Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Quản lý hành chính công Hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay (Luận văn Thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.26 KB, 84 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TP.HCM

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUN NGÀNH: QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CƠNG
ĐỀ TÀI:
Hồn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

GVHD : PGS.TS.Ngô Hữu Thảo
HVTH : Hà Thị Xuyên


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHG
CNH-HĐH
CNLĐ
CNXH
CSVN
GHPG
HĐND
HTCT
MTTQ
QLNN
TCN
UBĐK
UBND
UBTV
UBTVQH
XHCN

Ban Hành giáo


Cơng nghiệp hố - Hiện đại hố
Cơng nhân lao động
Chủ nghĩa xã hội
Cộng sản Việt Nam
Giáo hội Phật giáo
Hội đồng nhân dân
Hệ thống Chính trị
Mặt trận Tổ quốc
Quản lý nhà nước
Trước Cơng ngun
Uỷ ban Đoàn kết
Uỷ ban nhân dân
Uỷ ban Thường vụ
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

Trang
1
6


ĐỐI VỚI TƠN GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TƠN GIÁO
Ở TỈNH BẮC NINH
1.1


NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ QLNN ĐỐI VỚI TƠN

6

GIÁO

1.1.1 Nhận thức chung về tơn giáo
1.1.2 Quản lý nhà nước đối với tơn giáo
1.2

TÌNH HÌNH TƠN GIÁO Ở BẮC NINH

1.2.1 Một số đặc điểm của tỉnh Bắc Ninh liên quan đến tơn giáo
1.2.2 Tình hình tơn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Chương 2

6
11
19
19
21
29

CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN GIÁO
Ở BẮC NINH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

2.1

SỰ CHỈ ĐẠO CỦA TỈNH UỶ, UBND TỈNH VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY


29

LÀM CÔNG TÁC QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH

2.1.1 Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo công tác Tôn giáo
2.1.2 Tổ chức bộ máy làm công tác QLNN về tôn giáo ở Bắc Ninh
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
2.2

29
33
35

TÔN GIÁO Ở BẮC NINH

2.2.1 Quản lý về hoạt động xây dựng, trùng tu, sửa chữa cơ sở thờ tự
2.2.2 Quản lý đối với việc phong chức, phong phẩm và hoạt động
thuyên chuyển của các chức sắc
Quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng chức sắc
Công tác quản lý đối với các hoạt động từ thiện, nhân đạo
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
Quản lý hoạt động truyền đạo trái pháp luật
Quản lý các hoạt động khác
Công tác phối hợp

2.2.3
2.2.4
2.2.5
2.2.6
2.2.7

2.2.8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO CÔNG TÁC QLNN ĐỐI VỚI TÔN
2.3

35
37
38
39
41
42
43
43
47

GIÁO Ở BẮC NINH

2.3.1 Vấn đề đặt ra từ phương diện khách thể quản lý
2.3.2 Vấn đề đặt ra từ phương diện chủ thể quản lý
Chương 3

47
50
53

DỰ BÁO TÌNH HÌNH, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QLNN
ĐỐI VỚI TÔN GIÁO Ở BẮC NINH

3.1


DỰ BÁO TÌNH HÌNH TƠN GIÁO VÀ U CẦU ĐỐI VỚI CƠNG

53

TÁC QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH THỜI GIAN TỚI

3.1.1 Dự báo tình hình các tơn giáo ở Bắc Ninh
3.1.2 Một số yêu cầu từ xu hướng tôn giáo ở Bắc Ninh đối với QLNN
về tôn giáo ở Bắc Ninh

53
55


3.2

GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC

57

QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH

3.2.1 Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm

57

của HTCT về công tác tôn giáo và QLNN đối với tôn giáo
3.2.2 Công tác quản lý nhà nước cần tăng cương, tập trung hơn nữa tới

58


các hoạt động có tính trọng điểm, phức tạp của tôn giáo trên địa
bàn
3.2.3 Công tác QLNN cần quan tâm hơn đến công tác vận động quần

61

chúng, tín đồ, chức sắc các tơn giáo và xây dựng lực lượng chính
trị ở cơ sở
3.2.4 Tăng cường cơng tác tổ chức cán bộ, công chức làm công tác

65

QLNN về tơn giáo
3.2.5 Xây dựng và hồn thiện phương pháp công tác tôn giáo và QLNN

68

về tôn giáo
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3
3.3.1 Đối với Trung ương
3.3.2 Đối với tỉnh Bắc Ninh
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

69
69
71
74

75


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tơn giáo khơng chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã
hội, ra đời và phát triển từ cả ngàn năm nay. Từ khi ra đời, tôn giáo đã trải qua những
thăng trầm và không ngừng biến đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội, nhưng chung
nhất, nó ln là một nhu cầu tinh thần của đa số nhân loại. Trong quá trình tồn tại và
phát triển, tơn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đến
tập quán của nhiều quốc gia, của các tộc người trong một quốc gia, theo cả các chiều:
tích cực và tiêu cực. Những năm gần đây, tôn giáo trên thế giới không chỉ phục hồi và
phát triển, đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người, mà còn làm nảy sinh khơng ít
cuộc xung đột giữa các dân tộc trong một quốc gia, hay giữa các quốc gia với nhau.
Ở Việt Nam cũng vậy, là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tơn giáo
đang có xu hướng phát triển mạnh, đến nay - năm 2011, Nhà nước ta đã công nhận tư
cách pháp nhân cho 13 tôn giáo, với 33 tổ chức Giáo hội. Trong đó, các tơn giáo bản
địa (nội sinh) và các tôn giáo được du nhập từ nước ngoài vào (ngoại sinh) đều được
tạo điều kiện bình đẳng hoạt động theo pháp luật. Tình hình đó như là sự phản ánh về
q trình đất nước đổi mới, Việt Nam đã có sự phát triển khá mạnh mẽ trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân được
cải thiện rõ rệt, vì thế tơn giáo càng được khẳng định rõ hơn, là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân.
Nhưng, bên cạnh những sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo, lễ hội lành mạnh, tn
thủ pháp luật, thì vẫn cịn có hiện tượng một số người lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo
để hành nghề mê tín dị đoan, mê hoặc nhân dân, cao hơn, phá hoại khối đại đồn kết
tồn dân tộc... Trước tình hình đó, cơng tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo càng cần phải được tăng cường, không chỉ trên bình diện vĩ mơ mà cịn ở các

khu vực, các địa phương trong cả nước.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng và có
ý nghĩa quyết định sự thành bại của cơng tác tơn giáo trong tình hình mới. Các Nghị


2
quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo đều nhấn mạnh đến vai trị của cơng tác
này và việc: “Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo” là một trong những giải
pháp chủ yếu của công tác tôn giáo hiện nay.
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc miền Bắc nước ta, là cửa ngõ phía Bắc của Thủ đơ
Hà Nội. Tỉnh Bắc Ninh mặc dù có diện tích khơng lớn, nhưng dân số lại đơng và có
vị trí địa lý chính trị quan trọng, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của đồng bằng
Châu thổ Sơng Hồng, có nguồn nhân lực dồi dào và là tỉnh vốn có truyền thống ngàn
năm văn hiến và cách mạng.
Số lượng và quy mô tôn giáo ở Bắc Ninh cũng không lớn, song lại là vị trí “địa
tơn giáo” rất quan trọng. Đó là, về đạo Cơng giáo, Bắc Ninh có Tồ Giám mục, là
trung tâm, đầu não của Giáo phận Bắc Ninh, gồm 12 tỉnh khác nhau. Còn Phật giáo,
Bắc Ninh từng có trung tâm Luy Lâu mà gần hai nghìn năm trước đã được xem là
một trung tâm Phật giáo lớn, bằng hoặc hơn cả trung tâm Phật giáo Lạc Dương và
Bành Thành của Trung Quốc, còn đến nay, tên chùa Dâu, Keo, Phật Tích vẫn nức
tiếng tồn cõi Việt Nam. Hiện nay bên cạnh 2 tơn giáo chính là Phật giáo và Công
giáo, trên địa bàn Bắc Ninh đã xuất hiện cả đạo Tin Lành, một tôn giáo được xem là
tôn giáo của thời CNH, HĐH.
Trong những năm qua tình hình tơn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh ổn định, sinh hoạt tôn giáo và đời sống tín ngưỡng, tơn giáo diễn ra bình thường
đúng với chủ trương, chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước. Đại bộ phận chức
sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo trong tỉnh an tâm, phấn khởi, tin tưởng vào sự
nghiệp đổi mới của Đảng, về những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, các hoạt động từ thiện, nhân đạo, xây
dựng gia đình văn hố ở khu dân “sống tốt đời, đẹp đạo”, tích cực thực hiện thắng lợi

các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tuy nhiên, tình hình tơn giáo trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh cũng nổi lên một số vấn đề có tính phức tạp. Đó là, hoạt động mê tín, dị
đoan diễn ra khá phổ biến; một số cơ sở thờ tự của tôn giáo chưa tuân thủ các quy
định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo, Luật Di sản và của các quy định của tỉnh.
Khi xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, tổ chức tôn giáo vẫn thiếu hồ sơ xin phép; triển
khai khi chưa được sự đồng ý của các cơ quan có thẩm quyền. Tình hình khiếu kiện


3
đòi lại đất đai, cơ sở cũ của giáo hội còn tiềm ẩn dấu hiệu phức tạp; hoạt động truyền
đạo Tin lành trái phép và các đạo lạ trên địa bàn tỉnh vẫn xảy ra.
Công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh những năm
qua đã có nhiều tiến bộ, đạt được một số kết quả nhất định. Nhưng bên cạnh đó, cơng
tác này cũng còn một số hạn chế, như: Một bộ phận cán bộ đảng viên nhận thức về
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với tơn giáo cịn hời hợt; sự phối hợp
giữa các cấp, các ngành còn thiếu tập trung và đồng bộ; việc giải quyết các vấn đề
liên quan đến tơn giáo cịn kéo dài, gây tâm trạng phản cảm cho quần chúng tín đồ,
chức sắc tơn giáo. Việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tơn giáo của
chính quyền nhiều lúc, nhiều nơi cịn cứng nhắc.
Từ thực tế tình hình trên, tơi chọn để tài: “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay”, để làm luận văn thạc sỹ
quản lý hành chính cơng.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo trong thời gian
qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu. Đó là: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay”
của PGS.TS Nguyễn Hữu Khiển; "Một số vấn đề cấp bách trong quản lý tôn giáo ở
một số tỉnh phía Bắc" của GS.TS Đỗ Quang Hưng; “Mác-Angghen về tôn giáo” của
PGS. Nguyễn Đức Sự chủ biên); “Một số vấn đề lý luận và thực trạng tôn giáo Việt
Nam” của GS. Đặng Nghiêm Vạn; Mối quan hệ giữa chính trị và tơn giáo trong thời

kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, PGS, TS Ngô Hữu Thảo, chủ nhiệm (1998); Cuốn sách
“Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam lý luận và thực tiễn" của GS.TS Đỗ
Quang Hưng; “Một số tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” của TS. Nguyễn Thanh Xuân;
“Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam” của TS.Nguyễn Đức Lữ; Đề tài cấp Bộ “55 năm
đường lối chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam (1945-2000)” của
Ban Tơn giáo Chính phủ; Đề tài cấp Bộ “Công tác an ninh trong quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam” của Bộ Công an...


4
Những cơng trình trên đề cập đến nhiều khía cạnh, cả lý luận và thực tiễn của
vấn đề quản lý tôn giáo, song cụ thể ở địa bàn Bắc Ninh thì chưa có.
Ở tỉnh Bắc Ninh, vì nhiều lý do khác nhau nên hiện nay vấn đề nâng cao hiệu
quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tơn giáo hãy cịn rất ít đề tài đi sâu
nghiên cứu, nếu có thì thời điểm nghiên cứu đã khá lâu, trước khi có Pháp lệnh tín
ngưỡng, tơn giáo, như luận văn cao cấp lý luận chính trị của Nguyễn Quang Khải,
năm 2004. Vì vậy, hướng đề tài mà tơi lựa chọn hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn về vấn đề
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu:
Luận văn từ việc khái quát những nhận thức chung về tôn giáo, về quản lý nhà
nước đối với tôn giáo và phân tích thực trạng cơng tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian qua, đề xuất một số giải
pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với tôn giáo.
- Đánh giá được thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở Bắc Ninh trong thời gian qua.

- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước về tôn giáo ở Bắc Ninh trong tình hình mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
ở tỉnh Bắc Ninh. Phạm vi nghiên cứu, về không gian, là địa bàn tỉnh Bắc Ninh; về
thời gian là từ khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo (năm 2004), đến nay.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn:
Luận văn được triển khai dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và quản lý nhà


5
nước đối với hoạt động tôn giáo. Luận văn cũng xuất phát từ thực tiễn công tác quản
lý nhà nước đối với tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh thời gian qua.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Triển khai luận văn này, tác giả sử dụng những nguyên tắc phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng các
phương pháp của các khoa học cụ thể, như tổng hợp và phân tích, khái qt hố,
thống kê, so sánh, lịch sử và lơgic, xã hội học, tơn giáo học.
6. Đóng góp mới của luận văn
6.1. Về mặt lý luận:
Bước đầu luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối
với tơn giáo; khái qt mang tính lý luận từ thực tiễn công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo ở Bắc Ninh.
6.2. Về mặt thực tiễn:
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để xây đựng chủ
trương, biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
Bắc Ninh và các tỉnh vùng đồng bằng miền Bắc có tình hình tơn giáo tương tự với
Bắc Ninh.

- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập tại trường
Chính trị tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.


6
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
TƠN GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TƠN GIÁO Ở TỈNH BẮC NINH
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN
GIÁO

1.1.1. Nhận thức chung về tơn giáo
Tơn giáo, theo tiếng Latinh (Religare) có nghĩa là sự nối liền với cái tột cùng,
như sự gắn bó với Chúa, với Thượng đế; hoặc được hiểu là sự phản ánh mối quan hệ
giữa con người với thần thánh; giữa thế giới vơ hình với thế giới hữu hình; giữa cái
thiêng liêng với cái trần tục.
Theo quan điểm mác-xít, tơn giáo khơng chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà
còn là một thực thể xã hội. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo phản
ánh hư ảo tồn tại xã hội, có kết cấu gồm: Tâm lý, tình cảm, niềm tin và hệ tư tưởng
tơn giáo. Cịn với tính cách là một thực thể, hay một hiện tượng xã hội, tôn giáo thuộc
thượng tầng kiến trúc xã hội, được quy định bởi hạ tầng cơ sở xã hội. Cụ thể hơn, tôn
giáo ra đời từ 3 nguồn gốc: Kinh tế - xã hội, nhận thức và tâm lý. Là một hiện tượng
xã hội, kết cấu của tôn giáo bao gồm cả yếu tố vật chất và tinh thần, mà thông thường
là các yếu tố: ý thức (giáo lý), nghi lễ, luật lệ và tổ chức.
Cũng cần phân biệt tôn giáo với tín ngưỡng và mê tín dị đoan. Tơn giáo và tín
ngưỡng có sự khác nhau, song có quan hệ chặt chẽ, mà ranh giới để phân biệt chỉ là
rất tương đối. Tín ngưỡng có các nghĩa rộng, hẹp khác nhau, nghĩa rộng, đó là niềm

tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một lực lượng, một điều gì
đó, thơng thường để chỉ một niềm tin tơn giáo; nghĩa hẹp là các hình thức khác với
tơn giáo, như người Việt Nam thường gọi “tín ngưỡng dân gian”. Cịn mê tín dị đoan,
đó là tình trạng người ta quá tin vào cái siêu nhiên, đến mất lý trí, mê muội, tốn tiền
của và huỷ hoại sức khoẻ, thậm chí cả sinh mạng, vậy nên “Hoạt động mê tín phải bị
phê phán và loại bỏ”. [13]


7
Quan điểm mác - xít về tơn giáo khơng dừng lại ở vấn đề bản chất, nguồn gốc,
chức năng và tính chất của nó, mà cịn rất quan tâm đến việc chỉ ra thái độ, nguyên
tắc của người cộng sản khi tiếp cận, giải quyết những vấn đề tôn giáo.
Về thái độ của người cộng sản đối với tôn giáo, mặc dù cho rằng, thế giới
thống nhất ở tính vật chất, ngồi ra khơng có thế giới nào khác ngồi vật chất đang
tồn tại và đương nhiên khơng có thần thánh, ma quỷ nào tồn tại ngoài những đam mê
và dục vọng của chính con người, thế nhưng Chủ nghĩa Mác - Lênin không bao giờ
chủ trương tuyên chiến với tôn giáo, mà ngược lại luôn tôn trọng niềm tin tơn giáo
của nhân dân. C.Mác từng nói, kẻ nghịch đạo không phải là kẻ phỉ báng thần thánh
của quần chúng mà chỉ là người đồng tình với quan điểm quần chúng, người sáng tạo
ra thần thánh.
Có một số người cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin mâu thuẫn tuyệt đối với đức
tin tơn giáo, do đó khơng có thể dung hợp giữa chủ nghĩa xã hội và tôn giáo và lập
luận này là khơng đúng, vì đã chủ quan đẩy mâu thuẫn, từ mâu thuẫn ở phương diện
nhận thức - không đối kháng, trở thành mâu thuẫn đối kháng.
Lý tưởng của những người cộng sản là xây dựng “Thiên đường” nơi trần thế
bằng bàn tay và khối óc của chính con người. Tuy vậy, người cộng sản khơng hề có
chủ trương phủ nhận tơn giáo mà thừa nhận nó như một nhu cầu tất yếu của một bộ
phận nhân dân trong tiến trình phát triển của lịch sử. Hơn nữa, tơn giáo và chủ nghĩa
xã hội có điểm tương đồng là đều mong muốn có một xã hội hạnh phúc, công bằng,
bác ái, lấy điều thiện thắng điều ác.

“Đối với chúng ta, sự thống nhất của cuộc đấu tranh thật sự cách mạng đó của
giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc trên trái đất, là quan trọng hơn sự
thống nhất ý kiến của những người vô sản về cảnh cực lạc trên thiên đường” [80,
tr.174 ]. Rồi nữa, “Trong cương lĩnh của chúng ta, chúng ta không tuyên bố và chúng
ta không nên tuyên bố chủ nghĩa vô thần của chúng ta... Khắp nơi bọn tư sản phản
động đã chú trọng... khêu lên những sự thù hằn tôn giáo, để làm cho quần chúng chú
ý về phía đó, khiến họ khơng để ý đến những vấn đề chính trị và kinh tế thật sự quan
trọng và chủ yếu, những vấn đề mà giai cấp vơ sản tồn nước Nga, thực tế đồn kết lại


8
với nhau trong cuộc đấu tranh cách mạng của mình, hiện đang giải quyết” [80, tr.174175 ].
C.Mác và Ph.Ăng ghen từng căn dặn người cộng sản: “Khơng thể đả kích tơn
giáo dưới hình thức thù địch cũng như dưới hình thức khinh bạc, chung cũng như
riêng. Nghĩa là, nói chung khơng được đả kích vào nó”. [20, tr. 23]
Sau này, Lênin cũng viết: “Cịn như tun chiến với tơn giáo, coi đó là nhiệm
vụ chính trị của đảng cơng nhân, thì đó chỉ là một luận điệu vơ chính phủ chủ nghĩa”.
[81, tr.511.]
Vậy, theo chỉ dẫn của các nhà kinh điển mác - xít, Nhà nước của giai cấp vơ
sản nên xem tôn giáo là việc tư nhân, nghĩa là không nên phê phán những vấn đề
thuộc thế giới bên kia. Chuyện có thiên đường địa ngục, thần này thánh khác là vấn
đề của thần học, của tôn giáo. Nhưng với tư cách là chủ thể quản lý xã hội, trong đó
có tơn giáo, thì Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn trên 2 vấn đề liên quan đến
tôn giáo, đó là Pháp luật và chính trị.
Theo chỉ dẫn đó, trong tiến trình cách mạng Việt Nam, nhà nước ta chưa bao
giờ có chủ trương tiêu diệt tơn giáo, phủ nhận thượng đế của người có đạo, mà ln
tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, nghiêm cấm phân biệt sự đối xử vì lý do tín
ngưỡng, tơn giáo.
Vậy khi giải quyết vấn đề tôn giáo, chúng ta cần phải đứng vững trên những
nguyên tắc nào? Về điều này, theo quan điểm mác - xít, được khái quát trên 4 nguyên

tắc sau:
Một: Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tơn giáo phải gắn liền với
q trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Nguyên tắc này xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử khi nhận thức và tác
động vào tơn giáo. Theo đó, trước hết phải “Xố bỏ tình trạng nơ lệ về mặt kinh tế,
nguồn gốc thật sự của sự mê hoặc nhân loại bằng tơn giáo” [80, tr. 175]. Hay nói cách
khác, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội;
muốn xoá bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xoá bỏ nguồn gốc
sinh ra ảo tưởng ấy; phải xác lập được một xã hội hiện thực khơng có áp bức, bất
cơng, nghèo đói và thất học... cùng các tệ nạn nảy sinh trong nó. Tất nhiên việc cải


9
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là một q trình lâu dài, địi hỏi phải khai thác và
phát huy tiềm năng của mọi cộng đồng xã hội, trong đó có đồng bào các tơn giáo.
Hai: Tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của
nhân dân.
Các nhà kinh điển Mác - xít quan tâm khơng chỉ tơn trọng quyền tự do tín
ngưỡng, mà cịn cả quyền tự do khơng tín ngưỡng. Tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng
và khơng tín ngưỡng sẽ bảo đảm quan hệ tốt đẹp giữa những người vô thần và hữu
thần, giữa những người có tín ngưỡng tơn giáo khác nhau. Nội dung căn bản của
quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng là:
- Mọi cơng dân có quyền theo đạo, truyền đạo hoặc bỏ đạo; được hồn tồn tự
do theo tơn giáo mình thích hoặc khơng theo một tôn giáo nào.
- Tất cả mọi công dân có tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng đều bình đẳng về
nghĩa vụ và quyền lợi.
- Tất cả mọi tôn giáo được cơng nhận tư cách pháp nhân đều bình đẳng như
nhau. Nhà nước không coi tôn giáo nào là quốc đạo.
Tuy nhiên cần chú ý rằng: Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng đồng thời phải
chống lại những kẻ lợi dụng tơn giáo vì mục đích phi tơn giáo, mặt khác, khơng dung

túng cho những kẻ hành nghề mê tín dị đoan.
Ba: Có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tơn giáo.
Ngun tắc này có một ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Nó địi hỏi chủ thể lãnh đạo,
quản lý xã hội khi giải quyết vấn đề tôn giáo phải phù hợp với không gian, thời gian
cụ thể, như Lênin đã nhắc nhở: “Người mác - xít phải biết chú ý đến tồn bộ tình hình
cụ thể” [81, tr. 518]
Bốn: Cần phân biệt hai mặt: nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo và việc chính trị lợi
dụng tín ngưỡng, tơn giáo.
Việc phân biệt vấn đề chính trị và tư tưởng trong các hoạt động tôn giáo trên
thực tế là vấn đề khơng đơn giản, nhưng lại địi hỏi phải phân biệt rõ, từ đó mới có
giải pháp chính xác. Trong đó, mặt nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo phải được giải quyết
bằng chính sách tự do tín ngưỡng, tơn giáo; cịn mặt chính trị lợi dụng tín ngưỡng,
tơn giáo phải được giải quyết bằng giải pháp chính trị. Việc áp dụng lẫn lộn các loại


10
giải pháp, cũng như tuyệt đối hoá một loại giải pháp nào đó đều là tai hại cho cả tơn
giáo và cho chính trị cầm quyền.
Kế thừa và vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng đặc sắc về vấn đề này.
Trước hết cần thấy, tư tưởng của Người về tín ngưỡng, tơn giáo là sự vận dụng
sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt
Nam. Với Người, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” [46, tr.268]. Nhưng,
xuất phát từ đặc điểm lịch sử, văn hoá của dân tộc Á - Đơng, Hồ Chí Minh cho rằng:
“C.Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân
loại... Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc
học phương Đơng. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô viết đảm nhiệm (ban thuộc địa
của chúng tôi vừa nhận được thư mời chúng tôi tham gia công tác này)” [45, tr.465].
Cũng trên quan điểm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí

Minh ln nhấn mạnh đến việc phải xây dựng một xã hội tiến bộ thì mới có thể giải
quyết được vấn đề tơn giáo một cách tốt đẹp. Từ chỗ nhấn mạnh: Tôn giáo không hề
đối lập với CNXH, Người đã chăm lo chu đáo đến đồng bào có tơn giáo theo tinh
thần “phần xác no ấm, phần hồn thong dong”.
Trong ứng xử với tín đồ, chức sắc tơn giáo, Người thể hiện nổi bật tư tưởng
hồ hợp, khoan dung, đó là sự cảm thông, chấp nhận và tôn trọng cái dị biệt, miễn là
khơng trái với lợi ích chung của dân tộc, từ đó mà đạt được mục tiêu tương đồng.
Chính vì thế, đồng bào Phật tử thấy Hồ Chí Minh như "Hiện thân" của vị “Bồ tát
Quán Thế Âm” vì "nhân duyên" dân tộc Việt Nam đau thương "trầm luân" trong nỗi
nhục mất nước ở cõi "Sha- bà" mà xuống cứu khổ cứu nạn. Ngày nay, trong Phật giáo
và trong xã hội Việt Nam, tên Hồ Chí Minh được gán với quả vị Phật giáo, là Bồ tát
Hồ Chí Minh. Cịn đồng bào đạo Công giáo và đạo Tin lành luôn khâm phục và cảm
động về việc, Người đã nguyện hy sinh cho Việt Nam độc lập, cho thế giới hoà bình,
nên thấy Người như bóng dáng của "Đức Chúa Ki-Tơ” hy sinh thân mình để cứu
chuộc nhân loại.


11
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo với tính cách là những quan điểm, nguyên
tắc, tác giả khái quát như sau:
Thứ nhất, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc, tôn giáo với
cách mạng và tơn giáo với giai cấp, đó phải là nội dung cốt lõi trong chủ trương,
chính sách tơn giáo của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, ln phải có tinh thần vận dụng, phát triển nguyên lý chủ nghĩa Mác Lênin và tham khảo kinh nghiệm của các nước khác về vấn đề tơn giáo, xem đó là cơ
sở quyết định cho việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách tôn giáo phù hợp
với từng giai đoạn cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, tơn trọng tự do tín ngưỡng phải đi đôi với đấu tranh chống mọi âm
mưu lợi dụng tôn giáo; phải khắc phục những mặc cảm tôn giáo, những hành vi làm
tổn thương đến tình cảm quần chúng tín đồ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo đã bổ sung cho Chủ nghĩa Mác - Lênin và

nó có sức sống từ thực tiễn của đất nước, dân tộc ta, để người cộng sản Việt Nam có
thái độ mềm mại hơn, khách quan hơn đối với tôn giáo.
1.1.2. Quản lý nhà nước đối với tôn giáo
1.1.2.1. Khái niệm "Quản lý nhà nước" và “Quản lý nhà nước đối với tôn
giáo”
Khái niệm “quản lý nhà nước” được hiểu ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của Nhà nước, sử
dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của
con người do tất cả các cơ quan Nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp) tiến hành
để thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội.
Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước là dạng quản lý xã hội mang quyền lực Nhà
nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ
quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, UBND các cấp).
Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước của Học viện Hành chính quốc gia đã
nêu: QLNN là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp
nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước; là dạng quản lý xã hội


12
mang tính quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các
quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người [38].
Vậy, chủ thể QLNN là các cá nhân hay tổ chức mang quyền lực Nhà nước tác
động tới đối tượng quản lý. Cịn đối tượng QLNN là tồn bộ cơng dân Việt Nam và
những người không phải là công dân Việt Nam đang sống, làm việc trên lãnh thổ Việt
Nam cùng toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ các khái niệm quản lý nhà nước như trên, khái niệm quản lý nhà nước đối
với tôn giáo cũng được hiểu theo hai nghĩa, rộng và hẹp.
Nghĩa rộng: Đó là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo qui định của pháp luật để tác động,
điều chỉnh, hướng các q trình tơn giáo và hành vi hoạt động tơn giáo của tổ chức,

cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể quản lý.
Nghĩa hẹp: Đó là q trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật
của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và UBND các cấp) để điều
chỉnh các q trình tơn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân
tôn giáo diễn ra theo đúng qui định của pháp luật.
Theo đó, QLNN đối với tơn giáo ở cả 2 nghĩa rộng, hẹp, đều tập trung, trước
hết và chủ yếu là quản lý các “hoạt động tôn giáo”. Cụ thể hơn, đó là các hoạt động
tơn giáo liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt
động đó là gì? Về việc này, tại khoản 5, điều 3 Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo đã nêu:
“Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ
chức của tôn giáo”[77, tr.2].
Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền những
lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền đạo, niềm tin tôn
giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ của tơn giáo được các tín đồ thực hiện. Cịn
người chưa phải là tín đồ, hoạt động truyền đạo giúp họ hiểu, tin và theo tơn giáo.
Vậy, hoạt động truyền đạo chính là để củng cố và phát triển tín đồ. Tất nhiên, việc
truyền đạo phải tuân thủ các quy định của pháp luật và nội dung, phương pháp truyền
đạo phải đúng với giáo lý của tơn giáo đó.


13
Thực hành giáo luật, lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín đồ,
chức sắc, nhà tu hành tôn giáo thể hiện sự tuân thủ nghiêm ngặt những quy định,
phép tắc, thoả mãn đức tin tôn giáo của cá nhân hay cộng đồng tín đồ.
Hoạt động quản lý tôn giáo là các tổ chức, giáo hội tôn giáo thực hiện các quy
định của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy
trì trật tự, hoạt động trong tổ chức tơn giáo.
Trong các hoạt động đó, việc phân định ranh giới giữa hoạt động truyền đạo
với hoạt động hành đạo cũng chỉ là tương đối, có khơng ít trường hợp trong hoạt
động hành đạo có hoạt động truyền đạo.

Từ đó chúng ta thấy, chủ thể QLNN về tôn giáo nếu theo nghĩa rộng của khái
niệm, thì đó là các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống lập pháp, hành pháp và tư pháp;
cịn theo nghĩa hẹp, nó chỉ gồm các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống hành pháp các
cấp.
Còn khách thể QLNN đối với tơn giáo, đó là hoạt động tơn giáo của các tổ
chức tơn giáo, của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành. Là công dân Việt Nam, tín đồ, chức
sắc tơn giáo, nhà tu hành vừa mang những đặc điểm chung của người Việt Nam,
nhưng đồng thời cũng có những nét đặc trưng riêng của người có đạo.
Chúng tôi, trong luận văn này thường dùng khái niệm “QLNN đối với tôn
giáo”, hoặc “QLNN về tôn giáo”, khi đó được hiểu là “QLNN đối với các hoạt động
tơn giáo”.
Theo Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo, tín đồ, đó là những người tin theo một
tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận. Chức sắc tôn giáo là tín đồ có chức vụ,
phẩm sắc trong tơn giáo. Cịn nhà tu hành, đó là tín đồ tự nguyện thực hiện thường
xuyên nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật của tơn giáo mà mình tin theo. [77, tr.2].
Người làm cơng tác QLNN đối với tơn giáo, với họ, có một đòi hỏi bắt buộc là phải
nắm vững về đặc điểm của tín đồ, chức sắc các tơn giáo, với tư cách là khách thể
QLNN.
Ở nước ta, tín đồ tơn giáo có đặc điểm là: Đa số họ là nơng dân, vốn có bản
chất cần cù lao động, có lịng yêu nước nồng nàn, căm thù kẻ xâm lược và tầng lớp
bóc lột. Song bên cạnh đó, do cả vơ thức và ý thức, một số tín đồ hoạt động tôn giáo


14
chưa tuân thủ pháp luật, tai hại hơn, bị các thế lực thù địch lợi dụng, nghe theo kẻ xấu
tham gia vào các vụ việc phức tạp, điểm nóng tơn giáo. Một đặc điểm khác là, trong
mỗi tín đồ đều có sự thống nhất (nhưng khơng đồng nhất) giữa mặt cơng dân và mặt
tín đồ. Là cơng dân, họ có mọi quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước như mọi cơng dân
khác. Là người có tín ngưỡng tơn giáo, họ có niềm tin ở Chúa, Phật..., có quyền lợi
và trách nhiệm đối với giáo hội. Đây chính là đặc điểm quan trọng cần phải nắm

vững.
Còn chức sắc, nhà tu hành tơn giáo cũng có những đặc điểm chung của một tín
đồ, song họ cịn có các đặc điểm riêng. Đó là: Họ là những người được tổ chức tơn
giáo lựa chọn, đào tạo cơ bản, nên có năng lực quản đạo và trình độ thần học cao;
được tổ chức tôn giáo phong chức, phong phẩm. Họ đại diện ở những mức độ khác
nhau cho các tổ chức tôn giáo. Họ vừa chăn dắt tín đồ, vừa quản lý nền hành chính
đạo theo thẩm quyền. Trong quan hệ với tín đồ, họ là những người rất gần gũi, nắm
bắt kịp thời tâm tự, nguyện vọng của tín đồ. Như thế, họ có vị trí, vai trị và ảnh
hưởng rất lớn, rất sâu sắc trong tín đồ, được tín đồ yêu q, trân trọng và bảo vệ.
Tiếp nữa, người làm cơng tác quản lý nhà nước về tôn giáo cũng phải nắm
vững đặc điểm của tổ chức tơn giáo. Đó là: Tổ chức tôn giáo điều hành các hoạt động
tôn giáo; đại diện cho tín đồ trong quan hệ với Nhà nước và với các tổ chức khác có
liên quan. Mỗi tơn giáo có bộ máy tổ chức riêng, hoạt động theo hiến chương, điều lệ
của mình. Các tơn giáo có tư cách pháp nhân đều thể hiện đường hướng hành đạo gắn
bó, đồng hành cùng dân tộc. Đa số các tổ chức tơn giáo có liên hệ đồng đạo với tổ
chức tơn giáo nước ngồi.
Ngồi ra, khách thể QLNN về tơn giáo cịn có cả cơ sở vật chất phục vụ các sinh
hoạt tơn giáo. Trong đó, cơ sở thờ tự không đơn giản chỉ là một thực thể vật chất, mà
còn bao hàm ý nghĩa thiêng liêng, hội họp, văn hóa... Cịn đồ dùng việc đạo như kinh
sách, tượng thờ, tranh ảnh, hồnh phi, câu đối, lư hương, chng mõ, nhạc cụ,…mỗi
thứ có chức năng, cơng dụng riêng trong sinh hoạt tơn giáo, nhưng đều có đặc điểm
là có giá trị vật chất và có ý nghĩa biểu đạt. Ngồi ra, phục vụ cho sinh hoạt tơn giáo
cộng đồng cịn có vườn hoa, trường học, nhà dịng, cơ sở từ thiện, nhà trẻ, bệnh xá,…


15
Nó là tài sản của giáo hội và là nơi diễn ra các hoạt động tôn giáo, được Nhà nước
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giao cho tổ chức tôn giáo quản lý.
Như vậy, việc nắm chắc những đặc điểm của khách thể quản lý là một yêu cầu
tiên quyết đối với chủ thể quản lý, giúp cho cơng tác QLNN về tơn giáo có hiệu lực

mạnh và hiệu quả cao.
Một vấn đề khác cũng cần nhận thức rõ, đó là vấn đề pháp nhân và thể nhân
tơn giáo. Pháp nhân tơn giáo, đó là bộ máy tổ chức tơn giáo đã được Nhà nước cơng
nhận. Cịn thể nhân tơn giáo, đó là cá nhân tơn giáo (tín đồ) được tổ chức tơn giáo cơng
nhận.
1.1.2.2. Tính tất yếu tăng cường QLNN đối với tơn giáo
Vì sao phải tăng cường công tác QLNN đối với tôn giáo, việc này được xuất
phát từ các lý do khách quan và cơ bản.
Thứ nhất, hoạt động tơn giáo có liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, do đó, với chức năng quản lý xã hội của mình, để đảm bảo cho xã hội ổn định,
phát triển bình thường, tất yếu Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt động tôn
giáo.
Thứ hai, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo diễn ra trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong đó có đời sống tơn giáo, vậy để đường lối, chính sách,
pháp luật được hiện thực hố, để đồng bào có và khơng có tơn giáo đồn kết trong
khối đại đồn kết tồn dân tộc, tạo động lực cho sự thành công của cơng cuộc cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt động tôn giáo.
Thứ ba, các thế lực thù địch ln tìm mọi cách lợi dụng tôn giáo hống phá cách
mạng, vậy để đập tan âm mưu đó và để đồng bào lương - giáo tích cực tham gia xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, tất yếu Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt động tôn
giáo.
Thứ tư, Việt Nam mở cửa, hội nhập để phát triển, theo đó, các thế lực thù địch
cũng thông qua con đường hợp tác, liên doanh, du lịch... thâm nhập vào những vùng
nhạy cảm về tôn giáo, mua chuộc một số chức sắc, tín đồ tơn giáo, vậy để hội nhập quốc
tế có nhiều thành cơng, Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt động tôn giáo.


16
1.1.2.3. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung của QLNN về tôn giáo
Nội dung cơ bản của QLNN về tôn giáo được ghi nhận tại Pháp lệnh tín

ngưỡng, tơn giáo và được cụ thể hoá tại Nghị định số 22 của Chính phủ, hướng dẫn
thực hiện Pháp lệnh trên. Cịn trước Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo, Nhà nước ta mới
chỉ có Nghị định số 69 (năm 1991), Quy định về các hoạt động tôn giáo, và Nghị
định số 26 (năm 1999), Về các hoạt động tôn giáo. Như vậy, cho đến thời điểm này,
công cụ trực tiếp cho QLNN về tơn giáo chính là Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo, cịn
luật thì chưa có.
Vì thế vừa qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, ở nội dung
tơn giáo, Báo cáo chính trị đã nêu: “Tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ
sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến
chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công nhận, đúng quy định
của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành
vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc”
[33, tr.245].
Còn trong Cương lĩnh xây dựng đất nước - bổ sung, phát triển, năm 2011,
khẳng định: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và khơng tín
ngưỡng, tơn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý
nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tơn giáo và lợi dụng tín
ngưỡng tơn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” [33, tr.81].
Theo đó, quan điểm về vấn đề tơn giáo tại đây có những điểm mới là “Tiếp tục
hồn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo phù hợp với quan điểm của
Đảng”; “quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến
chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công nhận, đúng quy định
của pháp luật”.


17
Từ đó, cơng tác QLNN về tơn giáo, từ mục tiêu, nguyên tắc và nội dung cho

đến phương pháp, cần phải được xác định rõ và bổ sung cho phù hợp với quan điểm
của Đảng. Về mục tiêu, theo chúng tơi, đó là:
Thứ nhất, QLNN đối với tơn giáo trước hết phải bảo đảm được quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo và tự do khơng tín ngưỡng, tơn giáo của công dân, để các hoạt động
tôn giáo được diễn ra bình thường, theo hướng tuân thủ pháp luật. Rằng: “Người có
tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu
nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học
tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo" [77, tr3].
Thứ hai, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải phát huy được những gia trị
văn hố và mặt tích cực, khắc phục những hạn chế, tiêu cực của tôn giáo trong sự
phát triển của đất nước theo định hướng XHCN.
Thứ ba, QLNN đối với tơn giáo phải góp phần củng cố, phát triển đồng bào có
và khơng có tín ngưỡng, tơn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng chung
sức, chung lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ tư, QLNN về tôn giáo phải đảm bảo tăng cường được vai trò lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực tơn giáo.
Với mục tiêu đó, cơng tác QLNN đối với tôn giáo phải được dựa trên 3
nguyên tắc sau:
Một, phải đứng vững trên đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước về tôn giáo.
Hai, phải đảm bảo để mọi tôn giáo hoạt động theo hướng tuân thủ hiến pháp,
pháp luật; để những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, vì lợi ích chính đáng và hợp
pháp của tín đồ được đảm bảo; hoạt động mê tín dị đoan phải bị phê phán và loại bỏ.
Ba, phải xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để
chống phá chế độ, phá hoại khối đại đồn kết tồn dân tộc.
Cịn về nội dung QLNN đối với tôn giáo, xuất phát từ quan điểm của Đảng và
theo quy định pháp lý, có thể khái quát như sau:
Trước hết, với tính cách là một quy trình của QLNN đối với tơn giáo thì bao
gồm những nội dung:



18
- Xây dựng chiến lược dài hạn, kế hoạch năm năm và hàng năm thuộc lĩnh vực
tôn giáo;
- Ban hành các văn bản qui phạm pháp luật đối với hoạt động tơn giáo;
- Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;
- Qui định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo;
- Qui định về việc phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong công tác quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo;
- Tổ chức quản lý công tác nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
làm công tác tôn giáo;
- Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về
hoạt động tơn giáo.
Tất cả những nội dung trên đều có ý nghĩa xác định cụ thể, nhưng lại có mối
quan hệ mật thiết với nhau, vì thế khơng thể xem nhẹ một nội dung nào.
Tiếp theo, QLNN về tôn giáo với tính cách là giải quyết bằng quyền lực nhà
nước các hoạt động tôn giáo ở những lĩnh vực cụ thể khác nhau, thì nó bao gồm các
nội dung sau:
- Quản lý nhà nước các hoạt động tín ngưỡng;
- Quản lý việc đăng kí hoạt động của tổ chức tơn giáo và công nhận tổ chức tôn
giáo;
- Quản lý việc chia tách, sáp nhập, hợp nhất các tổ chức tôn giáo trực thuộc;
- Việc đăng kí người vào tu và hoạt động của dịng tu, tu viện, hội đồn tơn
giáo;
- Quản lý việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử; cách chức,
bãi nhiệm, thuyên chuyển trong tôn giáo;
- Quản lý về đại hội, hội nghị của tổ chức tơn giáo;
- Về việc đăng kí hoạt động tơn giáo (thường xun, đột xuất, ngồi cơ sở tơn
giáo);

- Quản lý việc xây, sửa, cải tạo các cơng trình tơn giáo;
- Về đất đai, tài sản tôn giáo;


19
- Về hoạt động in ấn, xuất bản, phát hành các ấn phẩm tôn giáo;
- Quản lý việc kinh doanh, xuất, nhập khẩu kinh sách tôn giáo và đồ dùng việc
đạo;
- Quản lý việc mở trường, lớp đào tạo, bồi dưỡng những người hoạt động tôn
giáo chuyên nghiệp, giải thể trường đào tạo;
- Quản lý việc quyên góp; hoạt động từ thiện nhân đạo của các tôn giáo;
- Quản lý việc quan hệ quốc tế của các tổ chức và cá nhân tơn giáo;
- Quản lý về việc đình chỉ hoạt động tôn giáo.
Những nội dung quản lý như trên được quy định tại Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn
giáo và trong Nghị định số 22/2005/NĐ-CP. Tuy nhiên cho đến nay, nó đã và đang có
nhu cầu phải bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ đề cập ở
các chương sau.
QLNN đối với tôn giáo có một số phương pháp chủ yếu được áp dụng như:
Phương pháp giáo dục, thuyết phục, phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế,
phương pháp cưỡng chế và phương pháp tổng hợp.
Như vậy, QLNN đối với tôn giáo là tất yếu, khơng chỉ ở nước ta mà cịn đối
với các nước khác. Tuy nhiên, về mục đích, nội dung cụ thể của QLNN về tôn giáo
cũng khác nhau qua mỗi giai đoạn. Vậy, chủ thể quản lý cần nắm vững quan điểm
lịch sử cụ thể để công tác này có hiệu quả, hiệu lực cao nhất.
1.2. TÌNH HÌNH TƠN GIÁO Ở BẮC NINH

1.2.1. Một số đặc điểm của tỉnh Bắc Ninh liên quan đến tôn giáo
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ, nằm gọn trong châu thổ sơng
Hồng, liền kề với thủ đơ Hà Nội. Phía Bắc Bắc Ninh giáp tỉnh Bắc Giang, phía Nam
giáp tỉnh Hưng n và một phần Hà Nội, phía Đơng giáp tỉnh Hải Dương và phía

Tây giáp thủ đơ Hà Nội. Bắc Ninh có nhiều thuận lợi cho sự phát triển toàn diện trên
các lĩnh vực xã hội và cũng là địa bàn mở rộng của Hà Nội qua xây dựng các thành
phố vệ tinh, là mạng lưới gia công cho các xí nghiệp của thủ đơ trong q trình cơng
nghiệp hố - hiện đại hố. Bắc Ninh cịn là cầu nối giữa Hà Nội và các tỉnh trung du,
miền núi phía Bắc, trên đường bộ giao lưu chính với Trung Quốc và có vị trí quan
trọng đối với an ninh quốc phòng.


20
Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Bắc Ninh là 807,6 km2, trong đó đất nơng
nghiệp chiếm 64,7%; đất lâm nghiệp chiếm 0,7%, đất chuyên dùng và đất ở chiếm
23,5% & đất chưa sử dụng còn 11,1%. Riêng đất đơ thị là 1.158,9 ha chiếm 1,44%
diện tích tự nhiên.
Về đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh Bắc Ninh
Trong những năm, qua kinh tế Bắc Ninh có những bước phát triển đáng kể cả
về quy mô và chất lượng. Đặc biệt hệ thống 61 làng nghề truyền thống như: đúc đồng
(Đại Bái, Gia Bình), sắt thép (Đa Hội - Từ Sơn), gỗ mỹ nghệ (Đồng Kỵ, Phù Khê Từ Sơn),... đã và đang góp phần khơng nhỏ cho sự phát triển của Bắc Ninh. Những
năm qua, cùng với một số tỉnh đồng bằng Bắc bộ, Bắc Ninh đã đẩy mạnh việc thu hút
đầu tư nước ngoài, hội nhập kinh tế quốc tế. Đến nay trên địa bàn tỉnh đã có 15 khu
cơng nghiệp, với 10 khu đã đi vào hoạt động, với 496 dự án đầu tư, trong đó 231 dự án
đầu tư nước ngồi của 8 quốc gia và các vùng lãnh thổ (Nhật Bản 37, Hàn Quốc 68,
singapore 9, Đài Loan 22, Trung quốc 13....). Tổng số CNVCLĐ tại tỉnh Bắc Ninh hiện
nay là 132.650 người, trong đó khối khu vực ngồi quốc doanh 89.508 người, khu vực
có vốn đầu tư nước ngồi 18.410 người, khu vực hành chính sự nghiệp 23.583 người.
Tính đến tháng 5/2011, có 241 doanh nghiệp đi vào hoạt động thu hút 62.827 lao động,
trong đó người Bắc Ninh là 29.849 người chiếm 47,5%, cịn lại là lao động ngoại tỉnh.
Tình hình đó đã làm biến đổi cơ bản bộ mặt của một tỉnh vốn có nền kinh tế nơng
nghiệp là chính, chuyển sang nền kinh tế cơng nghiệp theo hướng hiện đại.
Ở Bắc Ninh, nét tự hào về một nền văn hố truyền thống khơng chỉ là những
giá trị văn hố phi vật thể, mà cịn lưu giữ được hàng loạt địa danh gắn liền với di tích

lịch sử - văn hố và con người Kinh Bắc. Những nơi đó, bên cạnh giá trị văn hoá,
khoa học, lịch sử đáng trân trọng, thì cịn là các điểm đang ngày càng hấp dẫn du
khách trong và ngoài nước tới tham quan du lịch.
Nguồn nhân lực của Bắc Ninh khá dồi dào, với dân số hiện nay trên 1 triệu
người. Bắc Ninh có 8 đơn vị hành chính, với 126 xã, phường, thị trấn. Tình hình
chính trị xã hội của tỉnh trong những năm qua cơ bản ổn định; tốc độ tăng trưởng
kinh tế khá cao, bình quân đạt 15,1% năm; đời sống của nhân dân nói chung, đồng
bào có tơn giáo nói riêng, từng bước được cải thiện; quốc phịng an ninh được củng


21
cố vững chắc. Số người trong độ tuổi lao động là 484.900 người (chiếm 50.5%),
trong đó số qua đào tạo chiếm 18%. Trình độ dân trí của người dân Bắc Ninh cao,
hàng năm có 30% - 40% học sinh phổ thông thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp.
Bắc Ninh vốn tự hào là quê hương của chùa tháp, đền đài, của lễ hội và sinh
hoạt văn hoá dân gian nổi tiếng. Nét nổi bật trong truyền thống văn hiến của người
Kinh Bắc là truyền thống hiếu học và khoa bảng. Suốt hơn 800 năm khoa cử chữ Hán
dưới thời phong kiến, Bắc Ninh đã sản sinh ra hơn 600 vị tiến sỹ. Trong đó, nhiều vị
đã trở thành các nhân vật lịch sử, danh nhân văn hoá của đất nước, dân tộc, như Lê
Văn Thịnh, Nguyễn Gia Thiều, Dương Tử Do, Nguyễn Đăng Đạo, Nguyễn Công
Hoan, Nguyễn Cao, ... Họ không chỉ là những nhà chính trị, qn sự, ngoại giao, mà
cịn là những nhà văn, nhà thơ tiêu biểu cho nền văn hiến Kinh Bắc nói riêng và của
Việt Nam nói chung.
1.2.2. Tình hình tơn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
1.2.2.1. Tình hình tơn giáo nói chung
Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có 2 tơn giáo chính, là Cơng giáo và Phật giáo, với
275 chức sắc, 632 cơ sở thờ tự, với 12.908 tín đồ, chiếm khoảng 11,28% dân cư tỉnh.
Nhưng mấy năm gần đây, trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện thêm một tơn giáo nữa, đó là
đạo Tin Lành và mặc dù tín đồ chưa đơng (gần 100 người), nhưng xu hướng phát

triển tới đây chắc chắn sẽ rất mạnh.
So với cả nước, các tôn giáo ở Bắc Ninh chiếm tỷ lệ nhỏ về số lượng quy mơ
tín đồ, chức sắc. Song từ phương diện tầm vai trị, địa tơn giáo thì Bắc Ninh từ hơn
một ngàn năm trước đây đã được thừa nhận là cái nôi, trung tâm Phật giáo của Việt
Nam. Cịn với đạo Cơng giáo, Bắc Ninh cũng là trung tâm đầu não của Giáo phận
Bắc Ninh, với Toà Giám mục nằm giữa TP. Bắc Ninh, cai quản địa bàn giáo dân ở 10
tỉnh trung du, đồng bằng Bắc Bộ.
Hoạt động của các tôn giáo ở Bắc Ninh trong những năm qua cơ bản là ổn
định, sinh hoạt tơn giáo và đời sống tín ngưỡng, tơn giáo của tín đồ, chức sắc diễn ra
bình thường. Đại bộ phận chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tơn giáo trong tỉnh an
tâm và tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo và phấn khởi trước những


×