay.

6


- Một số luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ cũng đề cập tới vấn đề Phật
giáo Hòa Hảo gồm có:
Bùi Thị Thu Hà(1997), Đảng bộ An Giang vận động quần chúng tín đồ
Hồ Hảo tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ 1954-1975, luận văn
Thạc sỹ.
Nguyễn Hoàng Sa (1999), Đạo Hịa Hảo và ảnh hưởng của nó ở Đồng
bằng sông Cửu Long, Luận án tiến sỹ triết học. Nghiên cứu dưới góc độ triết
học, luận án xem xét ý thức tơn giáo Hịa Hảo là sự phản ánh tồn tại xã hội.

Tìm hiểu vai trị và ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần xã hội ở
Đồng bằng Sông Cửu Long, làm cơ sở vạch ra định hướng, giải pháp phát
huy tính tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của tôn giáo này.
Lâm Quang Láng (2007), Phật giáo Hòa Hảo – hệ thống giáo hội và các tổ
chức chính trị, quân sự thời kỳ 1945 – 1975, Tp. HCM, luận án tiến sỹ. Nghiên cứu
một cách có hệ thống và tồn diện về hệ thống giáo hội và các tổ chức chính trị, vũ
trang của Hòa Hảo. Làm rõ đặc điểm xã hội, nguyên nhân ra đời hệ thống hệ thống
giáo hội và các tổ chức chính trị, qn sự của PGHH. Qua đó rút ra những bài học
lịch sử đóng góp cho sự phất triển đúng đắn của PGHH trong tương lai.
- Các bài báo gồm có:
Nguyễn Thị Bảy (2009), Về tính đa ngun tơn giáo tín ngưỡng ở Miền
tây Nam Bộ, nghiên cứu Đông Nam Á, số 3.
Trần Tiến Thành (2009), Tố chất cứu thế trong giáo lí Phật giáo Hịa
Hảo, Nghiên cứu tôn giáo, số 12.
Nguyễn Hữu Hiệp (2010), Căn cốt giáo lí của Phật giáo Hịa Hảo: “học
phật tu nhân” hay “tu nhân học phật”, Nghiên cứu tôn giáo, số 3.
Các cơng trình nêu trên đã trình bày được nguồn gốc ra đời, giáo lí và
thân thế của Huỳnh Phú Sổ. Một số cơng trình nghiên cứu chun sâu về
PGHH của Nguyễn Văn Hầu, Nguyễn Hoàng Sa, Lâm Quang Láng…mới chỉ

7


khai thác nguyên nhân ra đời hệ thống hệ thống giáo hội và các tổ chức chính trị,
quân sự của PGHH, những nội dung cơ bản và xu hướng phát triển của
PGHH…qua đó, có thể thấy sự ảnh hưởng của PGHH đối với đời sống văn hóa
tinh thần là một vấn đề cịn bỏ ngỏ chưa có tác giả nào nghiên cứu. Tìm hiểu về
PGHH thì khơng chỉ tìm hiểu mặt lí thuyết mà cần thiết phải tìm hiểu cả
những ảnh hưởng của PGHH đến đời sống xã hội để từ đó có cái nhìn tồn
diện về PGHH.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là làm rõ những ảnh hưởng cơ bản của Phật giáo
Hòa Hảo đối với đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân tỉnh Đồng Tháp
hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu này, đề tài tập trung vào nhiệm vụ sau:
Trên cơ sở khái quát PGHH ở tỉnh Đồng Tháp, đề tài tập trung phân
tích ảnh hưởng của PGHH đến đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Đồng Tháp. Từ
đó đưa ra giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và khắc phục những
ảnh hưởng tiêu cực của PGHH đối với đời sống văn hóa tinh thần ở Đồng Tháp
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những ảnh hưởng của Phật giáo Hòa
Hảo đối với đạo đức, lối sống và đời sống tâm linh của người dân tỉnh Đồng
Tháp hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận

8


Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề tín
ngưỡng, tơn giáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp của phép biện chứng duy vật và các
phương pháp như logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch,
so sánh, khái quát hóa, điền dã, khảo sát… nhằm làm rõ những nội dung cơ bản
ảnh hưởng của Phật giáo Hòa Hảo đến đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Đồng

Tháp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, cho những người
nghiên cứu về đời sống tôn giáo của nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Đồng thời
giúp các cơ quan quản lý nắm rõ tình hình, nhu cầu và ảnh hưởng của Phật
giáo Hòa Hảo đến đời sống tinh thần của nhân dân. Trên cơ sở đó có những
giải pháp thích hợp nhằm hướng nhân dân sinh hoạt tín ngưỡng tơn giáo lành
mạnh, theo đúng hiến pháp và pháp luật.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
đề tài gồm 2 chương 6 tiết.

9


Chƣơng 1
PHẬT GIÁO HÒA HẢO Ở TỈNH ĐỒNG THÁP HIỆN NAY
1.1 Khái lƣợc sự hình thành và phát triển của Phật giáo Hịa Hảo
1.1.1 Hồn cảnh ra đời Phật giáo Hịa Hảo
Trong lịch sử, tơn giáo ngun thủy được nảy sinh trong một xã hội mà
trình độ sản xuất thấp kém (đồ đá cũ). Khi ấy, con người còn lệ thuộc rất nhiều
vào tự nhiên và gần như bất lực trước sức mạnh tự phát của các hiện tượng tự
nhiên như mưa gió, sấm chớp, động đất, núi lửa… Trước những hiện tượng đó
họ sợ hãi và thần bí hóa các hiện tượng khách quan của giới tự nhiên thành lực
lượng siêu nhiên chi phối cuộc sống của mình. Như vậy những hiện tượng tơn
giáo ngun thuỷ chính là những sản phẩm còn hạn chế về sự hiểu biết của con
người về chính mình và tự nhiên xung quanh mình. Bên cạnh những hiện
tượng tự nhiên, con người cũng luôn gặp phải những lực lượng tự phát trong
các quan hệ xã hội: đấu tranh bảo vệ sự tồn tại của bộ lạc; chiến tranh xâm
chiếm đất đai, lãnh thổ; sự phân công lao động xã hội… làm cho con người

càng bất lực, bế tắc trong cuộc sống, dẫn con người đến với tơn giáo.
Khi xã hội có đối kháng giai cấp, ngoài sự bất lực của con người trước
những hiện tượng tự nhiên thì nạn áp bức lao động, bóc lột về kinh tế, lệ
thuộc về chính trị, nơ dịch về tinh thần còn gây cho người ta đau khổ, sợ hãi
gấp nhiều lần và nếu ở "cõi trần" hẫng hụt, thiếu vắng hạnh phúc thì người ta
sẽ đi tìm điểm tựa ở cõi siêu nhiên. Bàn về điều này, Lênin chỉ rõ rằng: sự áp
bức đối với quần chúng lao động về mặt xã hội, tình trạng có vẻ hoàn toàn bất
lực của họ trước những thế lực mù quáng của chủ nghĩa tư bản đang hàng
ngày hàng giờ gây cho người lao động những nỗi thống khổ cực kì to lớn,
những đau thương thật là khủng khiếp, nhiều gấp nghìn lần so với những biến
cố phi thường như chiến tranh, động đất… Đó là nguồn gốc sâu xa nhất của
tôn giáo. Người cũng cho rằng, các thế lực mù quáng ấy chính là: sự phá sản

10


đột ngột, bất ngờ. Bên cạnh đó, tơn giáo ra đời cịn do trình độ nhận thức của
con người cịn có hạn, có những cái con người biết và chưa biết nên nảy sinh
tâm lí sợ hãi dẫn đến việc cầu xin vào sự che chở, giúp đỡ của Thần, Thánh,
Tiên, Phật... Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp, xuất hiện bởi
nguyên nhân xã hội, nguyên nhân nhận thức và tâm lý. Đó cũng là những điều
kiện cần và đủ cho một tôn giáo xuất hiện.
PGHH ra đời cũng khơng nằm ngồi quy luật chung đó và do là tơn
giáo nội sinh nên nó cịn mang những nét đặc trưng của những điều kiện tự
nhiên, chính trị - xã hội và văn hóa của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
- Điều kiện kinh tế - xã hội
Cũng như các tôn giáo khác, PGHH ra đời cũng dựa trên những tiền đề
kinh tế, xã hội và tư tưởng nhất định. Trong những năm đầu của thế kỷ XX,
thực dân pháp đẩy mạnh cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai với một loạt
chính sách kinh tế nhằm vơ vét của cải vật chất, nhất là trong lĩnh vực nông

nghiệp. Sau khi đã xâm lược và ổn định được tình hình, chúng chia Việt Nam
làm ba kỳ với ba chế độ khác nhau để dễ bề cai trị. Tổ chức quản lý hệ thống
chặt chẽ, khai thác triệt để những nguồn lợi tức từ tài nguyên thiên nhiên,
nông nghiệp, thương nghiệp và con người Việt Nam. Thay đổi chính sách
phân phối ruộng đất, chuyển từ công điền sang tư điền, với chế độ đại điền
chủ, đại đồn điền làm lợi cho những kẻ giàu có. Sự thay đổi này phục vụ cho
vài phần trăm dân số, còn hơn 90% nông dân và công nhân làm thuê trong các
đồn điền bị đẩy vào cảnh đói khổ. Nếu trước đây, họ còn được cày cấy trên
mảnh đất được cấp do chế độ cơng điền hay do tự mình khai phá, thì giờ đây
họ trở thành người mướn đất và phải nộp địa tô cho điền chủ. Ở Nam Bộ các
điền chủ lớn thường sống ở thành thị, họ giao cho người quản lý tiếp xúc và
thu tơ của tá điền, ngồi ra cịn có Bao Tá, là người nhận một diện tích lớn
của điền chủ, rồi cho tá điền mướn lại để lấy lợi tức trung gian. Như vậy, một

11


người nơng dân có khi phải nộp nhiều loại địa tơ cho nhiều ơng chủ. Ngồi ra,
để sản suất và sinh sống trong thời gian đầu, người nông dân phải vay nợ với
lãi xuất cao, trong khi những khoản thu về từ nơng ngiệp thì khơng thấm vào
đâu so với những khoản nợ nần. Thực dân Pháp ra sức chiếm đoạt ruộng đất
để lập đồn điền và tăng cường thu thuế đối với nông dân. Kết cục là người
nông dân Nam Bộ bị mất đất, bị bần cùng hóa và trở thành nô lệ cho thực dân
phong kiến ngay trên chính mảnh đất của mình. Sưu cao thuế nặng làm cho
cuộc sống người dân vô cùng cơ cực, thêm vào đó “mùa màng thất đói, đau
khơng thuốc” làm cho cuộc sống của người dân đã khổ lại càng khổ hơn.
Cùng với việc vơ vét bóc lột về kinh tế, thực dân Pháp tăng cường áp
bức thống trị về mặt chính trị, nơ dịch về văn hóa đối với nhân dân ta. Đa số
đồng bào là mù chữ, đời sống đều gắn với thầy bùa, thầy ngải, thầy pháp và
phó thác tính mạng cho họ. Đời sống khó khăn thêm vào đó bệnh dịch hồnh

hành, nhiều thú dữ, vì vậy người dân lao động muốn sống vừa phải cầu xin
Thần, Phật che chở, cứu vớt, vừa phải tự cứu mình bằng các loại cây cỏ,
những phương thức chữa trị dân gian thần bí. Chính sách kinh tế, xã hội của
thực dân Pháp đã đẩy người dân Việt Nam nói chung, nơng dân Nam Bộ nói
riêng lâm vào cảnh nghèo đói. Đứng trước thực trạng đó, nhân dân Nam Bộ
đã vùng lên đấu tranh chống thực dân Pháp quyết liệt. Cuối thế kỷ XIX có các
cuộc khởi nghĩa điển hình như của Trương Định (1859 – 1867), của Nguyễn
Trung Trực (1861 – 1868), của Phan Văn Đạt và Lê Cao Dũng (1861), của
Nguyễn Hữu Huân (1862), của Âu Dương Luân và Phan Cơng Tịng (1862),
của Võ Duy Dương (1886)…Sang đầu thế kỷ XX phong trào chống Pháp lại
thêm những hình thức mới mà tiêu biểu là Thiên địa hội của Phan Xích Long
(1913 – 1916), phong trào Đông Du và Duy Tân dưới sự lãnh đạo của Phan
Bội Châu và Phan Chu Trinh…Song do hạn chế về mặt giai cấp và chưa có
một chính đảng lãnh đạo nên các cuộc đấu tranh của nhân dân ta đều bị thực

12


dân Pháp đàn áp đẫm máu. Như vậy, chính sự thất bại, bế tắc trong cuộc sống
và trong đấu tranh đã thúc đẩy một bộ phận quần chúng tìm đến với tơn giáo
để được an ủi, che chở vì tơn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất
lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội, điều này C. Mác đã khẳng
định: “sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực,
vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở
dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng
giống như nó là tinh thần của những trật tự khơng có tinh thần. Tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân” [ 48, tr. 570]
- Tiền đề tư tưởng
PGHH ra đời còn do sự khủng hoảng, suy thối của các tơn giáo. Khi
PGHH chưa ra đời thì phần lớn nhân dân theo đạo Phật, đạo Nho, đạo Công

Giáo, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa… nhưng thời kỳ này các
tôn giáo ấy đều mất uy tín. Đạo Cơng Giáo dưới con mắt người dân Nam Bộ
gắn liền với sự xâm lược của thực dân Pháp và sự mất nước nên bị nghi ngờ
và chán ghét. Đạo Nho là một học thuyết đạo đức, chính trị chỉ phù hợp với
chế độ quân chủ nông nghiệp. Đạo Phật Tiểu thừa với phương châm “tự độ,
tự tha” chỉ giải thoát cho những ai xuất gia tu hành, khó hịa nhập với phong
tục, tập qn của người dân Nam Bộ. Đạo Phật Đại thừa bị suy vi và chia rẽ
thành nhiều tông phái và chịu sự thâm nhập các yếu tố mê tín dị đoan của đạo
Lão. Đạo Tin Lành mới du nhập nên chưa gây được ảnh hưởng. Như vậy, sư
suy sụp của các tôn giáo và đạo lý đương thời đã tạo ra khoảng trống về tư
tưởng tạo điều kiện cho PGHH ra đời và phát triển.
PGHH ra đời là sự kế thừa Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (đạo Lành) và Tứ
Ân Hiếu Nghĩa. Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương do Đoàn Minh Huyên sáng lập năm
1849 tại làng Tòng Sơn thuộc Cái Tàu Thượng, tỉnh Sađéc (nay là tỉnh Đồng
Tháp). Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương chủ trương lối học Phật tu nhân, tức là đem

13


con người trở lại con đường thiện sống đúng với đạo nhân. Mặt khác giáo lý
của Bửu Sơn Kỳ Hương cũng được kế thừa một cách có chọn lọc từ đạo Phật
để phù hợp với tình hình xã hội lúc bấy giờ, với những người nông dân nghèo
khổ ở vùng đồng bằng sơng Cửu Long. Đó là việc cần phải học Phật để trang
nghiêm con đường tiến tu giải thoát theo điều Phật dạy mới tránh được lỗi lầm
do vô minh gây nên và nhận rõ con đường đạt đến chân lý. Nhưng do tác động
của hoàn cảnh, cộng thêm việc cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa do Trần Văn Thành
lãnh đạo thất bại, thực dân Pháp ra sắc lệnh cấm người theo đạo, triệt tiêu cơ sở
tôn giáo, khủng bố, đàn áp, bắt bớ các tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Từ đó
đạo Bửu Sơn Kỳ Hương bị phân tán, mất cơ sở nên khơng cịn tự chủ, khơng
cịn là một phong trào cứu thế như thời kỳ đầu ra đời và bị thu hẹp dần, cuối

cùng hòa vào các đạo khác như Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hịa Hảo…
Cho nên, có thể thấy rằng cả Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo sau này
đều chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm học Phật tu nhân và tứ đại trọng ân của
Bửu Sơn Kỳ Hương vốn chịu ảnh hưởng và có nguồn gốc từ Phật giáo.
Trong lúc cuộc khởi nghĩa Láng Linh của Trần Văn Thành sắp nổ ra thì
ở Thất Sơn dân chúng lại xơn xao vì nghe tin đồn có một vị Phật giáng thế
truyền đạo cứu đời, đó chính là Đức bổn sư Ngô Lợi (1831 – 1890) và đạo do
ông truyền dạy là đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Tư tưởng chủ yếu của đạo Tứ Ân
Hiếu Nghĩa vẫn là “học phật tu nhân” và đặc biệt là thực hiện tứ ân. Học Phật
là học những điều Phật dạy, làm những điều Phật khun và muốn làm được
điều đó cịn phải biết niệm danh hiệu phật A - di – đà. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
quan niệm con người sống phải đạt nhân, phải là người hiếu nghĩa, muốn vậy
phải thực hiện tứ ân mà thực hành tứ ân là tu nhân. Ngồi ra đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa cịn dạy cho tín đồ của mình ấn khuyết, thần chú, luyện linh – khí –
thần. Người Tứ Ân Hiếu Nghĩa có hệ thống chùa chiền khá quy mô, tuy nhiên
đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được duy trì mang tính hạn chế ở xã Ba Chúc, huyện

14


Tri Tôn, tỉnh An Giang. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời sau đã kế thừa những
tinh hoa của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, noi theo tinh thần của tôn giáo này,
đồng thời phát triển nhiều nội dung mới trong quan niệm đạo lý, nghi thức
hành đạo, đối tượng thờ cúng… Như vậy, có thể nói “ở chừng mực nào đó
đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có quan hệ nguồn gốc với Bửu Sơn Kỳ Hương” [40,
tr. 54]. PGHH ra đời là sự kế thừa của Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Đạo Tứ
Ân Hiếu Nghĩa, giáo lý dựa trên truyền thống của các tôn giáo dân tộc và Đạo
Phật được phổ thơng hóa. Triết lý mộc mạc, lễ thức đơn giản thích hợp với
tâm lý và tình cảm của người nơng dân Đồng bằng Sơng Cửu Long.
PGHH ra đời cịn do ảnh hưởng bởi tín ngưỡng dân gian Nam Bộ. Đó là

tín ngưỡng thờ cúng các loại thần, các vị tổ, tập tục thờ các loài vật, thờ Bà
Chúa, thờ Quan Ông hay là những tập tục cúng lễ trong nông nghiệp và các lễ
hội dân gian. Tất cả điều đó tạo nên một khơng gian tơn giáo độc đáo. Bên
cạnh đó là nền văn hóa dân gian mang tính chất tôn giáo cũng là yếu tố tạo nên
tư tưởng, giáo thuyết của PGHH. Đồng thời, đặc điểm tâm lý và phong cách
ứng xử của người Nam Bộ cũng là yếu tố góp phần đáng kể hình thành nên tư
tưởng và giáo thuyết của PGHH. Đó là những con người phóng khống, cởi
mở, chân chất, hiếu thảo với cha mẹ, tổ tiên… tất cả điều đó tạo nên con người
với đặc tính khơng kỳ thị tơn giáo hay là cách sống của người khác.
Như vậy, PGHH ra đời là do nhiều yếu tố khác nhau. Trong điều
kiện kinh tế, chính trị và xã hội hết sức khó khăn, làm cho đời sống nhân
dân cơ cực, lầm than khơng lối thốt. Cộng thêm việc các tôn giáo đương
thời không đáp ứng được đời sống tâm linh của người dân. Phật giáo là tôn
giáo gần gũi với nhân dân hơn cả nhưng tư tưởng của phật giáo sâu xa, khó
hiểu khơng phù hợp với người dân Nam Bộ thật thà, chất phác, chính vì thế
địi hỏi phải có một tơn giáo khác ra đời để làm chỗ dựa tinh thần.
- Vai trò của giáo chủ Huỳnh Phú Sổ

15


PGHH còn gọi là đạo Hòa Hảo ra đời năm 1939 tại làng Hòa Hảo quận
Tân Châu, Châu Đốc, nay là thị trấn Phú Mỹ, xã Tân Hòa, huyện Phú Tân,
tỉnh An Giang. Khi mới ra đời, PGHH thường được gọi là đạo Tư Sển (tên
thường gọi của Huỳnh Phú Sổ), đạo khùng. Khoảng năm 1948 tên gọi PGHH
đã xuất hiện, nhưng phải đến năm 1964 thì mới được chính quyền Sài Gịn
cơng nhận và mới chính thức sử dụng. Năm 2004, khi xây dựng hiến chương
mới vẫn dùng tên gọi PGHH. Với tên gọi đó chứng tỏ nó có mối liên hệ với
Phật giáo và trên thực tế PGHH được coi là một môn phái của Phật giáo.
“Từ khi ra đời đạo Hòa Hảo phát triển và lan rộng ra các tỉnh, trên địa

bàn 17 tỉnh thành phố vùng đồng bằng Nam Bộ, nhưng chủ yếu tập trung tại 5
tỉnh: An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang”[6, tr. 407].
Người sáng lập ra đạo Hòa Hảo là giáo chủ Huỳnh Phú Sổ. Ông sinh
năm 1920 tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Sinh ra trong một
gia đình trung lưu và có uy tín với nhân dân địa phương. Thuở nhỏ, Huỳnh Phú
Sổ đau ốm liên miên và không một lương y nào chữa được. Cuối cùng ông
Huỳnh Công Bộ bèn gửi ông đến núi Trà Sư, ở đó có ơng đạo Xom tục danh là
Lê Hồng Nhật là một tu sỹ nổi tiếng giỏi pháp thuật, đã từng chữa nhiều bệnh
bằng bùa ngải để hy vọng Huỳnh Phú Sổ có thể khỏi bệnh. Trong thời gian ở
đây, ông Huỳnh Phú Sổ đã học được nghề y học dân tộc, học được nhiều thuyết
pháp, kinh kệ của đạo Tứ Ân Hiếu nghĩa và Bửu Sơn Kỳ Hương. Đến năm
1937, Huỳnh Phú Sổ trở về quê khi mà bệnh dịch, thiên tai đang hồnh hành,
trước tình hình đó ơng đã chữa trị cho dân và chữa được những căn bệnh hiểm
nghèo với phương pháp đơn giản, chỉ bằng lá cây, nước lã, giấy vàng.Song
song với việc chữa bệnh thì ơng cũng thuyết pháp cho người bệnh nghe về đạo
lý bằng những ngôn từ cao siêu làm cho dân chúng hết sức ngạc nhiên. Huỳnh
Phú Sổ thuyết giảng cả ngày lẫn đêm mà không biết mệt mỏi. Ngồi bệnh nhân
đến chữa trị, cịn có những người đến nghe đạo lý xin thơ bài. Trong những lời

16


thuyết giáo có ẩn ý nội dung tiên tri thời cuộc, thức tỉnh lịng người ăn năn cải
hóa và kêu gọi con người làm điều thiện tránh điều ác.
Năm 1939, nhận thấy thời cơ đã đến, ngày 18/5/1939 Huỳnh Phú Sổ
chính thức mở đạo để dẫn dắt người đời tu:
“Ngày nay Điên mở Đạo lành
Khắp trong lê thứ được rành đường tu”[18, tr. 31]
Để người dân hiểu được đạo của mình thì Ơng đã dùng nhiều cách
khác nhau, khi thì giả điên giả khùng, giả đui mù, giả làm người tàn tật, thậm

chí giả làm con gái… và đi nhiều nơi để truyền đạo:
“Khùng dạy dân chẳng dám nghỉ ngơi
Đi chẳng kể tấm thân già cả” [18, tr. 58]
Xã hội đang ở thời Hạ Nguyên nên khắp nơi xảy ra binh đao loạn lạc,
đạo đức thì suy đồi, tội ác khắp nơi, kẻ làm hiền thì ít mà người tàn bạo thì
nhiều. Muốn dự hội Long Hoa để sống đời Thượng Nguyên thì phải lo tu
niệm đặng chầu Phật Tiên:
“Đời cịn chẳng có bao lâu
Rán lo tu niệm đặng chầu Phật Tiên” [18, tr. 28]
Muốn thế thì trong cuộc sống khơng nên tiêu xài lãng phí, phải tiết
kiệm, khơng khinh khi kẻ khác, không giành giựt bon chen, không tranh đấu
thiệt hơn gây gổ với mọi người. Con cái thì phải ngoan và hiếu kính với cha
mẹ, đừng vì bạc tiền mà bỏ nghĩa nhân, tránh xa rượu chè, cờ bạc. Tất cả
những điều này đều phù hợp với đạo đức và truyền thống của dân tộc ta, đó là
uống nước nhớ nguồn; trọng tình trọng nghĩa; đồn kết u thương nhau.
Điều này đã trở thành nét văn hóa độc đáo và ăn sâu vào nếp nghĩ của con
người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử, nó đã
được hun đúc và giữ gìn từ đời này qua đời khác, vì thế phải “rán giữ gìn
phong hóa nước nhà”. Để người dân hiểu được đạo lí đó thì có khi Huỳnh Phú

17


Sổ ở Cao Lãnh, khi thì ở Gia Định, rồi Cần Thơ… mặc cho người đời lắm lúc
khinh khi, chế diễu, chọc ghẹo nhưng vì thương xót chúng sinh “nên khổ lao
Khùng khơng có nại, miễn cho đời hiểu đặng đạo mầu” [18, tr. 59]
Với việc xuất hiện của ông Huỳnh Phú Sổ trong bối cảnh người nông
dân đang chới với trong cảnh một cổ hai tròng, người dân bế tắc hoàn toàn về
mặt tinh thần và đang chịu sự xáo trộn mãnh liệt về nhiều mặt, ý thức hệ Nho
giáo khơng cịn đủ mạnh để lập lại kỷ cương của xã hội, Lão giáo với những

huyền bí cảnh tiên cũng không đem lại an lạc cho người dân, Phật giáo được
xem là một tôn giáo của dân tộc bị thực dân chèn ép nhiều bề, mặc dù chấn
hưng nhưng vẫn chưa phát huy được vai trị của mình trong cơng việc hộ quốc
an dân, đạo Thiên Chúa thì q xa lạ với người dân. Cộng với việc đói kém,
bệnh dịch hồnh hành thì tư tưởng của ơng Huỳnh Phú Sổ đã đáp ứng được sự
bức xúc của đa số người dân miền Tây Nam Bộ bấy giờ.
Như vậy, với không gian sinh tồn ưu đãi của thiên nhiên, đồng ruộng
mênh mông nhiều sông rạch, người dân Nam Bộ lại chung sống với nhiều dân
tộc khác nhau như người Chăm, người Hoa, người Khơ Me… nên đã tiếp thu
nhiều yếu tố của các nền văn hóa khác nhau. Do đó, người dân Tây Nam Bộ
có một bản sắc độc đáo về cá tính. Họ có tư duy mở, phóng khống, chân thật,
thoải mái, bộc trực, yêu thiên nhiên, sống tình cảm, đạo nghĩa…với những cá
tính đó đã góp phần tạo nên nét riêng trong việc hình thành các Đạo giáo ở
Nam Bộ nói chung, trong đó có PGHH nói riêng.
1.1.2 Qúa trình tồn tại và phát triển của Phật giáo Hòa Hảo
Sau khi chọn ngày 18 tháng 5 năm 1939 làm ngày khai đạo. Huỳnh Phú
Sổ tiếp tục chữa bệnh và thuyết giảng, tuy đã gây được niềm tin ở một số
người nhưng chưa có pháp mơn tu hành là điều mà những người tu hành cần
phải có, để nương theo đó mà tu học. Do đó, Huỳnh Phú Sổ đã chăm chú vào
việc viết Sấm Giảng để trình bày và phổ truyền giáo pháp của mình. Tác

18


phẩm phần lớn thuộc loại văn vần, nhằm để cho hạng “dân quê ít học, dễ đọc
và dễ nhớ” [41, tr. 34]
- Quyển thứ nhất: Sấm giảng khuyên người đời tu niệm, bao gồm 912
câu viết vào năm 1939 tại Hòa Hảo.
- Quyển thứ hai: Kệ dân của người khùng, gồm 476 câu, viết tại Hòa
Hảo ngày 12 tháng 9 năm 1939.

- Quyển thứ ba: Sấm giảng, gồm 612 câu, viết tại Hòa Hảo năm 1939.
- Quyển thứ tư: Giác mê tâm kệ, gồm 846 câu, viết tại Hòa Hảo năm 1939.
- Quyển thứ năm: Khuyến thiện, gồm 756 câu, viết tại Chợ Quán năm 1941.
- Quyển thứ sáu: Những điều sơ lược cần biết của kẻ tu hiền, viết vào
năm 1945 tại Sài Gịn, theo lối văn xi.
Trong thời kỳ này, Huỳnh Phú Sổ đã thu hút được nhiều tín đồ, điều đó
có thể nguy hại cho chế độ thực dân thống trị, nên bọn thực dân quyết định
dời ông đi nhiều nơi như Châu Đốc, Sa Đéc, Cần Thơ, Bạc Liêu, Sài Gòn.
Nhưng đi tới đâu Huỳnh Phú Sổ cũng gây dựng được uy tín và tập hợp được
số đông quần chúng. Mặc cho Pháp ngăn cấm và cho mật thám theo dõi
Huỳnh Phú Sổ vẫn tiến hành chữa bệnh cho dân và thuyết giảng Đạo của
mình. Đặc biệt trong thời gian ở Bạc Liêu, Huỳnh Phú Sổ đã sáng tác rất
nhiều bài vở, nhất là lối tản văn, giải bày về giáo lý nhà Phật, như thập nhị
nhân duyên, tứ diệu đế… chỉ tính riêng năm 1945, Huỳnh Phú Sổ đã đi
khoảng 107 địa điểm khác nhau ở các tỉnh Miền Tây để diễn thuyết kêu gọi
mọi người ủng hộ nạn đói ở Miền Bắc, kêu gọi chống ngoại xâm và khuyếch
trương tinh thần yêu nước. Khi Nhật nhảy vào Đơng Dương, người Nhật nhận
thấy PGHH có một khối tín đồ đơng đảo, có thể lợi dụng được trong công
cuộc hạ Pháp nên đã tranh giành vị giáo chủ của PGHH với Pháp. Ảnh hưởng
của Huỳnh Phú Sổ trong khối tín đồ là rất lớn, được khối tín đồ tin và ủng hộ.

19


Vì vậy, trong giai đoạn này PGHH phát triển mạnh mẽ, giáo lý, lễ nghi được
thịnh hành và số tín đồ đơng.
Năm 1942, khi được đưa về Sài Gịn Huỳnh Phú Sổ mới lo sắp xếp lại nội
bộ, đó là việc tổ chức ban trị sự. Mặc dù gọi là ban trị sự nhưng về tổ chức chưa
dựa vào điều lệ hay nội quy nào. Tuy vậy, Huỳnh Phú Sổ cũng đã có ý niệm về
hình thức ban trị sự gồm có một Hội Trưởng, một Phó Hội Trưởng, một Thư ký,

một Thủ bổn, một viên tổ chức, một viên liên lạc, một viên tuyên truyền, một số
kiểm soát và cố vấn. Sau khi chỉnh đốn xong cơ cấu cấp tỉnh, Huỳnh Phú Sổ mới
nghĩ tới chỉnh đốn sắp xếp cơ quan trung ương. Ban trị sự trung ương do Huỳnh
Phú Sổ giữ chức hội trưởng, ông Lương Trọng Tường giữ chức thư ký, ngồi ra
cịn một số chức vụ khác trong ban trị sự trung ương. Ở đây Huỳnh Phú Sổ tập
hợp một số người như Lê Trọng Tường, Lê Quang Liêm, Trần Văn Soái (Năm
Lửa), Hồ Nhật Tân tăng cường hoạt động chính trị, tổ chức vũ trang.
Năm 1945, thấy cảnh nhân dân lầm than, nước nhà nguy biến Huỳnh
Phú Sổ đã đứng lên bảo vệ quốc gia và cứu nguy dân chúng, thành lập “Phật
giáo liên hiệp hội” để đoàn kết Phật giáo và “Việt Nam Độc lập vận động hội”
để dành lấy độc lập cho nước nhà. Sau ngày quân Nhật đầu hàng, đồng bào ta
đang lo sợ cảnh thù trong giặc ngồi thì Huỳnh Phú Sổ liên hiệp với các Đảng
phái tôn giáo để thành lập “Mặt trận quốc gia thống nhất” chống giặc ngoại
xâm. Mặt trận này đã sát nhập với “Mặt trận Việt minh” mà chính Huỳnh Phú
Sổ là đại diện đầu tiên ở miền Nam Việt Nam. Sau đó “mặt trận quốc gia liên
hiệp” được thành lập và sau khi tổ chức này giải tán thì các thủ lĩnh bèn thành
lập “liên hiệp quốc dân đồng bào” để lãnh đạo cuộc kháng chiến chống pháp.
Năm 1946, để giữ mối đoàn kết trong nhân dân, Huỳnh Phú Sổ đã chấp
nhận tham gia Ủy ban hành chính với tư cách Ủy viên ban kháng chiến. Ơng
liên kết các chiến sỹ quốc gia với tín đồ Hòa Hảo để thành lập “Mặt trận Dân
chủ xã hội Đảng” (gọi tắt là Đảng dân xã). Đảng này chủ trương công bằng xã

20


hội và dân chủ hóa. Đồng thời Huỳnh Phú Sổ cũng cử người ra hải ngoại,
đoàn kết các nhà “cách mạng quốc gia lưu vong” để thành lập “Mặt trận
thống nhất tồn quốc”. Mặc dù có lịng u nước, nhưng đường lối thực thi
của của Huỳnh Phú Sổ có nhiều điểm đi ngược lại với đường lối cách mạng
dân tộc dân chủ của Đảng ta.

Sau sự kiện ngày 16/ 4 /1947 ông Huỳnh Phú Sổ mất ở Đốc Vàng (nay
thuộc xã Tân Thạnh, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp). Lợi dụng sự việc
này bọn xâm lược Pháp và tay sai kích động những tín đồ Hịa Hảo q khích
tạo sự chia rẽ, hận thù giữa Hòa Hảo và Việt Minh, gây nhiều khó khăn cho
cách mạng và kháng chiến. Pháp tăng cường vũ trang cho Hòa Hảo, lập các
căn cứ chống lại kháng chiến, tiêu biểu như: Lê Quang Vinh (Ba Cụt) vùng
Long Xuyên; Trần Văn Soái (Năm Lửa) vùng Cần Thơ; Lâm Thành Nguyên
(Hai Ngoán) vùng Châu Đốc; Nguyễn Giác Ngộ vùng chợ Mới – Long
Xuyên. Những năm 1946, 1947, 1948 lực lượng vũ trang Hòa Hảo phát triển
mạnh với khẩu hiệu: “Cứu nước, chống cộng, giữ đạo, thờ thầy”, tổ chức
nhiều cuộc tấn công vào cơ sở kháng chiến ở đồng bằng sông Cửu Long, gây
thiệt hại cho cách mạng.
Từ 1965 – 1975 nội bộ PGHH tranh giành ảnh hưởng để tạo điều kiện
thực hiện các tham vọng cá nhân, mâu thuân giữa các phe phái gay gắt dẫn
đến năm 1968 PGHH chính thức phân hóa thành hai hệ phái đối lập nhau, đó
là Phái Lương Trọng Tường và phái Nguyễn Duy Hinh. Trong lúc phái
Lương Trọng Tường và Phái Nguyễn Duy Hinh ra sức chống đối nhau thì
trong phái của Lương Trọng Tường, một thế lực khác dần lớn mạnh để đến
tháng 8 /1972 ra đời thêm một hệ phái mới, đó là hệ phải của Lê Quang Liêm.
Từ khi có thêm hệ phái thứ ba, mâu thuẫn nội bộ PGHH ngày càng sâu sắc,
nhất là giữa phái Lương Trọng Tường và Lê Quang Liêm, không chỉ bài xích
mà cịn thanh tốn lẫn nhau. Trong lúc nội bộ giáo hội bị phân hóa sâu sắc,

21


các phe nhóm Hịa Hảo ngồi giáo hội cũng nổi lên hoạt động tranh giành tín
đồ, gây ảnh hưởng để tìm kiếm lợi ích chính trị, kinh tế. Tiêu biểu là nhóm
của Đức Hồi Sanh, Nguyễn Long Châu, Mai Văn Dậu…Cuộc tranh dành
quyền lực, địa vị, thanh tốn, bài xích lẫn nhau giữa các phe phái PGHH chỉ

dừng lại khi lực lượng cách mạng tiến hành tổng khởi nghĩa mùa xuân năm
1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đảng Dân Xã tan rã, Ban trị
sự giải tán, tín đồ Hòa Hảo trở về với cách tu hành giản dị, tu tại tâm, trở lại
tìm kiếm chính mình, để cảm nhận và thực hành những điều Giáo Chủ đã dạy.
Trong khoảng thời gian này đất nước cũng hết sức khó khăn, vừa thốt khỏi
chiến tranh, lại vừa mới bắt đầu xây dựng xã hội mới, người nông dân luôn là
người bị nhiều thiệt thịi, nhưng cũng chính họ đã giúp đất nước dành được
độc lập và cùng với nhân dân cả nước góp phần xây dựng quê hương đất
nước. Trong những nỗ lực đó, có sự đóng góp của nơng dân Hịa Hảo.
Tháng 6 năm 1999, Ban Tơn giáo chính phủ đã ra quyết định cơng nhận
PGHH là một trong các tơn giáo chính thức được hoạt động ở Việt Nam. Một
ban đại diện được lựa chọn để chăm lo công việc chung của Đạo, kinh sách
được in ấn, được tổ chức các ngày lễ trọng, được thờ cúng và thực hành các
nghi thức thờ cúng. PGHH đã tổ chức ba kỳ đại hội: Đại hội lần thứ nhất
được tổ chức vào tháng 5 năm 1999; Đại hội lần thứ hai được tổ chức vào
tháng 6 năm 2004 và Đại hội lần thứ ba được tổ chức vào tháng 12 năm
2009. Với việc kiện toàn tổ chức, bao gồm Ban Trị sự 2 cấp: cấp toàn đạo và
cấp cơ sở. Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo là tổ chức đại diện hợp
pháp duy nhất của đồng bào theo Phật giáo Hòa Hảo (27 thành viên). Theo
Hiến chương mới sửa đổi, bổ sung của Phật giáo Hòa Hảo nhiệm kỳ 3 (2009
– 2014), ở các tỉnh có đơng tín đồ PGHH cịn được thành lập Ban Đại diện
Phật giáo Hoà Hảo tỉnh (trước đây gọi là Đại diện tỉnh).

22


Hiện nay, cùng với xu hướng mở cửa và đổi mới của Đảng và Nhà
nước, người nơng dân nói chung và người nơng dân Nam Bộ nói riêng có điều
kiện phát triển. Người tín đồ PGHH cũng đã khép lại lịch sử, chăm lo sản xuất
và sinh hoạt tôn giáo theo đúng pháp luật.

1.2 Giáo lý cơ bản của Phật giáo Hịa Hảo
PGHH mượn danh Phật giáo nhưng khơng dùng giáo lí chính thống của
Phật giáo, chủ yếu dựa vào hình thức tín ngưỡng dân gian, các câu sấm giảng
của Trạng Trình để thu hút quần chúng vào đạo, hứa hẹn “đấng minh vương”
ra đời mới có đủ quyền năng cứu dân độ thế, mới có thể cứu vớt họ ra khỏi
cuộc đời đau khổ, bế tắc. Dựa vào phương pháp đạo đức truyền thống của dân
tộc, Huỳnh Phú Sổ khuyên tín đồ ăn ngay ở lành, ra sức làm những việc từ
thiện, bài xích tham ơ, đả kích bọn đồng bóng mê tín…
Ngay sau khi khai sáng PGHH, song song với việc thuyết giáo, trị bệnh
cứu người, Huỳnh Phú Sổ còn sáng tác Thi văn, viết kệ giảng khuyên người
đời tu niệm, gọi chung là giáo lí, trong đó nổi bật là tư tưởng Học Phật Tu
Nhân. Điều này được khẳng định: “toàn thể trong đạo chúng ta thuộc hạng tại
gia cư sĩ, học phật tu nhân vậy” [18, tr. 146].
Tư tưởng học phật tu nhân được Đoàn Văn Huyên (pháp danh Minh
Huyên) khai sáng ở đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và được Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ
kế thừa và phát triển. Học Phật tu nhân cốt để đào tạo nên người hiền đức. “Học
Phật là nhằm “vẹt phá màn vơ minh che mờ căn trí”, hầu mở mang trí tuệ. Cịn
Tu Nhân là trau sửa phẩm hạnh để thành người chân chính” [23, tr. 43]
Trong triết thuyết Tam nguyên kỳ Hoà Hảo quan niệm rằng, sự biến
thiên tuần hoàn theo luật định qua ba cõi: Thượng - Trung - Hạ ngun. Cịn
buổi sinh thời, khi ơng đứng ra lập đạo thì nhân loại vũ trụ càn khơn đang ở thời
kỳ cuối của Hạ nguyên và ngày tận thế khơng cịn xa nữa. Muốn dự hội Long Hoa
thì con người cần phải “học phật tu nhân” để trở thành người có đạo nhân.

23


×