Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thời gian và không gian nghệ thuật trong sử thi ramayana của ấn độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 81 trang )

Đại học Quốc gia Hà Nội
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Lê Thị Bích Thủy

Thời gian và không gian nghệ thuật trong sử
thi Ramayana của Ấn Độ
Luận văn ThS. Văn học: 60 22 30
Tác giả: Lê Thị Bích Thủy
Nguyễn Đức Ninh người hướng dẫn
Chủ đề: Nghiên cứu văn học; Sử thi; Văn học Ấn Độ

Năm – 2010

1


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa của đề tài............................................................................... ...... 2
2. Mục đích nghiên cứu...................................................................................3
3. Lịch sử vấn đề..............................................................................................3
4. Giới hạn vấn đề và văn bản sử dụng........................................................14
5. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................15
6. Cấu trúc của luận văn...............................................................................15
CHƯƠNG 1: SỬ THI VÀ SỬ THI RAMAYANA CỦA ẤN ĐỘ.
1.1. Vấn đề thể loại sử thi................................................................................16
1.2. Sử thi Ramayana của Ấn Độ....................................................................21
CHƯƠNG 2: THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
2.1. Khái niệm về thời gian nghệ thuật......................................................... 36
2.2. Thời gian nghệ thuật trong sử thi Ramayana của Ấn Độ ....................... 38


2.2.1. Thời gian trần thế .................................................................... 38
2.2.2. Thời gian định mệnh............................................................. ...43
2.2.3. Thời gian chiến tranh................................................................. 58
CHƯƠNG 3: KHƠNG GIAN NGHỆ THUẬT.
3.1. Khái niệm về khơng gian nghệ thuật..................................................... 62
3.2. Không gian nghệ thuật trong sử thi Ramayana của Ấn Độ......................62
3.2.1. Không gian thế giới trần gian......................................................62

2

Trang


3.2.1.1. Không gian kinh đô........................................................63
3.2.1.2. Không gian núi rừng .....................................................65
3.2.1.3. Không gian chiến địa.....................................................71
3.2.2. Không gian tâm linh....................................................................81
3.2.3. Không gian tình yêu....................................................................87
Kết luận.................................................... ......................................................95
Tài liệu tham khảo.........................................................................................97
PHẦN MỞ ĐẦU
1- Ý nghĩa của đề tài:
1. Trong tiến trình vận động và phát triển không ngừng của văn học nhân loại, văn học
Ấn Độ có một vị trí đặc biệt. Đó là một trong những nền văn học có bề dày truyền thống hàng
ngàn năm lịch sử với những thành tựu đặc sắc, trở thành di sản tinh thần chung của nhân loại.
Từ rất sớm văn hoá, văn học Ấn Độ đã có sự lan toả, ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn học nhiều
nước trên thế giới, trong đó Đơng Nam Á là khu vực chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất, rõ nét nhất.
Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây đã xem khu vực văn hố Đơng Nam Á là “miền ngoại Ấn”,
“Ấn Độ ngồi sơng Hằng”. Trong tác phẩm Lịch sử cổ các quốc gia Hinđu hố ở Viễn đơng”, G.
Coedes đã gọi khu vực Đông Nam Á là “một cái nền chung cho tồn bộ Châu Á gió mùa dưới một

lớp vécni Hinđu”. Những nhận xét giàu hình ảnh trên đây đã phần nào cho thấy mức độ ảnh
hưởng sâu đậm mà văn hoá, văn học Ấn Độ mang lại cho khu vực này trong suốt nhiều thế kỷ.
Khu vực Đông Nam Á nằm trên đường giao lưu văn hố Đơng – Tây, từ rất sớm (vào khoảng đầu
công nguyên) Đông Nam Á đã có những cuộc giao lưu, tiếp xúc tự giác với văn hoá Ấn Độ qua
những thương gia, những nhà truyền giáo. Cũng từ thực tế lịch sử đó, ngày nay trong một bối
cảnh mới của thời đại, việc nghiên cứu văn hoá văn học Ấn Độ thực sự đã trở thành một địi hỏi
cấp thiết, khơng chỉ để hiểu Ấn Độ mà còn để hiểu Việt Nam trong những yếu tố nội tại, và cả
trong những cuộc giao lưu tiếp xúc với văn hoá, văn học nhiều nước trên thế giới, trong đó có
Ấn Độ.
2. Trong kho tàng văn học Ấn Độ, hiếm có tác phẩm nào lại có sự ảnh hưởng sâu, rộng
và lâu bền ở Đông Nam Á và Châu Á như các sử thi Ramayana, Mahabharata.Cũng như
Mahabharata, sử thi Ramayana được coi là thánh kinh của người Ấn Độ, là nền tảng đạo đức
3


của Hinđu giáo, là bộ sử thi đồ sộ của nhân loại. Sử thi Ramayana bao chứa một thời gian dài,
một khơng gian kz vĩ, một tình sử ly kz. Vậy nên nghiên cứu thời gian và không gian nghệ thuật
trong sử thi Ramayana có { nghĩa góp phần hiểu biết sâu hơn, toàn diện hơn những đặc trưng
của sử thi nói chung, sử thi Ấn Độ nói riêng. Mặt khác đề tài luận văn ở mức độ nhất định, góp
phần bổ sung chi tiết hơn cho cơng việc giảng dạy văn học Ấn Độ trong các trường của Việt Nam,
càng tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác, hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và Ấn Độ
đương đại.
2. Mục đích nghiên cứu:
Với { nghĩa khoa học nêu trên, luận văn có mục đích làm sáng tỏ những đặc điểm tạo
dựng thời gian và không gian nghệ thuật nhằm làm nổi bật hình tượng người anh hùng trong sử
thi Ramayana.
3. Lịch sử vấn đề:
Các anh hùng ca (hay sử thi) ra đời phản ánh q trình đồn kết các tộc người thành
cộng đồng lớn, là buổi bình minh về đời sống chính trị của dân tộc - quốc gia. Nó chú trọng đến
việc thể hiện khát vọng chiến thắng thiên nhiên và các lực lượng thù địch của con người cổ đại.

Ước mơ đó được hố thân thành những hình tượng nhân vật l{ tưởng (nhân vật anh hùng)
trong các thiên trường ca. Trong giới hạn của vấn đề nghiên cứu, qua những cơng trình viết về
sử thi Ramayana trên thế giới và ở Việt Nam chúng tôi tập hợp được những { kiến sau đây:
3.1. Trên thế giới:
Nghiên cứu sử thi Ramayana có khá nhiều cơng trình, nghiên cứu nhiều bình diện nhiều
khía cạnh khác nhau:
Vào những năm 30 của thế kỷ XIX, với tác phẩm Mỹ học, Hêghen đã có những đóng góp
hết sức quan trọng cho l{ luận sử thi. Trong tác phẩm đồ sộ này, ông đã dành hẳn phần lớn
chương ba- Các loại thơ - để nghiên cứu sử thi. Tác giả đã chỉ ra những đặc sắc của hình tượng
nhân vật sử thi Ấn Độ và theo ông, nhân vật của sử thi Ấn Độ và Ramayana nói riêng có những
đặc điểm nửa thần linh, nửa trần tục, đậm màu sắc tơn giáo, tạo cho các sử thi này có tính chất
“thánh kinh”.
Phần nhiều các cơng trình đều hướng vào nghiên cứu sự thể hiện các nhân vật sử thi,
mơ hình nhân vật sử thi, tính chất tâm linh và tơn giáo của sử thi Ấn Độ. Có thể điểm qua một số
cơng trình viết về các vấn đề trên như:
4


Trong cuốn “Lịch sử văn minh Ấn Độ” sử gia người Mỹ Will Durant đã chỉ ra tính chất l{
tưởng cao siêu và hoàn thiện của các nhân vật trong sử thi, trở thành khuôn mẫu để giáo dục,
bồi bổ cho tâm hồn người đọc: Tác phẩm đã “diễn tả những tình cảm đẹp đẽ, một bổn phận cao
thượng của đàn ơng và đàn bà và có những bức hoạ sinh độngđạt tới mức tả chân. Rama và Xita
hoàn hảo quá, khó mà có thực được”.
Will Durant đã nhấn mạnh tính chất thánh thư của sử thi Ramayana. Đặc tính này thể
hiện cụ thể ở các nhân vật với những phẩm chất siêu phàm, phi thực. Từ những con người có
thực trong lịch sử, bước vào sử thi Rama và Xita trở thành ước mơ của Ấn Độ về những hình
mẫu đạo đức l{ tưởng.
Trong cuốn “Hợp tuyển văn học Ấn Độ” John. B. Alfonso Karkala đã chỉ ra rằng các nhân
vật trong sử thi là phương tiện để các tác giả của nó phát ngơn cho thuyết nghiệp báo Karma:
Vamiki “thêu dệt” nên sử thi mang dáng dấp l{ tưởng, đạo đức gia đình, nghiệp báo Karma. Nhà

thơ mơ tả những mối quan hệ gia đình l{ tưởng mà ở đó con trai coi lời nói của cha mẹ như là
mệnh lệnh, vợ một lòng một dạ chung thuỷ với chồng, những người em trai trung thành với
truyền thống, khơng hề thèm muốn ngai vàng của anh. Do đó, những nhân vật buộc phải thực
hiện một cách liên tục những lựa chọn đạo đức trong những hành vi của họ.
Bài viết của Pou Saveros “Những chỉ dẫn về dấu ấn Phật giáo trong Ramayana
Cămpuchia” là một khảo luận sâu hơn về vấn đề chuyển đổi chiều sâu tâm linh của sử thi
Ramayana Ấn Độ với tư tưởng Bàlamôn sâu sắc đã mang tư tưởng Phật giáo cùng với những cơ
sở văn hoá xã hội của Cămpuchia thời đại lúc bấy giờ. Tác giả bài viết đã đi sâu phân tích tỉ mỉ để
thấy được từng văn bản đã chịu sự ảnh hưởng của điều kiện văn hoá - xã hội như thế nào. Tác
giả đã tìm thấy những nét khác biệt về tư tưởng tôn giáo giữa hai văn bản.
Trong cơng trình nghiên cứu “Ramayana – Một cuộc hành trình” tác giả Ranchor Prime
đã dành rất nhiều cơng sức trong ba mươi năm để nghiên cứu tại Ấn Độ và mười lăm năm dịch
sử thi Ramayana ra tiếng Anh. Cuốn sách này là một sự khảo cứu công phu sử thi Ramayana về
cội nguồn, chiều sâu tâm linh và những ảnh hưởng của nó tại Ấn Độ.
Tác giả Richard Lannoy trong cuốn sách “Cây biết nói” cũng đã đề cập tới sử thi
Ramayana như một bộ phận không thể tách rời của văn hoá và xã hội Ấn Độ. Tác giả đã trình
bày những hiểu biết sâu sắc của mình về Ấn Độ, nhất là về tơn giáo.
Georges Dumézil trong “Huyền thoại và sử thi” đã đưa ra những nhận định rất xác đáng
về sử thi nói chung và về Mahabharata và Ramayana nói riêng. Ơng đã phân tích cấu trúc sử thi
5


nói chung và sử thi Mahabharata nói riêng như ba chức năng trong sử thi các dân tộc Ấn - Âu,
mơ hình nhân vật sử thi Ấn - Âu (một anh hùng – một phù thuỷ và một ông vua)…Tác giả chỉ ra
kết cấu này có trong nhiều thể loại của văn học và khiến cho các dân tộc trở nên gần gũi nhau
trong cách họ tư duy. Tác giả cũng đưa ra l{ do khiến cho các sử thi của một dân tộc này được
chấp nhận ở một dân tộc khác và đơi khi giữa các sử thi có kết cấu tưởng như giống nhau lại
chẳng có mối quan hệ họ hàng nào hết: chúng chỉ giống nhau về mặt loại hình mà thơi.
Tác giả David. R. Kinsley trong cuốn “Hindu giáo- một bức tranh phối cảnh văn hoá” đã
nhận thấy độ chênh lệch giữa hình tượng Rama và hình tượng các vị quốc vương được quy định

trong sách Luật được thịnh hành lúc bấy giờ. Trong các sách Luật, để duy trì trật tự xã hội, đảm
bảo sự công bằng, vua cần phải sử dụng rộng rãi các biện pháp trừng phạt kể cả cách dùng đến
sự xảo trá, tàn bạo! Rama lại không chấp nhận các phương tiện đó cho dù nó phục vụ cho mục
đích đúng đắn. Chính điều đó đã khiến cho Rama trở thành “một ông vua vĩ đại”.
Hơn nữa, Rama cũng là “người bảo vệ vĩ đại” của trật tự phù hợp trong mối quan hệ
giữa người với người. Con phải vâng lời cha, thần dân phải tuân lệnh vua. “Thái độ phục tùng là
cách tổ chức của những mối quan hệ trật tự giữa con người, từ bỏ chúng thì trên thực tế, trật tự
xã hội có thể bị huỷ hoại”. Bởi vì “một xã hội trật tự đi đơi với những mối quan hệ trật tự cá
nhân”.
Tác giả I. D. Xêbrriacôp trong cuốn “Khảo luận về văn học Ấn Độ” đã nghiên cứu nhiều
vấn đề của sử thi Ramayana. Trong đó tác giả đã đặc biệt lưu { đến vấn đề dị bản. Tác giả đã
đánh giá cao giá trị cổ điển của sử thi này: Ramayana từ khá sớm đã trở thành kiểu mẫu, chuẩn
mực về văn học để đánh giá các tác phẩm văn học, trở thành tiêu chuẩn để các nghệ sĩ hướng
tới.
Trong tác phẩm “Sử thi cổ đại Ấn Độ”, nhà nghiên cứu văn học Nga P. A. Grinser đã nhấn
mạnh tính chất l{ tưởng của nhân vật chính là hồng tử Rama: Rama xuất hiện cũng giống như
Krisna, một trong số những hoá thân của vị thần tối cao Visnu, đầu thai xuống trần để giệt trừ
cái ác- được nhân cách hố trong hình tượng vua quỷ Ravana…” song Rama hành động trong sử
thi không phải như một vị thần mà như một vị vua l{ tưởng, một chiến sĩ l{ tưởng trước hết
tuân theo quy định của luật lệ, đạo đức…”. Tiếp đó tác giả phân tích tiếp những lập luận của
Rama: Những lời này nằm trong hình thức bổn phận rèn luyện cá nhân của con người hơn là
những quan niệm của bổn phận có tính chất chung, góp phần cho sự hài hồ cuối cùng của cõi
trần, chống lại những gì thuộc về lợi ích cá nhân trong nghĩa vụ cơ bản của một Kastrya. Ở đây
tác giả đã nhận thấy độ chênh lệch giữa bổn phận Kastrya với l{ tưởng phổ cập trong nhân vật
6


Rama. Có những trường hợp khi bổn phận Kastrya và chân l{ khơng trùng hợp thì nhân vật cúi
đầu phục tùng bổn phận chứ không thực hành theo chân l{.
Trong cuốn “Văn học cổ đại Phương Đông” các tác giả lại nhìn thấy trong các nhân vật

của sử thi Ramayana thể hiện tính chất bất di bất dịch của sự phân chia đẳng cấp: “Tuy nhiên
trong quá trình đến với chúng ta, truyền thuyết này dã được tiếp nhận trong hình thức một
Ramayana khác, chứa đựng những tri thức muộn hơn của những người đại diện cho tầng lớp
thống trị ở Ấn Độ cổ đại. Sử thi khẳng định tính chất bất di bất dịch của sự phân chia đẳng cấp,
sự lệ thuộc của đẳng cấp dưới vào đẳng cấp trên theo lứa tuổi và địa vị (Rama tuân theo mệnh
lệnh của vua cha, đi đày một cách ngoan ngoãn), sự phục tùng của người vợ với chồng (l{ giải
bằng hành vi của Xita)”
Bên cạnh đó, các tác giả đề cập đến nhân vật thần linh cũng phản ánh sự phân biệt đẳng
cấp và bảo vệ cho chế độ đó: Trên những điện thờ nổi trội lên những vị thần lớn, những vị thần
chúa tể. Các đấng thần linh khác, ít sức mạnh hơn phục tùng họ. Các vị thần ngày nay hiện ra là
những người bảo vệ sự phân biệt đẳng cấp và giữ gìn trật tự đạo luật, tồn bộ hệ thống triết
học, tơn giáo tạo cho con người cái ảo giác mà nó khơng tồn tại thực trên thế giới.
Tác giả I. S. Rabinôvic trong cuốn sách “Bốn mươi thế kỷ văn học Ấn Độ” đã nhận xét về
các hình tượng nhân vật trong sử thi Ramayana: “ Nhân vật của Ramayana là những người giàu
có về tâm hồn. Rama là một chiến binh quả cảm, một vị vua anh minh. Xita là một người phụ nữ,
một người vợ l{ tưởng …Nàng yêu chồng hết mình. Nhân vật làm nên những kz tích phi thường,
sự hùng mạnh của họ là khơng có giới hạn”
Bên cạnh đó, tác giả I. S. Rabinơvic cũng đã đi sâu tìm hiểu nguồn gốc của sử thi
Ramayana và các nhân vật sử thi trong hiện thực lịch sử. Theo ơng thì tồn bộ hình tượng nhân
vật Rama gợi ra một hồi ức mơ hồ về bộ lạc Bắc Ấn trong cuộc hành binh tới những hịn đảo xã
xơi và sự chinh phục thổ dân ở đó mà người thủ lĩnh thổ dân được chú { tới là Ravana.
Tác giả cuốn “Đại cương lịch sử văn học Ấn Độ” cũng phân tích tính chất l{ tưởng của
hình tương nhân vật Rama ở nhiều góc độ, nhiều mối quan hệ khác nhau: Rama- một người anh
hùng l{ tưởng của sử thi này là sự hiện thân nổi tiếng của những đức tính: là một người con trai
ngoan ngoãn, một người chồng dịu dàng, trung thành với luật định, một chiến sĩ can đảm, coi
trọng danh dự, một người cầm quyền quốc gia anh minh, sáng suốt.
Nhưng { nghĩa sâu sắc hơn nhiều của hình ảnh Rama trước hết là một chiến sĩ chống lại
bất công mà hiện thân trong thiên sử thi này là quỷ vương Ravana, chiến thắng con quái vật ức
7



hiếp thiên hạ. Đích thực của đặc tính này khiến cho Rama trở thành người anh hùng được nhân
dân Ấn Độ yêu mến .
Đồng thời, hình ảnh người nữ anh hùng trong sử thi Ramayana là công chúa Xita đến
nay vẫn sống trong nhân dân, trở thành biểu tượng cho sự chung thuỷ của người phụ nữ và sự
hy sinh quên mình vì tình yêu.
Mặt khác, trên nền nghiên cứu sự ảnh hưởng sâu rộng của Ramayana ở khu vực Đơng
Nam Á, tác giả Thakur Upenda trong cơng trình nghiên cứu “Sử thi Ramayana ở Đông Nam Á” in
trong cuốn “Một vài phương diện về lịch sử và văn hoá Châu Á” ở phần mở đầu cơng trình, tác
giả đã nhấn mạnh sự ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Ấn Độ trên mọi mặt của văn hoá - xã hội
qua nhiều vùng đất của Đông nam Á cổ đại. Những ảnh hưởng này có thể trực tiếp từ Ấn Độ,
nhưng cũng có thể đi theo con đường gián tiếp từ các nước láng giềng. Tác giả đã trình bày
những biến thể khác nhau của sử thi Ramayana ở Đông nam Á về mặt văn bản: “Mặc dù cơ sở
ban đầu của câu chuyện có trong bản tiếng sanskrit vẫn được giữ nguyên một cách bền bỉ,
chúng ta có thể lướt qua hàng loạt những biến thể khác chịu trách nhiệm về sự ra đời của những
khổ thơ mới và những đoạn viết lại trong hầu hết các ngôn ngữ này, đưa lại những hình thức và
tình huống mới khơng tìm thấy trong nguyên bản tiếng sanskrit”. Tác giả đi sâu phân tích sự
khác biệt của sử thi Ramayana nguyên bản với các văn bản khác ở các nước Đông Nam Á và đã
chỉ ra căn nguyên gây nên sự ảnh hưởng sâu rộng đó: Điều tốt nhất và cao qu{ nhất trong
truyền thống Ấn Độ và những l{ tưởng xuyên suốt trước và sau, đang phát triển trong các nhân
vật Rama, Xita, Lakmana, Hanuman và những nhân vật khác. Rama trong số họ được tôn lên làm
vua với những phẩm chất l{ tưởng đến nỗi mà trong nhiều thế kỷ, anh ta được bảo vệ như là
hiện thân của Dharma.
Với quan niệm này của tác giả Thakur Upenda thì yếu tố cơ bản tạo nên sự ảnh hưởng
sâu rộng của sử thi Ramayana tới nền văn học khu vực Đơng Nam Á là nhân vật. Bởi các hình
tượng nhân vật này là sự kết tinh những phẩm chất cao qu{ trong truyền thống Ấn Độ và đó là
những l{ tưởng xuyên suốt từ quá khứ tới tương lai.
Cuốn sách “Ramayana qua con mắt của phương Tây” của nhà nghiên cứu chuyên về Thái
Lan là J.C. Shaw là một cách nhìn khác từ phía phương Tây về sự ảnh hưởng của sử thi
Ramayana ở các nước khu vực Đông Nam Á. Ông đã so sánh giữa Ramakiên của Thái Lan với sử

thi Ramayana của Ấn Độ và thừa nhận rằng văn bản Ramakiên của Thái Lan có nhiều tình tiết
khác với Ramayana của Valmiki và ông đã chỉ ra nguyên nhân là do các triều vua ở Thái Lan luôn

8


viết đi viết lại Ramakiên, nó chỉ là cái cớ, là cảm hứng để cho họ biểu lộ tài năng văn học của
mình mà thơi.
Một học giả Ấn Độ Khác là H.B.Sakar trong cuốn “Những mối quan hệ văn hoá giữa Ấn
Độ và các nước Đông Nam Á” đã đề cập đến sự di dân của người Ấn Độ tại Đông Nam Á như là
nguyên nhân của những ảnh hưởng về tơn giáo, ngơn ngữ và văn hố của Ấn Độ tại vùng này.
Đặc biệt trong chương 14, tác giả đã phân tích những ảnh hưởng của sử thi Ấn Độ đối với văn
học Wayang (rối bóng) tại Đơng Nam Á. Ngay phần đầu của cơng trình nghiên cứu, với tư cách là
một nhà sử học, tác giả đã bước đầu đề cập đến các con đường xâm nhập của sử thi Ramayana
vào Đông Nam Á nhưng vấn đề chủ yếu mà ông quan tâm là những ảnh hưởng của Ramayana
vào những văn bản phục vụ cho rối bóng tại các nước Đơng Nam Á.
Các cơng trình ở trên, tuy không trực tiếp bàn riêng về thời gian và không gian trong
Ramayana, song trong q trình phân tích và nhận xét của các học giả trên thế giới cũng phần
nào cho thấy khơng gian mơi trường văn hóa rộng lớn chứa đựng trong sử thi.
3.2. Việt Nam:
Văn học Ấn Độ nói chung và sử thi Ramayana nói riêng được chú { ở Việt Nam gần ba
chục năm nay mà người đặt nền móng đầu tiên cho sự nghiệp nghiên cứu văn hoá, văn học Ấn
Độ ở Việt Nam là nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh. Trong cuốn “Văn hoá Ấn Độ” và cuốn “Tìm hiểu
thần thoại Ấn Độ”, tác giả Cao Huy Đỉnh bên cạnh việc nhấn mạnh vẻ đẹp l{ tưởng của các nhân
vật sử thi cũng đã chỉ ra những mặt hạn chế của các hình tượng này: { nghĩa của hình tượng
Xita cũng giống quan niệm “người ta là hoa của đất” của người Việt Nam ta xưa. Theo truyền
thuyết hồng tử Rama chính là vị thần Visnu giáng thế làm nguqười để cứu vớt nhân laọi ra khỏi
vịng chiến tranh, tội lỗi và đau khổ. Hồng tử Rama là con người l{ tưởng của đạo Hinđu và của
đẳng cấp qu{ tộc. Nhưng mặt khác, hoàng tử Rama cũng là chàng dũng sĩ có tài, có chí, là ơng
vua anh minh, đức độ, có một tấm lịng yêu thương tha thiết. Rama là hình ảnh tập trung của

một vị vua sáng, phù hợp với yêu cầu đạo đức của nhân dân ở một mức độ nhất định trong lịch
sử xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Vai trị quyết định có tính chất đại biểu cho lực lượng
quần chúng ở đây là dũng sĩ khổng lồ tướng khỉ Hanuman, con trai vị thần Gió có sức khoẻ, có
tài, có mưu trí và đã giúp cho hoàng tử Rama chiên thắng quỷ vương Ravana.
Tác giả Lê Xuân Khoa trong cuốn “Nhập môn triết học Ấn Độ”, đã đưa vào cơng trình
nghiên cứu triết học của mình những tư tưởng triết học Ấn Độ qua hai sử thi lớn, có tầm khái
quát cao là sử thi Ramayana và sử thi Mahabharata. Khi nghiên cứu hai sử thi này tác giả đã
9


nhận thấy ở chúng những tư tưởng triết học Ấn Độ cao siêu, thâm trầm. Nhận định về giá trị
nghệ thuật và đạo đức của sử thi Ramayana, tác giả Lê Xuân Khoa cho rằng tính chất l{ tưởng
của các nhân vật và sự đấu tranh dằn vặt sinh động trong tâm hồn họ đã tạo cho tác phẩm sức
sống bất diệt. Hai sử thi Ramayana và Mahabharata đều đặc biệt ca ngợi một nền đạo đức l{
tưởng được xây dựng căn bản trên nền tảng là bổn phận và danh dự. Các hành động tốt đẹp của
các nhân vật chính đều được thực hiện ở mức độ tuyệt đối. Đó là những nhân vật ln ln là
những con người có “đầy đủ nhân tính, biết đau đớn khi hy sinh, biết nhớ thương khi ly biệt,
biết căm giận, oán hờn, yêu thương, tha thứ,…”
Tác giả Nguyễn Tấn Đắc cũng nhấn mạnh tính chất l{ tưởng của các nhân vật trong sử
thi Ramayana trong lời giới thiệu cho cuốn “Truyện cổ dân gian Ấn Độ”. Theo ơng, các nhân vật
chính diện đều hành động theo nguyên tác đạo đức có tính chất tơn giáo mà người Ấn Độ gọi là
Dharma, do đó họ trở thành hiện thân của Dharma.
Những cơng trình nghiên cứu văn học Ấn Độ nói chung và sử thi Ramayana nói riêng ở
Việt Nam ngày càng phong phú. Lần đầu tiên bộ sử thi gồm ba tập Ramayana ra mắt bạn đọc
Việt Nam vào năm 1988, do Phạm Thuỷ Ba dịch và Phó giáo sư Phan Ngọc giới thiệu, Nhà xuất
bản Văn học ấn hành. Trong lời giới thiệu, Phó giáo sư Phan Ngọc đã đưa ra một cái nhìn tồn
diện và sâu sắc về sử thi này. Đồng thời ông cũng khẳng định: “Rama gần ta vơ cùng vì chàng có
những “yếu đuối” của con người. “Chàng có thể từ bỏ ngai vàng nhưng khơng thể để mất người
yêu, chàng có thể vào sinh ra tử vì nàng nhưng khơng thể chấp nhận nàng khơng chung thuỷ”.
Bài “Thử bàn về một số nét của văn học Đông Nam Á” của giáo sư Nguyễn Đức Ninh

đăng trên tạp chí Văn học số 5/1983 là bài có nhiều { kiến trực tiếp bàn về vấn đề bản địa hố sử
thi Ramayana ở Đơng Nam Á. Các tác phẩm của Ấn Độ bằng con đường truyền miệng dã được
dân gian hoá theo đặc điểm dân tộc phù hợp với hồn cảnh của từng quốc gia. Tác giả cho rằng
vì dân gian hoá nên các tác phẩm văn học Ấn Độ đã biến dạng đi, mỗi nơi một khác, chỉ còn lại
cái gốc của Ấn Độ. Dựa trên Ramayana, ở Inđơnêxia có Sêri Rama, ở thái Lan có Rama Kiên,…Tác
giả cho rằng sự khác nhau giữa chúng là bởi đặc điểm dân tộc.
Phó giáo sư Võ Quang Nhơn trong bài viết “Qua sử thi, tìm hiểu mối quan hệ văn học
nghệ thuật giữa Đông Nam Á và Ấn Độ” (đăng trên Tạp chí khoa học - Đại học Tổng hợp Hà nội,
8/1990) đã đề cập đến sử thi Ramayana của Ấn Độ ở Đơng Nam Á. Ơng đã bước đầu tìm hiểu và
so sánh về đơi nét khác biệt giữa sử thi Ramayana và Pha Lặc Pha Lam ở Lào.

10


Phó giáo sư Lưu Đức Trung trong sách “Văn học Ấn Độ" đã nhận xét Rama là nhân vật
được xem là mẫu người l{ tưởng của đạo Hinđu và đẳng cấp vương công qu{ tộc, đồng thời thể
hiện khát vọng của nhân dân đương thời có một vị minh quân, một anh hùng tài ba lỗi lạc, dũng
cảm và đạo đức để bảo vệ đạo đức, hạnh phúc và công bằng cho xã hội. Cịn nhân vật nàng cơng
chúa Xita lại là mẫu người phụ nữ Ấn Độ cổ đại, một người vợ chung thuỷ, tiết hạnh, một người
con gái hiền từ, nhân hậu.
Về nghệ thuật sử thi Ramayana, tác giả viết: “Tác phẩm còn vẽ lên cảnh chiến trường ác
liệt, cung tên rào rào, đô thành bốc cháy, đất đá tung toé, người và quỷ quần nhau bằng nhiều
phép thuật thần kì, cùng với khí phách hào hùng, dũng cảm của những kẻ chiến thắng đã gây
nên sự hứng thú cho người đọc”.
Trên tạp chí Văn học nước ngồi số 2/1996, Nguyễn Văn Hạnh trong bài viết của mình
với tiêu đề “Tiếp cận sử thi Ramayana từ những đặc trưng thể loại” đã cho rằng khi phân tích
một tác phẩm văn học nói chung và sử thi Ramayana nói riêng cần phải tuân theo những đặc
trưng thể loại: Phân tích những nhân vật mà chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh cá tính nhân vật mà
bỏ qua tính chất quy phạm l{ tưởng của nhân vật, vơ hình chung đã “tiểu thuyết hoá sử thi”.
Trong bài viết “Ảnh hưởng của tôn giáo trong các sử thi Ấn Độ” đăng trên tạp chí Văn

hố dân gian số ra năm 1997, tác giả Đoàn Triệu Long đã đi sâu nghiên cứu những ảnh hưởng
của tôn giáo trong các sử thi Ấn Độ.
Trong bài viết này Đoàn Triệu Long cũng đã đi vào phân tích vai trị của thiên nhiên trong
sử thi Ấn Độ, đặc bịêt là thiên nhiên trong sử thi Ramayana: “Thiên nhiên đã thực sự hoá thân
vào cuộc sống của các nhân vật sử thi Ấn Độ, là một bộ phận khăng khít, khơng thể tách rời
được với con người” và “để l{ giải điều này…thì tơn giáo đóng một vai trị quan trọng khơng
nhỏ”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thừa Hỷ lại cho rằng giáo l{ của đạo Hinđu thấm sâu, lan rộng
trong nhân dân Ấn Độ là do nó đã hố thân vào trong các hình tượng nhân vật đáng kính, đáng
yêu. Trong tác phẩm “Ấn Độ qua các thời đại”, ơng viết: “Ramayana như tên gọi của nó, nói về
những kz tích của hồng tử Rama, một mẫu hình cổ điển của người anh hùng thuộc đẳng cấp võ
sĩ của Ấn Độ cổ đại. Rama đã vượt qua được tất cả các thử thách của thiên nhiên, những âm
mưu độc ác của con người và ma quỷ để giành lại người vợ thân yêu. Nhưng Rama đã bị quỵ ngã
trước sức mạnh hiểm độc của lịng ghen tng và sự nghi ngờ ám ảnh, ruồng bỏ người vợ trẻ.
Nàng Xita thánh thiện như được đúc từ một khối pha lê trong suốt của tình yêu. Hình ảnh tướng
11


khỉ Hanuman bên trong vóc hình xấu xí và dị dạng của loài vật lại ẩn giấu một trái tim còn thắm
đỏ hơn rất nhiều những trái tim người đời”.
Cũng viết về sử thi Ramayana, tác giả Nhật Chiêu trong “Câu chuyện văn chương
phương Đông” đã dành mối thiện cảm của mình cho nhân vật nữ là nàng cong chúa Xita, mượn
lời của Romesh Dutt và Krisan Chandro, ông đã hết lời ca ngợi vẻ đẹp, sự thiêng liêng, chất l{
tưởng của nàng công chúa Xita và khẳng định rằng: “Tình yêu của Rama và Xita là chủ đề của
thiên sử thi mê hoặc này”. Nhật Chiêu cũng cho rằng thiên nhiên trong sử thi Ramayana “đầy
sức sống, đầy tình yêu và nồng nàn nhục cảm”.
Nhìn lại qúa trình nghiên cứu ở những quy mô khác nhau trên thế giới và ở Việt Nam
trong phạm vi tài liệu mà chúng tơi có thể bao qt được có thể thấy, hầu hết các cơng trình
nghiên cứu, giới thiệu đều dừng lại ở việc trình bày những đặc điểm của nhân vật trong sử thi
Ramayana, chỉ ra những ảnh hưởng của sử thi Ramayana tới đời sống tinh thần của người dân

Ấn Độ và các nước trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc trong khu vực Đông Nam Á. Tuy cách nói
có khác nhau, nhưng các nhà nghiên cứu đều nhất trí cao khi cho rằng các nhân vật chính diện là
hồng tử Rama, cơng chúa Xita là những hình tượng nhân vât tuyệt đẹp của nhân dân Ấn Độ
thời cổ đại, thể hiện đựơc những ước mưo khát vọng của họ về những vị thủ lĩnh tài ba, sáng
suốt, đạo đức, vì lợi ích của cộng đồng. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra tơn giáo
Ấn Độ đã ảnh hưởng sâu đậm đến các nhân vật trong sử thi Ramayana. Các nhân vật chỉ là
phương tiện để tác giả phát ngôn cho giáo l{ Dharma của Ấn Độ giáo.
Như vậy, văn học Ấn Độ nói chung và sử thi Ramayana nói riêng đã được nhiều nhà
nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam quan tâm và nghiên cứu. Liên quan mật thiết với hình
tượng người anh hùng trong sử thi là khoảng không gian - thời gian, trong đó người anh hùng
thể hiện phẩm chất l{ tưởng của mình. Song các cơng trình nêu trên cịn ít bàn tới mơi trường
hành động của người anh hùng, tuy rằng đây đó các học giả có nhắc tới. Các { kiến của họ về tác
phẩm Ramayana là những gợi mở cần thiết để tác giả luận văn đi sâu trình bày rõ hơn vấn đề tổ
chức thời gian, không gian của tác phẩm.
4. Giới hạn vấn đề và văn bản sử dụng:
Để trở thành người anh hùng, nhân vật sử thi phải phá vỡ tính khép kín của thị tộc - bộ
lạc và hoạt động trong một môi trường rộng lớn. Môi trường rộng lớn ấy dung chứa thời gian và
không gian rộng lớn đủ để nhân vật sử thi thi thố tài năng và thể hiện tính cách. Luận văn chủ

12


yếu đi sâu khai thác bình diện tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật trong sử thi Ramayana
trong mối quan hệ với các nhân vật và các sự việc, các biến cố.
Văn bản gốc dùng để nghiên cứu là bản dịch gồm ba tập sử thi Ramayana do Phạm Thuỷ
Ba dịch, Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1988.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp phân tích, khảo sát sự xuất hiện của thời gian, không gian trong tác phẩm.
- Phương pháp phân tích loại hình: bám sát đặc trưng nghệ thuật của thời đại sử thi, thể
loại sử thi.

- Phương pháp tiếp cận hệ thống: tác phẩm nghệ thuật như một chỉnh thể thống nhất
giữa nội dung và hình thức.
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngồi phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Sử thi và sử thi Ramayana của Ấn Độ.
1.1. Vấn đề thể loại sử thi.
1. 2. Sử thi Ramayana của Ấn Độ.
Chương 2: Thời gian nghệ thuật.
2. 1. Khái niệm về thời gian nghệ thuật.
2. 2. Thời gian nghệ thuật trong sử thi Ramayana của Ấn Độ.
2. 2.1. Thời gian trần thế.
2. 2.2. Thời gian định mệnh.
2. 2.3. Thời gian chiến tranh.
Chương 3: Không gian nghệ thuật.
3. 1. Khái niệm về không gian nghệ thuật.
3. 2. Không gian nghệ thuật trong sử thi Ramayana của Ấn Độ.
13


3. 2.1. Không gian thế giới trần gian.
3. 2.2. Không gian bổn phận.
3. 2.3. Khơng gian tình u.
CHƯƠNG 1: SỬ THI VÀ SỬ THI RAMAYANA CỦA ẤN ĐỘ.
1.1. Vấn đề thể loại sử thi.
Cho tới thế kỷ XVIII, người Châu Âu và các nhà nghiên cứu văn học chỉ biết đến duy nhất
những sử thi Châu Âu. Căn cứ trên cơ sở của những sử thi này, họ xây dựng nên l{ luận về thể
loại: sử thi anh hùng hay còn gọi là anh hùng ca – tiếng Sanskrit là Itihâsa.
Vào những năm 30 của thế kỷ XIX, Hêghen đã có những đóng góp quan trọng cho l{ luận
sử thi trong cuốn “Những bài giảng về mỹ học”. Ông đã dành hẳn chương ba- Các loại thơ- để
nghiên cứu về thể loại sử thi. Ông đã chia sử thi thành các loại:

(1). Thơ đề trên mộ và thơ cách ngôn.
(2). Các trường ca giáo huấn – triết học; Các trường ca về vũ trụ và thần linh.
Hêghen gọi các loại thơ trên là những sử thi khơng tồn vẹn vì chúng không miêu tả một
nhà nước thực sự, cũng không miêu tả một biến cố cụ thể trong lòng nhà nước ấy.
(3). Sử thi đích thực:
Theo quan điểm của Hêghen, sử thi đích thực là loại sử thi có nội dung và hình thức thực
sự là tồn bộ quan niệm về thế giới và cuộc sống dân tộc được trình bày dưới hình thức khách
quan của những biến cố thực tại.
Sử thi đích thực là loại sử thi mang những đặc điểm:
“Tình huống phù hợp nhất với sử thi đó là các xung đột của trạng thái chiến tranh”.
Hành động trong sử thi xuất phát từ những cá nhân nhưng đồng thời các nhân vật với tư
cách là những mẫu người trọn vẹn đã biểu lộ “sự phát triển của nếp tư duy dân tộc và phương
thức hành động có tính chất dân tộc”. Hành động cá nhân trong sử thi, theo Hêghen, “đã xuất
hiện trên cơ sở một trạng thái chung có tính chất sử thi của thế giới. Trạng thái đó đã đạt được
sự thống nhất hài hồ giữa sự tự thể hiện những tính cách sử thi dưới hình thức cá nhân và

14


những mục đích sử thi có tính chất tồn dân, đã kết hợp hành động cá nhân với biến cố sử thi có
{ nghĩa tồn dân”.
Trong cơng trình của mình, nhà nghiên cứu E. M. Mêlêtinxki đã phân chia thành hai loại
sử thi: sử thi cổ so và sử thi cổ điển.
Trong sử thi cổ sơ, các quan hệ xã hội được thơng qua lăng kính quan hệ với thiên nhiên.
“Kẻ thù của nhân vật anh hùng thường là các quái vật, bọn quỷ sứ, lũ khổng lồ mà trong hình
ảnh của chúng cũng như trong hình ảnh folklore nguyên thuỷ, đã phản ánh tính hỗn hợp khái
niệm về sức mạnh thiên nhiên và về những kẻ thù lịch sử của bộ lạc.”. Nhiệm vụ của nhân vật
anh hùng là chiến đấu chống lũ quái vật, bảo vệ cộng đồng, chiến đấu để báo thù, để giành giật
người vợ chưa cưới “xa xơi” hoặc những lợi ích văn hố (ví dụ như Xampô, ngọn lửa, cây bá
hương thiêng liêng).

Trong khi đó, “Những kẻ thù của sử thi cổ điển dần dần mất dáng vẻ quái vật thần thoại
và có những đặc điểm của kẻ thù lịch sử”. Nhân vật anh hùng không chống lại những thế lực siêu
nhiên, mà chống lại những con người cụ thể trong xã hội.
Nhà nghiên cứu E. M. Mêlêtinxki cũng chỉ ra sử thi cổ sơ và sử thi cổ điển cịn khác nhau
về hình thức biểu hiện: “Trong lúc tinh thần anh hùng sử thi cổ sơ phần lớn hãy còn thể hiện
dưới lớp vỏ thần thoại cổ tích, thì những hồi ức lịch sử của nhân dân trong các tác phẩm sử thi
cổ điển chín muồi đã được thể hiện dưới một hình thức tương ứng hơn của sự miêu tả các nhân
vật và các sự kiện lịch sử”.
Đồng thời, E. M. Mêlêtinxki trong một số cơng trình nghiên cứu “Tự sự dân gian” và
“Bàn về sự phát sinh và nhữung con đường phân hoá thể loại sử thi”, đã cho rằng sử thi anh
hùng được hình thành từ hai cơ sở: sử thi thần thoại và những truyện cổ tích dũng sĩ. Ông viết:
“Những huyền thoại về các nhân vật thuỷ tổ văn hố và những truyện cổ tích tráng sĩ là những
tư liệu chủ yếu của sử thi anh hùng thời kz đầu”.
Nhà nghiên cứu V. E. Gusep cũng rất tán thành với nhà nghiên cứu E. M. Mêlêtinxki về
tiến trình phát triển của sử thi. Ông cho rằng, sử thi cũng phát triển từ sử thi thần thoại đến sử
thi anh hùng. Riêng trong sử thi thần thoại thì có ba lớp lịch sử:
- Lớp cổ xưa nhất là lớp tiền tôn giáo hoặc hỗn hợp sinh ra không phụ thuộc vào hệ
thống những tơn giáo xác định và ngồi sự thờ cúng. Đặc trưng cơ bản của lớp này là sự l{

15


tưởng hoá các lực lượng tự nhiên và những lực lượng sản xuất của tập thể bộ lạc thị tộc. Ở đây,
những anh hùng văn hoá được gắn cho những khả năng sáng tạo kz diệu và được suy tôn.
- Lớp lịch sử thứ hai là những tác phẩm phản ánh tác động qua lại giữa sáng tác nghệ
thuật và vơ thức sáng tạo tơn giáo đích thực. Nó được các giáo sĩ chỉnh l{, sử dụng trong thờ
cúng và được đưa vào những sách kinh điển, nó cịn được các tôn giáo tiếp thu (Kinh thánh,
Kinh Koran).
- Lớp thứ ba của sử thi thần thoại là những truyền thuyết và những bài ca sử thi dân
gian sinh ra trong xã hội có giai cấp, dưới tác động của những tôn giáo thống trị. [16, tr34 ]

Về sử thi anh hùng, nhà nghiên cứu V. E. Gusep cho rằng đó là những truyện kể bằng lời
ca hoặc nửa ca về sự đấu tranh của thị tộc – bộ lạc – bộ tộc- nhân dân cho sự tồn tại và nền độc
lập của mình trong sự xung đột với các lực lượng thù địch. Trung tâm của thể loại sử thi này là
người anh hùng mang phẩm chất ưu tú của tập thể và đại diện cho tập thể trong mọi hành động.
Như vậy, với quan điểm của nhà nghiên cứu V. E. Gusep thì những sử thi có tính chất
tơn giáo thuộc về thể loại sử thi thần thoại, ở giai đoạn sớm hơn và nó kém hồn thiên hơn so
với thể loại sử thi anh hùng.
Vấn đề sử thi và phân loại sử thi vẫn tiếp tục được các nhà nghiên cứu , l{ luận quan
tâm. Về sau này, các nhà nghiên cứu, l{ luận cũng đã đồng { hoàn toàn với { kiến của các nhà
nghiên cứ đi trước. Tuy nhiên họ chú { phân biệt thêm:
(1)- Sử thi cổ điển (Classic epic) hay sử thi đích thực (Authentic epic) hay sử thi lớn
(Great epic).
(2)- Sử thi văn chương (Literary epic) hay sử thi cung đình (Court epic) hay sử thi tái tạo
(Imitative epic), Sử thi mô phỏng (Artificial epic). Tiêu biểu cho loại (1) thường được nêu ra là
Iliat và Ơđixee của Homer, cịn ở loại (2) là Aênid của Virgil [23, tr76]
Các nhà nghiên cứu văn học Ấn Độ cũng đã có sự phân biệt tương tự giữa một bên là Sử
thi anh hùng (Itihâsa) và một bên là Sử thi văn chương (Kavya).
Trong tác phẩm “Thời đại anh hùng của Ấn Độ”, nhà nghiên cứu N. K Shidhanta đã phân
biệt hai loại sử thi là sử thi đích thực và sử thi văn chương. Theo ông:
- Sử thi đích thực:

16


Tác giả mơ hồ và bị che khuất.
Liên quan nhiều hơn với các cá nhân và chiến tích anh hùng của họ. Sử thi đích
thực mang tính quốc tế.
Hành động của cá nhân trong sử thi đích thực tập trung trong một thời gian
ngắn.
- Sử thi văn chương:

Tác giả với nhân cách cá nhân, dấu ấn sáng tạo cá nhân biểu hiện một cách rõ
rệt.
Sử thi văn chương quan tâm chủ yếu tới vận mệnh của những quốc gia, mang
tính dân tộc.
Thời gian trong kiểu sử thi này thường bao trùm một sự kiện dài, có thể là lịch sử một
đời người hay một vùng đất. [Chuyển dẫn 23 ]
Tác giả Grinser cũng đã bộc lộ thái độ tán thành cách phân chia sử thi ra thành các loại:
sử thi anh hùng, sử thi giáo huấn và sử thi văn chương. Trong cuốn “Sử thi cổ Ấn Độ” với việc
phân tích hai sử thi lớn của Ấn Độ là sử thi Mahabharata và sử thi Ramayana ông đã thể hiện rõ
quan điểm của mình. Theo ơng, sử thi Mahabharata từ một sử thi anh hùng đã trở thành một
sử thi mang tính giáo huấn. Cịn sử thi Ramayana thì từ một sử thi anh hùng đã trở thành một
sử thi văn chương.
Như vậy, các nhà nghiên cứu, l{ luận đều phân tách thể loại sử thi thành ba tiểu loại sau:
(1)- Sử thi cổ sơ hay sử thi thần thoại, sử thi khơng chính thức, sử thi giáo huấn.
(2)- Sử thi cổ điển, sử thi đích thực, sử thi lớn hay sử thi anh hùng, sử thi chính thức, sử
thi cổ đại.
(3)- Sử thi văn chương, sử thi cung đình, sử thi tái tạo, sử thi mô phỏng.
Mặc dù đã có sự phân chia sử thi thành các loại khác nhau về mặt l{ luận, nhưng trên
thực tế thì mỗi sử thi ở mỗi nền văn học khác nhau lại có một q trình hình thành khác nhau. Ví
dụ như sử thi Hy Lạp có một q trình hình thành khác với sưt thi Ấn Độ. Cụ thể là:

17


Nếu các sử thi Hy Lạp có một mốc thời gian cụ thể cho sự hồn thành, ví dụ như sử thi
Iliat vào khoảng thế kỷ IX – VIII trước cơng ngun thì các sử thi Ấn Độ lại trải qua một trường kz
thời gian biên soạn, sắp xếp, chỉnh sử, bổ sung vài trăm năm, thậm chí kéo dài hàng ngàn năm.
Ví dụ như sử thi Mahabharata theo phần lớn các nhà nghiên cứu thì từ khoảng thế kỷ thứ V
trước công nguyên đến thế kỷ IV hay từ thế kỷ IX trước công nguyên đến thế kỷ V. Cịn sử thi
Ramayana thì từ thế kỷ IV – III trước công nguyên đến thế kỷ III – IV sau cơng ngun.

Như vậy q trình hình thành và hồn thiện các sử thi Mahabharata và Ramayana khiến
cho người ta nhớ đến hình ảnh những dịng sơng Indus (Ấn Hà) và Ganga (Hằng Hà) hùng vĩ ngày
ngày cuồn cuộn đổ ra đại dương mênh mơng. Ngọn nguồn của nó khởi ngun từ giai đoạn cuối
trong thời kz bình minh của văn học Ấn (Thời Vêđa) và kết thúc dòng chảy vào giai đoạn đỉnh
cao trong thời cổ điển của nền văn học này. Những dịng sơng đã chảy qua đơi bờ văn hoá Ấn Độ
từ thời thơ ấu, hồn nhiên chân chất đến trưởng thành chững chạc, thành đạt, chảy qua đôi bờ
tôn giáo với những tranh chấp và nhượng bộ, xung đột và hoà giải, giữa thần quyền và vương
quyền, giữa những đối nghịch. Những dòng thuỷ lưu đã cuốn theo tầng tầng những hạt phù sa
của đôi bờ bên lở bên bồi khiến cho chúng ngày càng trở nên màu mỡ hơn. Và do đo, cũng xa
cách với những quy phạm của sử thi được xây dựng trên cơ sở của những sử thi Hy Lạp.
1. 2. Sử thi Ramayana của Ấn Độ.
Sử thi Ramayana là cuộc hành trình của chàng hồng tử Rama hay đó là những kz tích
của chàng Rama. Đây là cuốn sách thần thánh của nhiều triệu người Hinđu trong cuộc đời họ.
Tác phẩm được hình thành phổ biến theo con đường truyền miệng. Về sau mới được nhà thơ
Valmiki – người sẵn có nguồn cảm hứng đặc biệt và trí nhớ kz lạ ghi chép thành văn bản hoàn
chỉnh.
Thiên anh hùng ca bằng tiếng sanskrit, gồm 500 đoạn, chia thành 7 cuốn, dài 24.000 câu
thơ đơi, là hịn đá tảng của đạo đức Hinđu về lịng trung thành với một vị trí đặc biệt trong đời
sống tinh thần Ấn Độ suốt hàng ngàn năm qua. Sử thi Ramayana nói về cuộc chiến thắng của
hồng tử Rama đối với vua của loài quỷ là Ravana. Rama đã đối mặt với số phận của mình với tư
cách là một người đàn ông l{ tưởng và sự hoá thân thứ bảy của vị thần Visnu. Sử thi Ramayana
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng nhiều cách khác nhau nhưng con đường
truyền miệng vẫn rất sống động, Ramayana được kể lại bên lửa trai hay đọc nơi công công cho
mọi người nghe. Người Ấn Độ xem Ramayana là một thánh kinh giúp họ gột rửa hết mọi tội lỗi
trong cuộc đời trần thế. Người Ấn Độ nói rằng: “Chừng nào sơng chưa cạn, đá chưa mịn thì
Ramayana vẫn làm say mê lịng người và cứu giúp họ ra khỏi vòng tội lỗi.”
18


Đặc biệt ở miền Nam Ấn Độ đã hình thành một giáo phái thờ thần Rama và thánh kinh

của họ là những lời thơ trong tác phẩm.
Bên cạnh đó, trong suốt hàng ngàn năm qua, sử thi Ramayana trở thành một đề tài bất
tận cho các ngành nghệ thuật. Tiêu biểu là tác phẩm “Hồ truyền kz Rama” của nhà văn Tuxidas.
Mỗi vùng của đất nước này đều có kiểu mẫu riêng của mình về kịch Ramayana. Người ta
dựng các vở kịch lấy từ các trích đoạn của Ramayana trên sân khấu ở nhiều thành phố. Tại các lễ
hội, hình nộm của Ravana và Kumbkarna bị đốt, các diễn viên đóng vai Rama và Sita tham gia
vào diễu hành. Ramayana đã được dưa lên màn ảnh của rạp chiếu bóng cũng như phim truyền
hình nhiều tập và trình chiếu suốt 78 tuần liền trong suốt năm 1987- 1988 vào một giờ nhất định
trong các ngày chủ nhật. Bằng tất cả các cách đó, Ramayana đã đi vào tâm thức của người Ấn
Độ ngay cả thời hiện đại. Qua huyền thoại về Rama, mọi người dân Ấn Độ đều nảy sinh ước vọng
về những lãnh tụ cứu tinh hiền đức và cơng bằng. Đó là cuộc đấu tranh giữa thiện và ác mà sự
tồn thắng ln ln thuộc về cái thiện. Bản trường ca đã khẳng định sự không thay đổi trong
phân chia đẳng cấp và sự thống trị của đẳng cấp trên đối với đẳng cấp dưới suốt mấy ngàn năm.
Cấu trúc của Ramayana là cấu trúc rất phổ biến của các truyện trong văn học dân gian
trên thế giới. Nó bao gồm hai bước của một q trình chung nhằm đạt được mục tiêu cao cả của
các nhân vật chính diện. Mỗi bước này lại mang theo trong mình sự phát triển riêng: sự thử
thách khó khăn để đạt được tình yêu, yếu tố phá hoại xen vào gây ra tai hoạ, sau đó đến hơn lễ
hay là sự thủ tiêu tai hoạ. Toàn bộ sử thi nguyên bản bằng tiếng sanskrit gồm 7 quyển.
Nội dung quyển một của Ramayana là sau khi Rama đã qua được thử thách sơ bộ,
chàng buộc phải thi tài để đạt được tình yêu của công chúa Xita. Khâu chủ yếu trong cốt truyện
quyển một là Rama đã bẻ cong và căng được cái cung thần mà trước đó khơng một người nào
trong số người muốn lấy Xita có thể căng được. Mơ típ về “thử thách cầu hơn” đã buộc Rama
phải chịu thử thách một mình và được kết thúc bằng cuộc hơn nhân của các nhân vật chính.
Quyển hai của sử thi Ramayana tường thuật các gian kế ở hoàng cung Liôxe và việc
Rama phải đi đầy theo yêu cầu của bà mẹ kế Kakêyi. Đây là phần trình bày hồn cảnh bất hạnh
khởi đầu của các nhân vật chính diện trong toàn bộ sử thi.
Trong quyển ba của sử thi Ramayana, việc Ravana bắt cóc Xita là khởi đầu yếu tố phá
hoại xen vào cốt truyện thông qua các yếu tố trung gian khác và hoàng tử Rama lên đường đi
tìm kiếm vợ mình ở trong rừng. Trong cuộc tìm kiếm đó, Rama đã nhận được sự giúp đỡ của các


19


dã thú là gấu và khỉ, mà vua là Sugriva đã được chàng cứu thoát khỏi sự truy đuổi và chết chóc
trước đây. Sau cùng, Rama đã vào đến Lanka.
Quyển thứ tư của Ramayana tường thuật truyện Rama và Laksmana gặp các nhân vật
phụ dưới dạng các vua của loài khỉ Sugriva và Hanuman. Sau này, con diều hâu Đơratausta cũng
lao vào trận tử chiến chống Ravana để cứu Xita và trước khi chết đã nói cho Rama biết ai là
người bắt cóc Xita. Sau khi Ravana qua Akampana và Surpapackhi, biết được nơi Rama và Xita ở,
hắn cùng quỷ Maricha đến vùng lân cận. Maricha đội lốt con sơn dương vàng để đánh lạc hướng
Rama khỏi nơi chàng ở. Sau đó Rama dặn dị Laksmana khơng được rời khỏi Xita. Khi Sita nghe
tiếng Maricha giả làm Rama kêu gọi sự giúp đỡ, chính nàng là người đã nài xin Laksmana đi giúp
đỡ Rama. Đồng thời, thầy tu Brahma biến quỷ Maricha thành sơn dương, lừa Xita để nàng nói
chuỵên thân mật với Ravana.
Quyển thứ năm, mô tả cảnh Hanuman đi tìm Xita. Hanuman đã biến hình thành một con
mèo để đi tìm Xita. Để bộ dạng của mình khơng làm cho Xita khiếp sợ, Hanuman ẩn mình sau lá,
tán dương Rama và cho Xita hay rằng mình có quen chàng. Sau khi đã làm cho Xita tin mình rồi,
Hanuman mới xuất hiện nhưng nàng vẫn lo sợ đó là Ravana biến hình. Hanuman lại một lần nữa
thuyết phục nàng bằng cách kể cho nàng nghe tỉ mỉ về Rama và điểm qua các chiến công của
chàng cho đến khi Xita hoàn toàn tin rằng đứng trước nàng là một người bạn và nàng tràn ngập
vui sướng. Cuối cùng, để chinh phục hoàn toàn niềm tin của Xita, Hanuman trao cho nàng chiếc
nhẫn của Rama mà chàng đã trao cho Hanuman với tư cách là một phái viên của mình. Hanuman
đã phải tìm kiếm Xita rất lâu nhưng chàng đã thành cơng, chinh phục được lịng tin của Xita và
đốt cháy kinh thành Lanka của Ravana.
Quyển thứ sáu kể lại chuyện Rama và quân đội của chàng kéo quân qua biển tới Lanka
để giành lại công chúa Xita. Đây là một quyển có kết cấu khá dài và phức tạp vì các đối thủ là
những kẻ ngang sức ngang tài. Kết cấu của quyển này có thể chia ra làm nhiều đoạn như sau:
Chuẩn bị cho cuộc giao tranh, làm cầu qua biển Lanka, sự ngoan cố của Ravana, cuộc chiến đấu
bắt đầu, Kumbhakarna gieo rắc sự sợ hãi, sự thát bại của Indrajit, kết thúc của Ravana, sự vô tội
của Xita được minh chứng qua thử lửa và trở về nhà.

Quyển thứ bảy khơng được coi là quyển chính thức của Ramayana dân gian trước khi có
bản của Valmiki. Tuy nhiên, nó lại là quyển giàu chất nhân văn vì nó rất gần với những đặc tính
của người bình thường. Dường như khơng tin vào cái kết thúc có hậu của những nhân vật có
tính thần linh q cao siêu, Valmiki đã tạo thêm quyển bảy để kéo Ramayana gần lại với thế giới
của con người với những vui buồn, giận ghét, sai lầm và trả giá…Đây là quyển mang ít yếu tố
20


thần tiên kz ảo nhất mà mang nặng sắc thái và chịu sự chi phối sâu sắc của tâm l{ con người. Các
nhân vật hành động và suy nghĩ theo hướng rất nhân bản là do quyển này mang rõ dấu ấn của
tác giả Valmiki. Chàng Rama rất anh hùng trong chiến trận đã để mất sự sáng suốt, nghe theo sự
chi phối của dư luận vì chàng ta coi bổn phận cao qu{ nhất của mình là làm vừa lịng thần dân.
Chính vì thế mà nàng Xita phải lưu lạc ở trong rừng mười năm cùng với con trai của mình. Cuối
cùng, khi Rama nhận ra sai lầm của mình và xin chuộc lỗi nhưng cơng chúa Xita đã cầu xin đất
mẹ che chở cho mình chứ nhất quyết không tha thứ cho Rama. Phải hơn mười ngàn năm sau,
Rama mới có cơ hội để xum họp với Xita ở trên trời khi hoá thân trở lại làm Visnu

CÁC NHÂN VẬT TRONG SỬ THI RAMAYANA:
1- Các vị thần và các nhà thông thái:
- Visnu: Thần bảo vệ vũ trụ.
- Siva: Thần huỷ diệt.
- Brahma: Thần sáng tạo.
- Valmiki: Nhà thông thái, nhà thơ và tác giả sử thi Ramayana.
- Vasistha:Nhà thơng thái vĩ đại nhất của triều đình vua Dasaratha, tu sĩ hoàng gia.
- Agastya: Người đứng đầu các nhà thơng thái trong khu rừng Đandaka.
2- Gia đình hồng gia:
- Dasaratha: Cha của Rama, hoàng đế Ayodhya.
- Janaka: cha của Sita, vua của Mithila.
- Rama: Hoá thân thứ bảy của thần Visnu trong lốt người, người anh hùng thần thánh của
Ramayana.

- Kasaly: Vợ cả của Dasaratha và mẹ của Rama.
- Kakeyi: Vợ trẻ nhất của Dasaratha và mẹ của Bharata.
- Sumitra: Vợ giữa của Dasaratha và mẹ của hai anh em Laksmana và Satrughna.
- Bharata: Em trai của Rama.
21


- Laksmana: Em trai của Rama.
- Satrughna: Em trai của Rama.
- Kusav Lava: hai con trai sinh đôi của Rama và Sita.
- Xita: Vợ của Rama.
- Mandavi, Srutakirti và Urmila: Những người vợ của Bharata, Laksmana, Satrughna.
3- Các vị thần và các vua loài vật:
- Indra: Thần mưa và vua của bầu trời.
- Agni: Thần lửa.
- Vayu: Thần gió, cha của Hanuman.
- Varuna: Chúa tể của ao hồ và sông ngịi.
- Surya: Thần mặt trời.
- Garuda: Vua của các lồi chim, con đại bàng chở Visnu.
- Hanuman: Tướng khỉ, con khỉ nô lệ của Rama và Sita.
- Jambavan: Vua của loài gấu, con trai của Brahma.
- Jatayu: Người bảo vệ Sita, cháu trai của Garuda.
- Vali: Em trai của vua khỉ Sugriva.
- Sugriva: Vua khỉ, anh trai của Vali.
- Angada: Con trai của Vali.
4- Những con quỷ của Lanka:
- Ravana: Vua của loài quỷ.
- Dusana: Em họ của vua quỷ Ravana.
- Indrajit: Con trai cả của vua quỷ Ravana.
- Khara: Em họ của Ravana.

22


- Kumbhakarna: Em trai của Ravana.
- Mandodari: Vợ của Ravana, mẹ của Indrajit.
- Maricha: Người chú am thuật của Ravana.
- Surpanakha: Quỷ cái, em gái của Ravana.
- Tataka: Quỷ cái ăn thịt người.
- Vibhisana: Anh trai của Ravana, người sát cánh chiến đấu cùng Rama.
- Suka: Gián điệp của Ravana.
Sử thi Ramayana là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của thế giới, khơi gợi cảm
hứng và rung động trái tim hàng triệu người trên khắp đất nước Ấn Độ và các dân tộc khác trên
thế giới, bởi những giá trị đaọ đức lớn lao và những lời kêu gọi tinh thần. Ngồi những sáng tạo
mang tính văn học của sử thi Ramayana, người đọc cịn tìm thấy trong đó kho tàng đồ sộ của
những truyền thuyết lịch sử và văn hoá vĩ đại. Sử thi Ramayana đã xây dựng nên những chuẩn
mực đạo đức đối với hàng triệu con người kể từ khi nó xuất hiện. Đến nay sử thi này vẫn có một
ảnh hưởng mạnh mẽ đối với cuộc sống của nhân dân Ấn Độ và nhiều nước khác trên thế giới.
Người dân Ấn Độ và nhiều nước trên thế giới thường lấy các nhân vật trong sử thi cổ đại làm
khuôn vàng thước ngọc để diễn tả và đánh giá thực tế cuộc sống. Phạm vi ảnh hưởng của sử thi
Ramayana khơng chỉ có ở Ấn Độ mà còn lan rộng ra nhiều nước trên thế giới. Từ những năm 30
của thế kỷ XIX, sử thi này đã được dịch và giới thiệu bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau ở Châu Âu
(Anh, Đức, Pháp, Nga). Đặc biệt là Ramayana còn được phổ biến đến nhiều nước ở Đơng Nam Á,
nơi có quan hệ văn hố lâu đời với Ấn Độ. Hầu hết các nước Đông Nam Á mượn cốt truyện để
sáng tác ra những truyện mang màu sắc độc đáo của dân tộc mình theo mơ típ bộ ba: Anh hùng
- Người đẹp - Ác quỷ - mà nguồn gốc của nó từ sử thi Ramayana, như truyện Ramakiên ở Thái
Lan, Riêmkê ở Cămpuchia, Pha Lặc- Pha Lam ở Lào, Ramayana của dân tộc Chàm và Dạ Thoa
Vương ở Việt Nam. Sự ảnh hưởng của sử thi này còn được khẳng định mạnh mẽ trong hai cuộc
hội thảo quốc tế Jatarka – Inđônêxia và New Dehli từ năm 1984 trở lại đây.
Một trong những sức quyến rũ của Ramayana là ở chỗ trong tác phẩm, thế giới của thần
linh và thế giới của loài người, thế giới huyền thoại và thế giới lịch sử luôn đan chéo vào nhau.

Hoàng tử Rama là hiện thân thứ bảy của thần Visnu nhưng chàng đồng thời cũng có những
phẩm chất của con người bình thường: yêu đương say đắm Xita, và khi nàng bị quỷ vương
Ravana bắt, tim chàng cũng tan vỡ vì đau khổ. Các phép lạ của các nhân vật trong Ramayana
23


chẳng qua cũng chỉ là phương tiện cho những dục vọng (đối với Ravana), tính nhân văn (đối với
Rama) và bản chất sâu xa rất người. Các nhân vật được giới thiệu với xuất thân rõ ràng về nơi
sinh ra, con ai, như thế nào…khiến cho người đọc, người nghe có ảo giác về tính lịch sử của nó.
Valmiki rất vĩ đại, song tác phẩm Ramayana của ơng thậm chí lại còn vĩ đại hơn. Nếu
như sử thi Mahabharata nhấn mạnh tới các mặt mang tính thực tế của cuộc sống thì sử thi
Ramayana lại tuyên truyền cho những l{ tưởng cao cả nhất của cuộc sống. Thậm chí giờ đây, đối
với hàng triệu người dân Ấn Độ, Ramayana không chỉ là câu chuyện kể mà { nghĩa của nó còn
cao cả hơn những sự kiện thực tế trong cuộc đời thật của họ. Đối với họ, Ramayana “không phải
chỉ là những chuyện tích mà là cả một điện đài những nhân vật l{ tưởng, hun đúc tâm hồn và soi
sáng hành vi của họ…người Ấn Độ sùng đạo, tin tưởng rằng Krisna hay Rama là những hiện thân
thiêng liêng và đến nay họ còn cầu nguyện, khấn vái các nhân vật đó…”.*12, tr392 ] Giống như
những cây non dưới ánh sáng mặt trời, mọi người Ấn Độ và các vùng khác nhau của Châu Á đã
lớn lên về sức mạnh tinh thần và văn hoá qua việc tiếp thu có chọn lọc những cảm hứng rực rỡ
của sử thi Ramayana, về lối sống của người Hinđu- nơi những truyền thống cổ xưa, những l{
tưởng và sự mới lạ dễ dàng được tìm thấy.
Sử thi Ramayana ra đời trong giai đoạn xã hội Ấn Độ đang chuyển dần từ xã hội công xã
nguyên thuỷ sang chế độ chiếm hữu của cải- một hình thức xã hội có giai cấp đầu tiên trong xã
hội lồi người. Ở vào thời điểm đó chưa có chỗ cho con người cá nhân xuất hiện. Thay vào đó là
con người cộng đồng, con người của chủ nghĩa tập thể- một chủ nghĩa tập thể trong công xã bền
vững, cái chung được đặt lên trên, cái riêng chỉ có { nghĩa khi phù hợp với quy luật cái chung.
Điều đó đã trở thành chuẩn mực đạo đức trong xã hội và một nguyên tắc để xây dựng các nhân
vật l{ tưởng.
Hình tượng Rama và Xita đã được xây dựng theo nguyên tắc này. Bởi thế khi đánh giá
một hình tượng trong sử thi người ta chú { đến tính hài hồ trong việc thống nhất giữa cái

chung và cái riêng. Theo cách nói của Hêghen: “Nhân vật sử thi bao giờ cũng phải được xét xử
theo cái nghiệp mà nó bảo vệ.”
Những hình tượng nhân vật trong sử thi Ramayana mang tính cao đẹp và trường tồn.
Thakur Upendra cho rằng: “Những điều tốt đẹp nhất, cao qu{ nhất trong truyền thống và l{
tưởng của đạo Hinđu trải qua các thời đại, kể cả trước và sau khi Ramayana được viết ra đã
được tập trung trong các tính cách của Rama, Xita, Laksmana, Hanuman và những người khác đã
gây một ấn tượng khơng thể xố nhồ trong tâm khảm người đọc”. Trong số các nhân vật của sử
thi Ramayana, nhân vật hồng tử Rama được tơn vinh cao nhất vì những phẩm chất l{ tưởng
24


của chàng và trong tiến trình lịch sử nhiều thế kỷ, chàng đã được coi là hoá thân của thần thánh.
Tính cách của chàng được coi như tiêu biểu cho việc tuân theo và thực hành giáo l{ Dharma.
Tương tự như thế, các tính cách khác trong sử thi Ramayana cũng có ảnh hưởng lớn đối với xã
hội các nước ở Châu Á nói chung và xã hội Ấn Độ nói riêng.
Rama là hố thân của Thần, là Chúa Trời, là hoá thân thứ bảy của Visnu. Chàng đã chịu
để trở thành con người và trong giới hạn của cuộc đời con người, chàng đã quên đi bản chất
thần thánh của chính mình. Chàng chịu đựng mọi gian khổ về mặt thể xác và khi chàng mất
người yêu của mình là Xita, trái tim chàng cũng bị tan vỡ.
Trong cuộc hành trình của mình, Rama đã trải qua mọi nỗi thống khổ mà mỗi linh hồn
con người đều phải trải qua và cả những sự bất cập, khơng hồn thiện mà mỗi người chúng ta
đều mắc phải. Mỗi người đều phải chịu đựng mất mát của riêng mình, đối mặt với mỗi sự thất
vọng và hy vọng để đi đến chấp nhận số phận của mình và tìm ra sự giải thoát cuối cùng.
Kiểu mẫu vĩ đại nhất của người phụ nữ trong xã hội Ấn Độ là Xita, người phụ nữ đã luôn
luôn trung thành và đi theo chồng mình là hồng tử Rama vào tận rừng sâu, chia xẻ với chàng
mọi khó khăn gian khổ vì lợi ích của chàng.
Hình tượng của các nhân vật chính diện trong sử thi Ramayana ln mang tính chất đạo
đức l{ tưởng, thánh thiện, tồn thiện, tồn mỹ. Các nhân vật chính diện của sử thi Ramayana
thường được coi như ví dụ minh hoạ cho những quy tắc đạo đức thần thánh mà họ theo đuổi.
Những nhân vật phản diện thì ngược lại, là những kẻ thường vi phạm ba loại tội lỗi: hoặc

là phạm thánh, hoặc là hèn nhát tham lam về quyền lực và của cải, hoặc vi phạm những nguyên
tắc về tình dục hay sinh hoạt đồi bại.
Sử thi Ramayana đã chứa đựng nhiều quan điểm triết học mà nổi bật nhất là quan hệ
giữa bổn phận, danh dự và dục vọng cá nhân; giữa cái nhất thời và cái vĩnh hằng.
Chủ đề lớn của Ramayana là tìm ra số phận, hậu quả của những điều ta đã làm trong
quá khứ. Đề tài chủ yếu của sử thi Ramayana là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa ánh
sáng và bóng tối. Nàng cơng chúa bị một con quỷ bắt cóc, được người u của mình cứu giúp,
con quỷ bị đánh bại và sau đó tất cả được sống trong hạnh phúc. Đằng sau câu chuyện đó cịn có
mục đích vũ trụ phải được lấp đầy, bởi như A.Ja. Gurêvích đã nhận xét rằng: “Quan niệm cổ của
người Ấn Độ về thời gian cũng giống như cái bánh xe. Chiếc bánh xe vũ trụ vận động vĩnh viễn,
đó là vịng tuần hồn của sinh và tử ln lặp đi lặp lại”.*15, tr34 – 35 ]
25


×