Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.63 KB, 17 trang )

KHOA LUẬT DÂN SỰ
BỘ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
.………***………..

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ
MÔN: TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỀ SỐ :

Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm
bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự
HỌ VÀ TÊN :
MSSV :
LỚP

:

NGÀNH

:


MỤC LỤC

2
2


LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã và đang có
những hoạt động tích cực trong công cuộc cải cách tư pháp


nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, các
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cơng dân. Đặc biệt,
trong xu thế hội nhập, tồn cầu hóa sâu rộng trên các mặt của
đời sống kinh tế - xã hội như hiện nay. Vấn đề bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ
xã hội ngày càng được quan tâm, điều chỉnh bởi pháp luật. Nhà
nước với tư cách là một chủ thể đặc biệt có chức năng quản lý
xã hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật đảm bảo cho các
cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội bảo vệ một cách tốt
nhất các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong đó, ngun
tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong Tố tụng dân sự 2015
là một trong những nguyên tắc cơ bản, chi phối quá trình tố
tụng, nguyên tắc này được cụ thể tại nhiều quy định của Bộ
luật Tố tụng Dân sự 2015. Hãy cùng đi sâu tìm hiểu cùng đề số
05: “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện
quyền tự định đoạt của đương sự.”
NỘI DUNG

I.

Khái quát chung nguyên tắc quyền tự định đoạt
của đương sự trong tố tụng dân sự

1. Khái niệm đương sự
Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân
bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
3
3



quan. Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân
bao gồm người yêu cầu giải quyết việc dân sự và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
2. Khái niệm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương

sự trong tố tụng dân sự
Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS 2015 thì quyền tự định đoạt
của đương sự được hiểu là:
-

Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, u cầu Tịa
án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ
lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu
cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi

-

kiện, đơn u cầu đó.
Trong q trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có
quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa
thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều

cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.
3. Ý nghĩa nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương
-

sự trong tố tụng dân sự
Nguyên tắc này đã đảm bảo cho quyền và lợi ích của


-

đương sự sẽ được phát huy một cách có hiệu quả.
Ngun tắc này cịn có ý nghĩa trong việc xác định trách
nhiệm của tòa án trong việc đảm bảo quyền tự định đoạt

-

củ đương sự.
Góp phần làm cho hoạt động xét xử đảm bảo được tính
đúng đắn khách quan, qua đó ổn định được trật tự kỉ

cương trong xã hội.
II.
Nội dung của nguyên tắc
1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi
kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự

4
4


Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua
người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là
người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. (Quyền tự định đoạt trong
việc khởi kiện vụ án dân sự được ghi nhận tại Điều 186 BLTTDS
2015)
Bên cạnh đó, Điều 187 BLTTDS 2015 quy định quyền khởi kiện

vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước. Nhà nước đã
chính thức ghi nhận quyền khởi kiện của cá nhân, cơ quan tổ
chức yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
hoặc của chủ thể khác.
Quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc
dân sự. Trong các việc dân sự thì khơng có tranh chấp trực tiếp
giữa các bên. Nhưng người yêu cầu vụ việc dân sự cũng chủ
động như nguyên đơn trong vụ án dân sự. Họ được quyền đưa
ra yêu cầu cho Tòa án giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Tuy nhiên u cầu của họ chỉ giới hạn trong
phạm vi yêu cầu Tịa án cơng nhận hay khơng cơng nhận một
sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt hoặc công
nhận các quyền, nghĩa vụ của họ.
Thông thường trong các việc dân sự một bên công nhận hay
bác bỏ một quyền lợi hay thực hiện một trách nhiệm dân sự
nào đó nên khơng xuất hiện khái niệm bị đơn và nguyên đơn
dân sự mà được thay thế bằng thuật ngữ người yêu cầu và
người bị yêu cầu. Người yêu cầu trong việc dân sự là người
tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu về giải quyết việc dân sự. Việc
tham gia tố tụng của người yêu cầu việc dân sự cũng chủ động
5
5


như nguyên đơn trong vụ án dân sự. Người yêu cầu trong vụ
việc dân sự có lợi ích pháp lý độc lập nên được đưa ra yêu cầu
cho Toà án giải quyết như nguyên đơn trong vụ án dân sự để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên yêu cầu
của họ chỉ giới hạn trong phạm vi u cầu Tồ án cơng nhận

hay khơng cơng nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay
đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của họ hoặc công nhận
quyền, nghĩa vụ của họ. Quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự
là một trong những quyền cơ bản của đương sự trong tố tụng
dân sự. Việc Bộ luật Tố tụng dân sự ghi nhận quyền này của
đương sự đã góp phần thể hiện việc thực thi nguyên tắc quyền
tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự thực tế. Từ các
phân tích trên cho thấy quyền khởi kiện vụ án dân sự và quyền
yêu cầu giải quyết việc dân sự là quyền tố tụng quan trọng của
các chủ thể, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật
tố tụng dân sự, khơng có hành vi khởi kiện, hành vi yêu cầu giải
quyết vụ việc dân sự thì cũng khơng có q trình tố tụng dân sự
cho các giai đoạn tiếp theo. Quy định này xuất phát từ trách
nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với việc bảo vệ những quyền
và lợi ích hợp pháp trong xã hội, thể hiện sự quan tâm của xã
hội đối với cá nhân con người. Với việc khởi kiện, yêu cầu giải
quyết việc dân sự kịp thời, các quyền và lợi ích hợp pháp được
bảo vệ, thiệt hại sớm được khắc phục, ngăn chặn và chấm dứt
được hành vi trái pháp luật.
2. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản

tố của bị đơn
Nếu như nguyên đơn có quyền quyết định việc khởi kiện và
nội dung khởi kiện thì bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu
6
6


phản tố đối với nguyên đơn. Trong tố tụng dân sự, phản tố được
hiểu là việc bị đơn khởi kiện ngược lại nguyên đơn về một quan

hệ pháp luật khác với quan hệ pháp luật nguyên đơn đã khởi
kiện. BLTTDS 2015 đã dành một số điều quy định cụ thể về
quyền phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự, cụ thể tại
Khoản 1 Điều 200 “cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản
ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn có
quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập”. Ngoài ra, BLTTDS 2015
cũng quy định cho bị đơn có quyền bác bỏ yêu cầu của nguyên
đơn. Sự bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng là sự lý giải và chứng
minh của bị đơn về tính khơng hợp pháp của việc giải quyết vụ
án hoặc là về sự vi phạm thủ tục trong việc thụ lý và giải quyết
vụ án. Với việc quy định quyền phản tố, quyền bác bỏ của bị
đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn là thể hiện sự ghi nhận của
pháp luật đối với quyền tự định đoạt của đương sự.
3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay

đổi, bổ sung, rút yêu cầu, thoả thuận với nhau về
việc giải quyết vụ việc dân sự
a. Quyền khởi kiện và tự định đoạt của đương sự
trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi
kiện
Điều 244 BLTTDS 2015 quy định:
“1. Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu
của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không
vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu
cầu độc lập ban đầu.
2. Trường hợp có đương sự rút một phần hoặc tồn bộ u cầu
của mình và việc rút u cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng
7
7



xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc
toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút”
Người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án đều có quyền quyết định và tự định đoạt
trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu. Tuy nhiên, tuỳ thuộc
vào từng giai đoạn tố tụng mà việc quyết định và tự định đoạt
này có thể được tồ án chấp nhận hay khơng. Trước khi toà án
ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm thì việc quyết định
và tự định đoạt trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu là
quyền tuyệt đối của đương sự. Tại phiên toà sơ thẩm, việc
quyết định và tự định đoạt trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu
cầu của đương sự bị hạn chế. Về việc rút đơn khởi kiện, rút đơn
yêu cầu trong mọi giai đoạn tố tụng đều có thể được Toà án
chấp nhận. Theo nguyên tắc chung việc rút đơn khởi kiện, đơn
yêu cầu là hành vi định đoạt của nguyên đơn, người yêu cầu
được biểu hiện ở hai khía cạnh đó là sự từ bỏ yêu cầu và là sự
từ bỏ phương tiện bảo vệ yêu cầu bằng con đường tố tụng.
Bằng phương thức khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân
sự, nguyên đơn, người yêu cầu đã thực hiện việc u cầu Tồ án
có thẩm quyền giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình. Khi đương sự thực hiện hành vi khởi kiện, yêu cầu thì
họ hồn tồn có quyền quyết định các hành vi tố tụng tiếp theo
của mình. Đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi hoặc bổ sung
yêu cầu của mình. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn tố
tụng mà việc thay đổi, bổ sung u cầu có thể được Tồ án
chấp nhận hay không chấp nhận. Trước khi mở phiên tồ thì
quyền này là quyền tuyệt đối của đương sự, theo đó đương sự
có thể thay đổi, bổ sung yêu cầu tuỳ ý. Tuy nhiên, theo quy định

8
8


tại Khoản 1 Điều 244 BLTTDS 2015 thì tại phiên toà việc thay
đổi yêu cầu chỉ được chấp nhận nếu không vượt quá phạm vi
yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban
đầu. Trước khi mở phiên tồ xét xử sơ thẩm, BLTTDS 2015
khơng có quy định giới hạn phạm vi thay đổi, bổ sung yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy, nguyên đơn có thể thay
đổi, bổ sung đối tượng khởi kiện, thay đổi, bổ sung những yêu
cầu mới đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự là những
quyền tố tụng rất quan trọng của đương sự. Tuy nhiên việc thay
đổi, bổ sung, rút yêu cầu phải dựa vào ý chí tự nguyện của
đương sự và Tồ án sẽ không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung,
rút yêu cầu do đương sự bị ép buộc.
b. Quyền quyết định và tự định đoạt trong việc thỏa

thuận giải quyết vụ việc dân sự
Quyền quyết định và tự định đoạt trong việc thoả thuận giải
quyết vụ việc của đương sự được thực hiện ở bất cứ giai đoạn
nào. Trong tố tụng dân sự, hồ giải là thủ tục có ý nghĩa nhân
văn nhằm giúp cho đương sự thoả thuận với nhau để giải quyết
các vấn đề có liên quan đến vụ việc. Cơ sở của hồ giải là xuất
phát từ ý chí chủ quan, tự nguyện quyết định và tự định đoạt
của đương sự. Do vậy, chỉ có đương sự là chủ thể của quan hệ
pháp luật nội dung mới có quyền thương lượng, thoả thuận hoà
giải để giải quyết các vấn đề có liên quan đến vụ việc, trừ
trường hợp đương sự uỷ quyền cho người khác. Trong q trình

hồ giải, tồ án giữ vai trị trung gian, giải thích pháp luật, chứ
không được hướng dẫn thương lượng, nội dung thoả thuận, bởi
vì quyền thương lượng, nội dung thoả thuận là nội dung của
9
9


quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Tuy nhiên, tồ
án chỉ cơng nhận thoả thuận của đương sự khi thoả thuận đó
phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.
4. Quyền tự định của đương sự trong việc lựa chọn

người đại diên, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình
Để bảo về quyền, lợi ích hơp pháp của mình, các đương sự tự
mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ hoặc đương sự
có thể ủy quyền cho người khác thay mình tham gia tố tụng.
Người này được gọi là người đại diện theo ủy quyền của đương
sự. Tuy vậy, do tính chất, yêu cầu của việc giải quyết vụ việc
dân sự sau khi ủy quyền cho người đại diện, đương sự vẫn có
quyền tham gia tố tụng để bổ sung cho hoạt động của người
đại diện. Việc cử người đại diện theo sự ủy quyền này, hoàn
toàn dựa trên sự tự định đoạt của đương sự.
Quyền nhờ người khác bảo vệ lợi ích hợp pháp cho mình là biểu
hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự được pháp
luật tôn trọng. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự tham gia tố tụng theo yêu cầu của đương sự nên việc
thay đổi, chấm dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự do hai bên quyết định. Đây cũng là một quy định thể
hiện rất rõ việc thực thi nguyên tắc quyền tự định đoạt của

đương sự trong tố tụng dân sự.
5. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn

người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình và kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án

10
10


a. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự

trong việc lựa chọn người đại diện, ngươi bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Theo quy định tại Điều 75 BLTTDS 2015 để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình đương sự có quyền nhờ luật sư
hoặc người khác mà tòa án chấp nhận tham gia tố tụng. Người
tham gia tố tụng này được gọi là người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự. Đây cũng là biểu hiện của nguyên tắc
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự và được pháp
luật tơn trọng. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự phải đảm bảo các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều
75 BLTTDS 2015. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự tham gia tố tụng theo yêu cầu của đương sự nên việc
thay đổi, chấm dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
đương sự do hai bên quyết định. Như vậy, một lần nữa quyền tự
định đoạt của đương sự lại được thể hiện. Tất cả đều hướng tới
lợi ích của đương sự.
b. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc


kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án
Đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức
khởi kiện có quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ,
đình chỉ giải quyết vụ án của tồ án chưa có hiệu lực pháp luật.
Theo đó, những phần của bản án, quyết định bị kháng cáo thì
chưa được thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi
hành. Có thể nói, quyền khiếu nại, kháng cáo là phương tiện
pháp lý, là một trong những nội dung của quyền quyết định và
tự định đoạt của đương sự. Tuy nhiên, quyền này bị giới hạn bởi
những quy định của pháp luật về đối tượng và thời hạn của
11
11


quyền khiếu nại, kháng cáo. Mặt khác, đương sự cũng có quyền
thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo theo Khoản 2, Điều 284
BLTTDS 2015.
Đương sự, người đại diện của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền khiếu nại bản án, quyết định, hành vi tố tụng khi
có căn cứ cho rằng bản án, quyết định, hành vi tố tụng đó là
trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Căn cứ vào ngun tắc các cơ quan nhà nước, người
đứng đầu các cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm về hành
vi công vụ do cơng chức của đơn vị mình thực hiện. Cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét, giải
quyết kịp thời các khiếu nại và thông báo bằng văn bản về kết
quả giải quyết cho người khiếu nại.
Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong lĩnh vực
khiếu nại, kháng cáo là một trong những quyền tố tụng quan
trọng, bảo đảm cho đương sự có điều kiện bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của mình, cũng như phát hiện, khắc phục, sửa
chữa những sai sót của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng khi giải quyết vụ việc.
Quyền kháng cáo là một quyền tố tụng cơ bản của đương sự
được quy định tại Điều 271 BLTTDS 2015. Tuy nhiên, theo quy
định của pháp luật thì đương sự được tự thực hiện quyền này
nên theo nghĩa rộng quyền kháng cáo cũng thuộc quyền tự
định đoạt của đương sự.
Ngoài việc quy định đương sự có quyền kháng cáo thì pháp luật
cũng quy định đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng
cáo. Theo quy định tại Điều 284 BLTTDS 2015 thì đương sự có
12
12


quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo trước khi thay đổi phiên
tịa hoặc tại phiên tịa nhưng khơng được vượt quá phạm vi
kháng cáo ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo đã hết và Tòa án
cấp phúc thẩm sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối
với những phần rút kháng cáo.
6. Trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm nguyên

tắc quyết định và tự định đoạt của đương sự
Đương sự, người đại diện của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền khiếu nại bản án, quyết định, hành vi tố tụng khi
có căn cứ cho rằng bản án, quyết định, hành vi tố tụng đó là
trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Căn cứ vào ngun tắc các cơ quan nhà nước, người
đứng đầu các cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm về hành
vi công vụ do cơng chức của đơn vị mình thực hiện. Cơ quan, tổ

chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét, giải
quyết kịp thời các khiếu nại và thông báo bằng văn bản về kết
quả giải quyết cho người khiếu nại.
Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong lĩnh vực
khiếu nại, kháng cáo là một trong những quyền tố tụng quan
trọng, bảo đảm cho đương sự có điều kiện bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình, cũng như phát hiện, khắc phục, sửa
chữa những sai sót của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng khi giải quyết vụ việc.
III.

Kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định
đoạt của đương sự nguyên tắc

Để đảm bảo quyền lợi của người dân và hạn chế thấp nhất
những sai sót xảy ra ngay từ giai đoạn thụ lý vụ án đòi hỏi cán
13
13


bộ thụ lý vụ án phải là Thẩm phán phải có năng lực chun
mơn và có kinh nghiệm để có thể hướng dẫn cụ thể cho người
dân các thủ tục, giấy tờ cần thiết theo đúng quy định của pháp
luật để làm căn cứ thụ lý giải quyết vụ án, khắc phục tình trạng
thụ lý đơn khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án hoặc
trả lại đơn khơng đúng pháp luật.
Cần tích cực đào tạo và phát triển đội ngũ tun truyền viên
pháp luật làm nịng cốt cho cơng cuộc tuyên truyền pháp luật
tới nhân dân, làm cho dân hiểu và thực hiện luật bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp của mình, thực hiện tốt quyền tự định đoạt của

đương sự trong tố tụng dân sự.
Nâng cao năng lực xét xử của Thẩm phán, để tránh những
sai sót trong việc giải quyết các vụ việc ảnh hưởng đến quyền
tự định đoạt của đương sự. Hiện nay, năng lực chuyên mơn
nghiệp vụ của nhiều Thẩm phán cịn thiếu nên cịn có những sai
sót trong việc giải quyết các vụ việc ảnh hưởng đến quyền tự
định đoạt của đương sự. Vì vậy về đội ngũ cán bộ Toà án cần
tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ,
nâng cao năng lực xét xử; tăng cường công tác quản lí, giáo dục
chính trị, phẩm chất đạo đức của cán bộ xét xử cho các Thẩm
phán và các chức danh tư pháp khác để tránh được những tác
động tiêu cực của xã hội, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Từ đó tránh tình trạng vì một số lí do khách quan, chủ quan mà
Tồ án xét xử sai, khơng bảo đảm được quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự.
Cần đẩy mạnh việc tuyên truyền phổ biến pháp luật. Đương
sự là người có quyền tự định đoạt về việc tham gia tố tụng, về
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nguyên tắc
14
14


quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS có thực sự phát
huy được hiệu quả hay không phụ thuộc phần lớn vào sự hiểu
biết pháp luật và ý thức pháp luật của đương sự. Công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải được tiến
hành rộng rãi, sâu rộng trong quần chúng nhân dân như tổ
chức các lớp học về pháp luật tố tụng dân sự ở các địa phương,
các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, có các khẩu hiệu, tài liệu sách
báo tuyên truyền, phổ biến các kiến thức về pháp luật tố tụng

dân sự cho nhân dân…
Bên cạnh cải cách đội ngũ cán bộ ngành Tồ án thì tổ chức Tồ án cũng nên
xem xét theo hướng: tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số
đơn vị hành chính cấp huyện; Tịa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử
phúc thẩm và sơ thẩm một số vụ án được tổ chức ở một số khu vực; Tòa án
nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Đổi
mới tổ chức Toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ Thẩm
phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành.
KÊT LUẬN
Như vậy quyền tự định đoạt của đương sự là một nguyên tắc quan trọng cần
đặt lên hàng đầu. Với Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì quyền tự định
đoạt của đương sự được thể hiện ở rất nhiều điều khoản khác
nhau, điều đó cho thấy pháp luật luôn tạo điều kiện thuận lợi để
các đương sự có thể tự chủ trong quan hệ pháp luật của mình
điều này cũng đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án, vụ việc
dân sự được nhanh chóng, hiệu quả bảo vệ tối đa quyền lợi ích
hợp pháp của các đương sự.

15
15


16
16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự


Việt Nam, nxb Cơng an nhân dân, 2017;
2. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
3. Nguyễn Triều Dương, “Đương sự trong tố tụng dân sự một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án tiến sĩ luật
học, Hà Nội, 2010
4. Nguyễn Ngọc Khánh, “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự trong BLTTDS”, Tạp chí nhà nước và pháp luật,
số 5/2005, tr.64-66

17
17



×