Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Hoạt động tự học của sinh viên ngành bác sĩ đa khoa trường Đại học Y dược Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.39 KB, 8 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Educational Sci., 2017, Vol. 62, No. 1, pp. 195-202
This paper is available online at

DOI: 10.18173/2354-1075.2017-0022

HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN NGÀNH BÁC SĨ ĐA KHOA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI NGUYÊN
Vũ Thị Mai Hương Giang, Nguyễn Văn Sơn, Bùi Thị Quỳnh Nhung
Trường Đại học Y Dược Thái Ngun
Tóm tắt. Xã hội ln vận động và phát triển khơng ngừng địi hỏi con người phải vận động
để theo kịp sự phát triển của xã hội. Đối với sinh viên đào tạo theo học chế tín chỉ, việc tự
học, tự tìm hiểu đóng vai trị quan trọng trong việc giúp sinh viên lĩnh hội kiến thức môn
học cũng như phát huy năng lực của bản thân trên cơ sở chính là sự hướng dẫn của giảng
viên, và đặc biệt đối với sinh viên ngành bác sĩ đa khoa, việc cập nhật kiến thức, kĩ thuật
mới trong y học là vô cùng cần thiết. Bài báo đề xuất 4 biện pháp nâng cao hiệu quả tự học
cho sinh viên ngành bác sĩ đa khoa bao gồm: 1) Nâng cao nhận thức về sự cần thiết và vai
trò của tự học cho sinh viên; 2) Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy; 3) Hướng dẫn
các kĩ năng tự học cho sinh viên; 4) Hướng dẫn sinh viên tổ chức các hoạt động tự học.
Từ khóa: Tự học, biện pháp, sinh viên, ngành bác sĩ đa khoa.

1.

Mở đầu

Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, lượng thơng tin ngày càng gia tăng; theo
tính tốn của các chuyên gia trong lĩnh vực xã hội học, thì lượng thơng tin tăng gấp đơi cứ sau
khoảng 5-6 năm; vì vậy để nắm bắt tri thức, con người luôn luôn phải tự cập nhật, tìm tịi tri thức.
Đối với lĩnh vực giáo dục, các trường đã thực hiện đào tạo theo tín chỉ, chương trình đào tạo tín
chỉ được thiết kế theo hướng ngày càng tinh gọn; số tiết truyền đạt trực tiếp trên lớp giảm còn hai
phần ba so với trước đây, trong khi yêu cầu đối với người học ngày càng cao. Do vậy, hơn lúc nào


hết, tầm quan trọng của tự học ngày càng được tăng cao; dạy học trong nhà trường không phải là
cung cấp một khối lượng tri thức hàn lâm kinh điển như trước đây mà dạy cho người học phương
pháp tiếp cận thông tin, phương pháp tư duy để họ có thể tiếp tục học sau khi rời ghế nhà trường,
do vậy dạy học đại học thực chất là dạy cách học, cách tự học để học tập suốt đời [4].
Isaac Asimov đã từng nói: “Chỉ có thể bằng con đường tự học sinh viên mới có thể học hỏi
được điều gì đó. Nhiệm vụ duy nhất của Nhà trường là tạo thuận lợi cho q trình tự học. Nếu như
khơng làm được điều này, Nhà trường sẽ đánh mất ý nghĩa tồn tại của mình” [2].
Quá trình dạy học của giảng viên thành cơng có quan hệ biện chứng với q trình tự học
của sinh viên. Vì vậy, thước đo hiệu quả của phương pháp dạy học là kết quả của tự học. Tuy nhiên,
để sinh viên trở thành những người học có khả năng tự học, chủ động sáng tạo khơng phải là một
điều dễ dàng do sinh viên mới làm quen với cách học mới nên tính thụ động cịn cao, phương pháp
tự học, tự nghiên cứu còn chưa tốt do đó họ rất lúng túng trong việc tự học ở nhà. Mặt khác, giảng
Ngày nhận bài: 15/10/2016. Ngày nhận đăng: 15/1/2017.
Liên hệ: Vũ Thị Mai Hương Giang, e-mail:

195


Vũ Thị Mai Hương Giang, Nguyễn Văn Sơn, Bùi Thị Quỳnh Nhung

viên cũng gặp phải nhiều khó khăn khi yêu cầu sinh viên tự học ở nhà và quản lí cũng như đánh
giá khả năng tự học của sinh viên.
Sinh viên ngành bác sĩ đa khoa có thời gian học tập tại trường 6 năm, bên cạnh việc học tập
lí thuyết, sinh viên còn đi thực tập, đi trực tại bệnh viện; ngồi việc tích lũy kiến thực từ bài giảng
của giảng viên, sinh viên còn học tập qua quan sát, qua thực hành các kĩ năng nghề nghiệp vì vậy
việc tự học đối với sinh viên càng trở nên quan trọng và cần thiết.

2.
2.1.


Nội dung nghiên cứu
Khái niệm về tự học

Theo tác giả Trần Thị Minh Hằng, “thái độ tự học là một thuộc tính của tự ý thức, là yếu tố
bên trong quy định xu hướng tự giác, tích cực, độc lập, được biểu hiện ra bên ngồi bằng những
xúc cảm, những hành vi trong tự học” [5].
Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn nghiên cứu sâu về vấn đề tự học cho rằng: học cốt lõi là tự học
mà ở đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình. Theo ơng: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử
dụng các năng lực trí tuệ (so sánh, quan sát, phân tích, tổng hợp,...) và có khi cả cơ bắp (khi phải
dùng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, cả động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan
(như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, khơng ngại khó,....) để chiếm lĩnh 1 lĩnh vực hiểu biết
nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình” [7].
Đối với người học, hoạt động tự học bao gồm nhiều hành động kế tiếp nhau như quan sát,
ghi chép, đọc, hệ thống hoá, giải bài tập. . . Để có thể tự học, người học phải nắm được những tri
thức về hành động, phải vận dụng những tri thức đó để tiến hành các hành động nhằm thu được
những kết quả hành động phù hợp với mục đích. Nói một cách khác, người học phải có những kĩ
năng tự học phù hợp với mơn học. Kĩ năng tự học là khả năng thực hiện có kết quả một hay một
nhóm hành động tự học bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành
động phù hợp với những điều kiện cho phép [1].

2.2.

Ý nghĩa của hoạt động tự học ở trường đại học

Hoạt động tự học là hoạt động chiếm một vị trí quan trọng trong q trình dạy học cũng
như đào tạo của nhà trường sư phạm. Tự học, tự đào tạo là nhân tố quyết định đến chất lượng và
hiệu quả học tập của người học. Quá trình dạy học bao gồm hai mặt quan hệ hữu cơ đó là: hoạt
động dạy của người dạy và hoạt động học của người học. Người dạy đóng vai trị tổ chức, lãnh đạo
điều khiển và định hướng hoạt động học cho người học. Người học vừa là đối tượng tác động của
dạy học vừa là chủ thể của quá trình đó. Trong khi các dạng hoạt động khác của con người hướng

vào việc làm thay đổi đối tượng, khách thể của hoạt động thì hoạt động học tập rèn luyện làm cho
chính chủ thể hoạt động thay đổi. Bằng hoạt động học tập mỗi sinh viên tự hình thành và phát triển
nhân cách của mình, khơng ai có thể làm thay mặc dù trong dạy học và giáo dục luôn có sự định
hướng của giáo viên. Tác động của người dạy - giảng viên chỉ có thể được phát huy thơng qua hoạt
động tích cực, tự lực, chủ động sáng tạo của người học - tự học. Như vậy trong q trình dạy học
và đào tạo, tự học có vai trò rất quan trọng, được biểu hiện ở chỗ [5], [7]:
- Tự học là hoạt động giúp sinh viên lĩnh hội vững chắc hệ thống những tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo.
- Tự học là hoạt động giúp sinh viên rèn luyện để phát triển năng lực nhận thức, hình thành
và phát triển các phẩm chất trí tuệ.
- Tự học khơng chỉ giúp cho sinh viên tích lũy được vốn tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, mà trong
quá trình độc lập giải quyết các nhiệm vụ học tập, các thao tác trí tuệ của sinh viên cũng trở nên
196


Hoạt động tự học của sinh viên ngành Bác sĩ đa khoa trường Đại học Y dược Thái Nguyên

thành thạo, vững chắc. Sinh viên khơng ngừng phát huy tính tích cực nhận thức, tự mình rèn luyện
các thao tác trí tuệ, dần dần hình thành các phẩm chất hoạt động trí tuệ cần thiết như: tính định
hướng, tính bề rộng, tính chiều sâu, tính linh hoạt, tính mềm dẻo, tính phê phán, tính khái qt. . .
Khơng những vậy, tự học cịn giúp cho sinh viên hình thành niềm tin khoa học, rèn luyện ý chí
phấn đấu, tính kiên trì, óc phê phán, bồi dưỡng hứng thú khoa học, lòng say mê nghiên cứu tìm
tịi, khám phá khoa học và những phẩm chất nhân cách khác.
Tự học là con đường tự khẳng định, là con đường sống, con đường thành đạt của những ai
muốn vươn lên tầm cao trí tuệ của nhân loại trong thời đại thông tin như hiện nay. Tự học, tự rèn
luyện là con đường quan trọng nhất để sinh viên sư phạm ngày nay - giáo viên sau này, khơng
ngừng nâng cao trình độ của mình. Như vậy, trong quá trình dạy học ở đại học, tự học chiếm một
vị trí quan trọng và có vai trị to lớn. Nếu nhà trường và thầy cơ giáo bồi dưỡng cho sinh viên ý
chí và năng lực tự học cần thiết thì sẽ khơi dậy tiềm năng to lớn vốn có của họ, tạo nên động lực
nội sinh vốn có của q trình học tập, vượt lên những kích thích bên ngồi như biện pháp thi đua,

khen thưởng, trách phạt. Khả năng tự học chính là “nội lực”, là nhân tố giữ vai trò quyết định chất
lượng đào tạo. Thầy cơ giáo là lực lượng có vai trị quan trọng trong việc định hướng, động viên,
cổ vũ cho sinh viên tự học đúng hướng.

2.3.

Các kĩ năng tự học

Kĩ năng xây dựng kế hoạch tự học: Kế hoạch tự học phải đảm bảo tính khoa học, tính vừa
sức và tính khả thi. Xây dựng được bản kế hoạch tự học hợp lí là kĩ năng quan trọng đầu tiên đối
với mỗi sinh viên. Bao gồm việc lên danh mục các nội dung cần tự học, khối lượng và yêu cầu cần
đạt được, các hoạt động cần phải tiến hành, sản phẩm cụ thể cần phải được tạo ra, thời gian dành
cho mỗi nội dung và hoạt động. Đồng thời kế hoạch cũng cần có các phương án phụ, dự kiến khắc
phục các trở ngại đột xuất về thời gian, yêu cầu chung,...
Kĩ năng lựa chọn tài liệu: Các tài liệu này có thể ở dạng viết, nghe - nhìn, hoặc trực tiếp
khai thác từ internet. Lựa chọn cho đúng, chọn đủ, chọn hợp lí, chọn cái thực sự cần thiết, chọn tài
liệu liên quan trực tiếp, gián tiếp, bổ sung, phục vụ,... Để tự học có hiệu quả, sinh viên cần phải
rèn luyện cho mình kĩ năng lựa chọn các tài liệu thích hợp. Kĩ năng lựa chọn tài liệu còn được thể
hiện trong việc trực tiếp dự giờ, tham gia hội thảo và hội nghị khoa học, seminar, thực tế, quan sát
kết quả thí nghiệm. . .
Kĩ năng lựa chọn hình thức tự học: Tự học về cơ bản là tự bản thân mình tiến hành hoạt
động độc lập để chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng. Tuy nhiên, việc tự học không phải bao giờ cũng được
thực hiện một cách dễ dàng, thuận lợi. Những khó khăn như một vấn đề học tập nan giải, một nội
dung học tập thiếu tài liệu, một hướng suy nghĩ bị bế tắc... Do vậy, việc lựa chọn, hoặc phối hợp
các hình thức tự học cá nhân, đơi bạn học tập, nhóm, học với tài liệu, học với chương trình ở tivi,
máy tính,... một cách phù hợp đóng vai trị hết sức quan trọng.
Kĩ năng xử lí thơng tin: Kĩ năng xử lí thơng tin có thể được chia thành 2 kĩ năng nhỏ kế tiếp
nhau: hệ thống hóa và phân tích, tổng hợp, khái quát hóa. Để tri thức tự học có được một cách bền
vững và có thể vận dụng được trong thực tiễn, người học cần phải xếp chúng vào hệ thống nhất
định. Công việc này bao gồm nhiều thao tác, như: tóm tắt, phân loại, xác lập các mối liên hệ, biểu

diễn bằng sơ đồ lô-gic, bằng bảng hệ thống kiến thức,... Do vậy, kĩ năng hệ thống hóa tri thức có
vị trí quan trọng trong lưu giữ thơng tin. Q trình tự học khơng phải chỉ thu nhận tri thức, mà
cần biến nó thành tri thức của bản thân. Quá trình này được thực hiện bởi các thao tác tri thức như
phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa. Như vậy, kĩ năng xử lí thơng tin trong
tự học liên quan mật thiết với các thao tác tư duy. Do đó việc bồi dưỡng kĩ năng xử lí thơng tin
khơng tách rời với việc bồi dưỡng kĩ năng sử dụng các thao tác tư duy, đó là cơ sở của bồi dưỡng
các năng lực tự học.
197


Vũ Thị Mai Hương Giang, Nguyễn Văn Sơn, Bùi Thị Quỳnh Nhung

Kĩ năng vận dụng tri thức vào thực tiễn: Tri thức có được, nếu khơng sử dụng thì cũng bị
quên dần. Do vậy, việc vận dụng tri thức vào thực tiễn vừa là mục đích của việc học, vừa là quá
trình bổ sung, mở rộng, đào sâu, làm giàu tri thức cá nhân. Vận dụng tri thức vào thực tiễn bao
gồm cả việc vận dụng kiến thức đã có để giải quyết các vấn đề học tập và việc vận dụng kiến thức
vào dạy học các bài hóa học phổ thơng. Các nhiệm vụ này có thể xếp vào các hoạt động như: làm
bài tập vận dụng, bài thực hành, thí nghiệm, thực nghiệm, viết báo cáo trình bày, thiết kế bài dạy,...
Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn là một yêu cầu quan trọng của phương pháp
giáo dục phổ thông được qui định trong Luật Giáo dục. Do đó các kĩ năng tự học của sinh viên
càng thể hiện sự liên hệ mật thiết và ảnh hưởng của phương pháp tự học với phương pháp dạy học
của giảng viên trong bài giảng trên lớp của mình.
Kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá: Tự kiểm tra, đánh giá là một kĩ năng quan trọng trong tự
học. Nhờ đó mà người học mới biết được trình độ tự học của mình đạt được mức độ nào và điều
chỉnh phương pháp tự học thích hợp, hiệu quả hơn. Việc kiểm tra phải được tiến hành thường
xuyên trong quá trình tự học, dưới nhiều hình thức như: tự trắc nghiệm bằng hệ thống câu hỏi trắc
nghiệm khách quan; trắc nghiệm tự luận, hoặc tự kiểm tra qua việc vận dụng kiến thức để giải
quyết các vấn đề học tập đặt ra,... Vì vậy, trong quá trình dạy học giảng viên ngoài việc kiểm tra
sinh viên, đồng thời quan tâm chú ý tổ chức cho sinh viên việc tự kiểm tra và đánh giá kết quả học
tập của mình [5], [8].


2.4.

Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên

Để có thể đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động tự học cho sinh viên ngành
bác sĩ đa khoa, chúng tôi tiến hành nghiên cứu thực trạng tự học của sinh viên ngành bác sĩ đa
khoa. Qua tiến hành khảo sát 667 sinh viên ngành bác sĩ đa khoa trường đại học Y Dược Thái
nguyên, chúng tôi thấy tính tự học của sinh viên chưa cao, cụ thể: Sinh viên chưa chủ động tự học
mà trông chờ vào tài liệu, nội dung câu hỏi, bài tập, chủ yếu học để thi chưa thực sự học để chiếm
lĩnh tri thức (37,9%); về chuẩn bị bài trước khi đến lớp: có 12,3% sinh viên khơng chuẩn bị bài
trước khi đến lớp, 58,5% sinh viên chỉ đọc qua tài liệu trước khi đến lớp; về cách học trên lớp chủ
yếu sinh viên đọc qua và ghi chép ý chính (39,1%), nguồn tư liệu sử dụng cho tự học chủ yếu là
giáo trình chính (52,9%); đa số sinh viên sử dụng thời gian tự học để đọc lại bài trên lớp và truy
cập internet, rất ít sinh viên chủ động làm bài tập do giảng viên yêu cầu (12,1%). Đánh giá về khả
năng tự học của bản thân, đa số sinh viên chưa biết cách tự học (49%), khó khăn chủ yếu trong
học tập là do kiến thức rộng, khó bao quát (47,8%) và thiếu hướng dẫn học tập (22,3%). Phần lớn
sinh viên cho rằng để nâng cao hiệu quả hoạt động tự học giảng viên cần trao đổi kĩ năng tự học
cho sinh viên (38,1%), về tổ chức dạy học, giảng viên cần tổ chức thảo luận, hướng dẫn thảo luận
cho sinh viên (35,4%). Đánh giá chung về hoạt động tự học của sinh viên trong toàn trường, đa số
sinh viên cho rằng chưa hiệu quả và đề xuất Nhà trường cần tổ chức các buổi thảo luận, hướng dẫn
về kĩ năng tự học cho sinh viên, cần quy định thời gian dành cho việc tự học cũng như nội dung
sinh viên cần tự học trong đề cương môn học và hướng dẫn sinh viên tự học trong các bài giảng
của các học phần, cần lồng ghép tuyên truyền kĩ năng tự học trong các câu lạc bộ sở thích, có các
hình thức khuyến khích, kiểm tra việc tự học của sinh viên.

2.5.

Biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động tự học cho sinh viên ngành bác
sĩ đa khoa


2.5.1. Nâng cao nhận thức về sự cần thiết và vai trò của việc tự học cho sinh viên
Nhận thức đúng đắn sẽ có tác dụng định hướng hành động cho sinh viên. Giáo dục cho sinh
viên ngành bác sĩ đa khoa nhận thức đúng đắn, đầy đủ về sự cần thiết và lợi ích của hoạt động tự
học; sinh viên ngành bác sĩ đa khoa, ngồi học tập lí thuyết, cịn phải thực hành các kĩ năng tiền
198


Hoạt động tự học của sinh viên ngành Bác sĩ đa khoa trường Đại học Y dược Thái Nguyên

lâm sàng tại phòng thực hành, thực hành tại bệnh viện, tại các cơ sở y tế, bên cạnh đó sinh viên
phải tham gia trực tại các bệnh viện thực hành, chính vì vậy các kĩ năng nghề nghiệp như kĩ năng
phân tích kết quả xét nghiệm, kĩ năng nhận định về bệnh lí, kĩ năng chẩn đốn bệnh, kĩ năng chăm
sóc bệnh nhân, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng giao tiếp cộng tác . . . là vô cùng cần thiết. Các kĩ
năng này sinh viên chỉ có thể thực hiện tốt thông qua việc tự học khi thực hành tại phòng thực
hành, khi thực hành và trực tại bệnh viện, khi khi thực tập cộng đồng . . . . khi hiểu rõ sự cần thiết
và lợi ích của hoạt động tự học với việc hoàn thành các nhiệm vụ học tập sẽ giúp cho sinh viên thật
sự tự giác, tích cực nghiên cứu tài liệu, tự học có hiệu quả, giúp sinh viên rèn luyện ý chí, phấn
đấu vươn lên để nâng cao kết quả học tập của mình.
Để làm tốt việc này, nhà trường cần tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, thảo luận về kĩ
năng học tập, kĩ năng tự học hiệu quả. Thông qua tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên, câu lạc
bộ sở thích, câu lạc bộ học thuật tiến hành tuyên truyền về vai trò của việc tự học và các kĩ năng
tự học hiệu quả. Cố vấn học tập cần lồng ghép tuyên truyền về hoạt động tự học, nhân rộng điển
hình tiên tiến trong hoạt động tự học thơng qua các buổi sinh hoạt lớp để nâng cao nhận thức về
hoạt động tự học trong sinh viên.

2.5.2. Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy
Nội dung bài giảng phải bám sát mục tiêu và chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo; Cần
cải tiến nội dung bài giảng, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng kích thích sinh viên tự học;
nội dung bài giảng không chỉ chứa đựng những kiến thức cơ bản, trọng tâm phù hợp với chương

trình đào tạo mà cịn phải được phát triển nâng cao. Mỗi bài giảng phải là một “hệ thống mở” về cả
nội dung và phương pháp có thể kích thích sinh viên hứng thú, tích cực tìm tịi, bổ sung nâng cao
kiến thức. Giờ lên lớp giảng viên cần lựa chọn kiến thức trọng tâm, cơ bản, phương pháp giảng dạy
là hướng dẫn sinh viên cách học, hỗ trợ sinh viên, không phải là truyền đạt kiến thức một chiều để
tạo ra nhu cầu, kích thích hứng thú học tập cho sinh viên. Giảng viên cần giao bài tập, hướng dẫn
nội dung, phương pháp sinh viên tự học, tự tìm kiếm nguồn thông tin áp dụng làm bài tập để sinh
viên chủ động chiếm lĩnh kiến thức, kích thích sự nỗ lực lĩnh hội kiến thức của sinh viên, Đổi mới
phương pháp giảng dạy theo hướng “lấy sinh viên làm trung tâm”. Nhà trường cần áp dụng các
phương pháp giảng dạy đảo chiều, phương pháp thảo luận nhóm, giao bài tập, thảo luận chuyên
đề, nghiên cứu ca bệnh . . . để phát triển tính tích cực, chủ động học tập của sinh viên.

2.5.3. Hướng dẫn các kĩ năng tự học cho sinh viên
Phương pháp học tập khoa học chính là cầu nối dẫn đến sự thành cơng. Cần hình thành cho
sinh viên kĩ năng tự học.
Kĩ năng lập kế hoạch học tập: Cần có kế hoạch và thời gian học hợp lí: Trong q trình tự
học, sinh sẽ gặp nhiều khó khăn giữa khối lượng kiến thức phải lĩnh hội với các khả năng chủ quan
(ý thức, năng lực tự học, điều kiện sức khoẻ. . . ) và các điều kiện khách quan (tài liệu, thời gian,
tổ chức tự học, . . . ) . . . Vì vậy, cần có kế hoạch học và thời gian tự học hợp lí, khoa học và phù
hợp với điều kiện học tập của chính mình. Để giải quyết được các khó khăn trên, đảm bảo tự học
có hiệu quả, sinh viên phải biết xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch sử dụng thời gian biểu
tự học khoa học và phù hợp với mình. Kế hoạch và thời gian biểu cần linh hoạt và có tính thực tế,
ngồi kế hoạch chung có kế hoạch riêng với mỗi sinh viên về tìm kiếm tài liệu ở thư viện, Internet,
làm thí nghiệm, thực hành. Kế hoạch và thời gian biểu tự học sau khi thiết kế xong, sinh viên cần
thực hiện nghiêm túc.
Học cách thức làm việc độc lập: Biết cách làm việc độc lập, cố gắng vượt khó; biết tập trung
tư tưởng cao khi học tập, loại trừ các tác động, khơng để ảnh hưởng bên ngồi làm phân tán đặc
biệt khi làm bài tập, thí nghiệm, thực hành tiền lâm sàng và lâm sàng; biết cách đọc và tự nghiên
cứu tài liệu giáo trình: sinh viên cần có ý thức hình thành phương pháp khoa học khi đọc và nghiên
199



Vũ Thị Mai Hương Giang, Nguyễn Văn Sơn, Bùi Thị Quỳnh Nhung

cứu giáo trình, đọc ghi chép, đối chiếu, vận dụng giải bài tập thì hiệu quả đọc sách nhất định sẽ
tăng lên. Việc đọc sách giúp cho sinh viên hoàn thiện, khắc sâu và mở rộng tri thức. Mặt khác
trong chính q trình đọc sách, sinh viên rèn luyện cách học, cách đọc, tài liệu khoa học, phân biệt
được cái đúng, cái sai và tỏ thái độ phê phán của bản thân.
Kĩ năng ghi chép cẩn thận: Ghi chép đầy đủ, ngắn gọn các thông tin theo ý hiểu của bạn sau
khi nghe được từ thầy cô, đọc được từ sách. Đừng cố ghi chép đủ từng từ mà thầy cô giảng. Khi
thực hành, cần ghi chép lại những ý kiến phản hồi từ thầy cô và bạn bè để làm cơ sở hoàn thiện các
kĩ năng của bản thân. Ghi chép, tích lũy tài liệu là điều kiện giúp cho sinh viên rèn luyện trí nhớ
và sử dụng một cách lâu dài cho hoạt động nghề nghiệp sau này.
Tài liệu học tập của sinh viên được tìm ở nhiều nguồn: trong các thư viện, ở các hiệu sách,
trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên Internet. . . giảng viên hướng dẫn sinh viên tìm kiếm,
khai thác, đọc giáo trình, tài liệu, hình thành tri thức là rất cần thiết. Sinh viên cần biết vận dụng
các kĩ năng tư duy, phát huy nỗ lực trong nhận thức, đọc tài liệu tóm tắt ý cơ bản, tìm ra các mối
liên hệ kiến thức để liên kết với bài dạy, ghi nhớ, khắc sâu kiến thức.
Đa dạng hóa cách học: Hãy đa dạng hóa cách học để ln “giữ lửa” cho tinh thần tự học
của mình. Tùy thuộc vào từng nội dung bài học và từng thời điểm học khác nhau mà sinh viên sử
dụng các cách học khác nhau.
Kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá. Tự kiểm tra đánh giá là kĩ năng cần thiết, giúp sinh viên
khẳng định kết quả học tập, tạo niềm tinvào bản thân, phát hiện kịp thời các sai lầm trong quá trình
tự học, từ đó có biện pháp khắc phục, điều chỉnh kịp thời quá trình học tập của bản thân.
Tham gia “Cộng đồng học tập”: “Cộng đồng học tập” trên mạng internet, là nơi các thành
viên có thể chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức. Sinh viên sẽ tìm được sự khích lệ, lời khuyên và
động cơ học tập từ bạn bè, thầy cô và những người khác. Tại đây, sinh viên cũng có thể tự đánh
giá kiến thức và mức độ tiến bộ của bản thân so với mục tiêu đặt ra. Ngồi ra, sinh viên cịn có thể
giúp đỡ người khác học, đó cũng là một cách học rất tốt cho bản thân.
Để hướng dẫn kĩ năng tự học hiệu quả, có thể thơng qua việc tổ chức các hoạt động ngoại
khóa, sinh hoạt chuyên đề, các buổi sinh hoạt lớp, sinh hoạt câu lạc bộ, lồng ghép vào các hoạt

động của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên. Bên cạnh đó, tự học cần được đưa vào trong đề cương
chi tiết học phần, các bộ môn cần quy định rõ thời gian, nội dung sinh viên cần phải tự học, đồng
thời hướng dẫn sinh viên cách tự học trong thơng qua giờ giảng trên lớp; cần có biện pháp kiểm
tra, giám sát và có chế độ khuyến khích sinh viên tự học.

2.5.4. Hướng dẫn sinh viên tổ chức hoạt động tự học
Tổ chức tạo thành từng nhóm tự học. Với nhóm tự học, sinh viên sẽ tự tin hơn, mạnh dạn
trao đổi, đề xuất, đưa ra chính kiến của mình, đồng thời hỗ trợ nhau khi làm thí nghiệm, cùng nhau
truy bài, cùng đánh giá nhau về thực hành lâm sàng, từ đó chia sẻ cho nhau ở bạn học trong nhóm,
trong lớp. Khi xây dựng nhóm tự học, cần giao nhiệm vụ cho mỗi sinh viên tự học, tự tìm kiếm
thơng tin, trả lời, tự chuẩn bị một vấn đề trước có thể là câu hỏi, ví dụ minh họa, hoặc tóm tắt nội
dung cơ bản của bài học, sau đó gặp nhau cùng trao đổi, tranh luận và đi đến thống nhất nội dung
tự học. Trong nhóm tự học tập các thành viên ngoài việc đọc, nghiên cứu giáo trình mơn học theo
u cầu để trao đổi nhóm thì đồng thời cần phải giao nhiệm vụ sưu tầm tư liệu, các phần mềm hỗ
trợ thí nghiệm ảo, các trị chơi hóa học, các bài tập thực tiễn,. . . hay các tài liệu liên quan với nội
dung học để trao đổi mở rộng, chia sẽ cùng các thành viên nhóm để cập nhật, bổ sung thêm thơng
tin mới cho nội dung học tập của mình. Để có được sản phẩm học tập chung của nhóm thì cần có
sự phân cơng nội dung cơng việc cho từng thành viên, nhóm nhỏ chuẩn bị nội dung học tập theo
yêu cầu như trình bày tóm tắt nội dung bài viết, số trang qui định, các minh họa bằng số liệu, hình
ảnh, thí nghiệm minh họa, mơ phỏng để mơ tả. Sau khi đã sắp xếp hoàn tất cơ bản sản phẩm học
200


Hoạt động tự học của sinh viên ngành Bác sĩ đa khoa trường Đại học Y dược Thái Nguyên

tập, cả nhóm tiếp tục trao đổi thống nhất nội dung, trình bày báo cáo dạng văn bản, trình chiếu
Powerpoint. Ngồi ra để chủ động trình bày kết quả chuẩn bị của nhóm, các thành viên cần thảo
luận xác định kiến thức trọng tâm, ví dụ minh họa, bài tập vận dụng, mối liên hệ với kiến thức đã
có và nêu ra được những vấn đề, câu hỏi để các nhóm khác trong lớp cùng trao đổi, thảo luận. Thời
gian tự học nhóm: Được tiến hành ngồi giờ lên lớp tùy vào thời gian phù hợp với các thành viên

trong nhóm. Địa điểm tổ chức tự học nhóm ở trên phịng học, giảng đường, kí túc xá, bệnh viện,
nhà riêng của một bạn trong nhóm,. . . Yêu cầu: Căn cứ vào thời khóa biểu của tuần mà nhóm xây
dựng kế hoạch học tập, từ 2 - 4 buổi/ tuần. Cuối tuần, nhóm trưởng báo cáo tình hình sinh hoạt của
nhóm cho cố vấn học tập, giảng viên phục trách học phần.
Nhà trường cần đầu tư cơ sở vật chất cho việc tự học như: Thư viện là nơi cung cấp sách
báo, tài liệu tham khảo để sinh viên tự tìm kiếm tri thức. Thư viện cũng là một địa điểm rất tốt
để sinh viên tự học, tự nghiên cứu. Để tổ chức cho sinh viên tự học ở thư viện cần: Đầu tư sách,
tàiliệu tham khảo phù hợp với nội dung chương trình dạy học ở trường đại học. Tổ chức hoạt động
thư viện hợp lí: mở cửa thư viện cả vào buổi tối. Thực hiện số hóa tài liệu để tiện cho việc tra cứu.
Đảm bảo môi trường sạch sẽ, thống mát, sắp xếp chỗ ngồi hợp lí trong thư viện, chú trọng dịch
vụ in ấn, internet, dịch vụ giải khát. . . Nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin để đảm bảo đường
truyền internet, bổ sung máy tính, phòng tự học để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tự học của sinh
viên.

3.

Kết luận

Hoạt động tự học của sinh viên nói chung, sinh viên ngành bác sĩ đa khoa Trường Đại học
Y Dược Thái Nguyên nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình dạy học.
Chất lượng đào tạo của nhà trường được thể hiện ở sản phẩm đào tạo là sinh viên, vì vậy hoạt động
học tập của sinh viên cần được quan tâm đúng mức, có biện pháp thiết thực để giúp sinh viên học
tập tốt, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và vị thế của nhà trường. Tuy nhiên, hoạt động tự
học của sinh viên còn nhiều hạn chế, sinh viên chưa chủ động trong học tập tập, còn quen với việc
tiếp thu kiến thức có sẵn từ thầy, sự nhận thức về tự học của sinh viên chưa sâu sắc, nên chưa có
phương pháp tự học và kĩ năng tự học hiệu quả. Bên cạnh đó, một số giảng viên chưa thực sự quan
tâm bồi dưỡng, hướng dẫn, tổ chức, rèn luyện kĩ năng tự học cho sinh viên; phương pháp dạy chủ
yếu là thuyết giảng chưa tạo nhiều cơ hội cho sinh viên tự tìm tịi và khám phá. Xuất phát từ nghiên
cứu cơ sở lí luận về hoạt động tự học của sinh viên ngành bác sĩ đa khoa, đề tài đưa ra các biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên; Nhà trường cần nâng cao nhận thức

cho sinh viên về vai trò và tầm quan trọng của hoạt động tự học, từ nhận thức đúng đắn sẽ giúp
sinh viên hình thành ý thức tự giác, tích cực, độc lập sáng tạo, thói quen tự học, tự nghiên cứu;
thực hiện bồi dưỡng năng lực tự học cho sinh viên, bồi dưỡng cho sinh viên phương pháp tự học
đúng đắn và khoa học; hướng dẫn sinh viên tổ chức các hoạt động học tự học. Giảng viên đóng
vai trị quan trọng hàng đầu trong việc định hướng và kích thích ý thức tự học cho sinh viên; giảng
viên phải đổi mới phương thức tổ chức dạy học và đòi hỏi cao hơn tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của sinh viên trong việc thực hiện nhiệm vụ học tập của mình, từ đó giúp sinh viên có năng lực tự
học và học tập suốt đời - một trong những năng lực quan trọng của người bác sĩ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

Lê Khánh Bằng, 2001. Học cách tự học trong thời đại ngày nay. Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[2]

Chernilevski D, 2002. Công nghệ giảng dạy ở bậc đại học. Nxb UNITY.

[3]

Vũ Quốc Chung, Lê Hải Yến, 2004. Để tự học có hiệu quả. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
201


Vũ Thị Mai Hương Giang, Nguyễn Văn Sơn, Bùi Thị Quỳnh Nhung

[4]

Trần Thị Minh Hằng, 2011. Tự học và yếu tố tâm lí cơ bản trong tự học của sinh viên Sư
phạm. Nxb Giáo dục Việt Nam.


[5]

Võ Thị Lan, 2007. Một số biện pháp phát huy hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên mầm
non Trường Đại học Đồng Tháp. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

[6]

Nguyễn Cảnh Toàn, 2001. Tuyển tác phẩm tập 1: Tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu. Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, Trung tâm văn hóa ngơn ngữ Đơng Tây.

[7]

Nguyễn Cảnh Tồn (Chủ biên), Nguyễn Kì, Lê Khánh Bằng, Vũ Văn Tảo, 2004. Học và dạy
cách học. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

[8]

Nguyễn Cảnh Toàn (Chủ biên), Nguyễn Kì, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường, 2001. Quá trình dạy tự học. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
ABSTRACT

Self-studying of medical students at Thai Nguyen University of Medicine and Pharmacy
Vu Thi Mai Huong Giang, Nguyen Van Son, Bui Thi Quynh Nhung
Thai Nguyen University of Medicine and Pharmacy
Society is moving and developing that requires everyone to move on to keep up with
the development of the society. For students following credit system training, self-studying
and self-learning play an important role in acquiring subject knowledge as well as developing
one’s capabilities, mostly under the guidance of lecturers. Especially for the medical students,
the updated knowledge, new techniques in medicine are essential. The article proposes four
measures to improve the efficiency of studying for students of general practitioners including: 1)
Improving awareness about the need and role of student self-study; 2) Reforming the content and

methods of teaching; 3) Introducing study skills for students; 4) Guiding students how to organize
self-studying activities.
Keywords: Self-studying, measures, students, general practitioners.

202



×