Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn quận 1, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH VĂN SỰ

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA
VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH VĂN SỰ

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA
VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

Hà Nội, năm 2020.



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu,
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và được trích dẫn
đầy đủ theo quy định.

TÁC GIẢ

HUỲNH VĂN SỰ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….

1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN……………………………………………………………………………..

6

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản…......................................

6

1.2. Đối tượng, phạm vi, nội dung của thực hành công tố trong điều tra
vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản…………………………………...


19

1.3. Các yếu tố tác động đến chất lượng thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản…….…………………….

22

Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU
TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH…………………………………………………...

26

2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố
trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản…………………....

26

2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh…………..

39

Chương 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU
TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN……………

52


3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa dảo chiếm đoạt tài sản ………………………….

52

3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản…………………………..

57

KẾT LUẬN…………………………………………………………………….

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………..……..

77


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự


CQĐT:

Cơ quan điều tra

ĐTV:

Điều tra viên

KSV:

Kiểm sát viên

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:


Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay địi hỏi phải
nâng cao chất lượng thực hành quyền cơng tố của VKSND để không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội. Nghị quyết số 08 của Bộ chính trị ngày
02/01/2002 đã nhấn mạnh mốt số nội dung của cơng tác tư pháp, trong đó có nội
dung: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện
ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt q trình tố tụng nhằm bảo đảm khơng bỏ
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội…” [2]. Yêu cầu trên
đã được thể chế hóa trong Hiến pháp 2013, luật tổ chức VKSND năm 2014 và
BLTTHS năm 2015. Những năm qua, hoạt động thực hành quyền cơng tố của
VKSND có những chuyển biến rõ rệt và tích cưc, chất lượng từng bước được nâng
lên. Với vai trị chủ động, tích cực của các Kiểm sát viên của VKSND các cấp trong
quá trình giải quyết VAHS, đã hạn chế được tình trạng oan, sai hoặc bỏ lọt tội
phạm, qua đó đã góp phần bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước và cơng dân.
Thực hành quyền cơng tố nói chung và trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt
tài sản nói riêng có vị trí, vai trị hết sức quan trọng, nhằm bảo vệ công lý, quyền
con người, quyền cơ bản của công dân, là một trong những hoạt động quan trọng
của VKSND Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo khảo sát trong những năm
qua, hoạt động này đã thu được những kết quả to lớn. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân, việc thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn cịn có những hạn chế bất
cập nhất định, vẫn còn những trường hợp khởi tố, bắt, giam giữ không đúng pháp
luật làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân. Có nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, trong đó một phần

là do một số KSV chưa nhận thức đúng về nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá
trình giải quyết VAHS. Vì vậy cịn có tâm lý chủ quan, chưa chủ động, tích cực

1


tham gia vào việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của VAHS, chưa nhận thức đúng
đắn về sự quan trọng của mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt động điều tra
VAHS. Bên cạnh đó, chất lượng thực hành quyền cơng tố của VKSND cịn bị ảnh
hưởng bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có quy định của pháp luật, một số
quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện nay cịn chưa được nhận thức thống
nhất, cịn có những vướng mắc nhất định nhưng chưa có đủ các văn bản hướng dân
thực hiện, chưa phát huy được vai trò chủ động của kiểm sát viên trong việc chứng
minh tội phạm và người phạm tội. Do đó vẫn cịn những u cầu khởi tố, điều tra
của VKSND chưa được CQĐT tôn trọng và thực hiện đầy đủ, tình trạng trả hồ sơ để
điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các vụ án phải tạm
đình đình chỉ điều tra vì khơng chứng minh được tội phạm vẫn cịn tồn tại.
Đặt trong điều kiện xã hội mới và yêu cầu bảo vệ tốt hơn, đầy đủ hơn công lý,
quyền con người, quyền cơng dân trong tố tụng hình sự, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, cần nâng cao chất
lượng thực hành quyền cơng tố nói chung và trong thi hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài:“Thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bởi tầm quan trọng của mình mà vấn đề thực hành quyền cơng tố trong giai
đoạn giai đoạn điều tra vụ án hình sự hay trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản ngày càng được quan tâm nghiên cứu. Kết quả là đã có khá nhiều cơng trình
nghiên cứu đã được cơng bố, trong số đó có thể kể đến: Luận văn thạc sĩ luật học

năm 2019 của Lê Khắc Sơn: “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối
với tội tham ô tài sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” [29]; Luận văn thạc sĩ luật học
“Thực hành quyền cơng tố đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện
Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi”của học viên Lý Tường Vy, Học viện Khoa học xã hội,

2


năm 2017; Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước”
của Lê Văn Quang, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017 [19]; Luận văn thạc sĩ luật
học “Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình”của học viên Nguyễn Tiến Tài, Học viện
Khoa học xã hội, năm 2018 [30]; Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao
Bằng” của học viên Nông Thị Huyền, Học viện Khoa học xã hội, năm 2019 [6];
Luận văn thạc sĩ luật học năm 2015 của tác giả Lê Thanh Hưng: “Chức năng thực
hành quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Đak Nơng” [15].
Bên cạnh những cơng trình nghiên cứu nêu trên, đến nay cịn có nhiều cơng
trình nghiên cứu về thực hành quyền công tố là các bài viết của các tác giả đăng trên
các tạp chí khoa học pháp lý, kỷ yếu hội thảo khoa học. Từ khi BLTTHS 2015 có
hiệu lực đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề cập toàn diện, đầy đủ về
thực hành quyền công tố của VKSND trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Trong khi đó, việc thi hành các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có những
nơi, những lúc cịn chưa được thống nhất. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu những
vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố của VKSND trong điều tra
vụ án hình sự nói chung và điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Việc nghiên cứu thực hành quyền công tố trong

điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản gắn với địa bàn nói ở đây là Quận 1, thành
phố Hồ Chí Minh đến nay càng cần thiết và càng có ý nghĩa đặc biệt.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về thực hành quyền công
tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thực trạng quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt
tài sản và thực tiễn thi hành tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, luận văn đề xuất

3


các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra
vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
+ Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền
cơng tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
+ Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
+ Đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy các quan điểm khoa học được nêu ra trong khoa học luật hình sự
và khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam; Các quy định pháp luật hình sự và pháp
luật tố tụng hình sự, thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh để nghiên cứu các vấn đề
thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn đó là đề tài về thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh dưới
góc độ luật hình sự và luật tố tụng hình sự.
Về khơng gian, thời gian: Luận văn được tác giả tập trung nghiên cứu các quy
định của Bộ luật TTHS năm 2015 và thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều
tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm
2016 – 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

4


Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sủ của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, chính sách pháp luật của
Nhà nước Việt Nam trong tố tụng hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn còn được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu
khác như: phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê; nghiên cứu các báo cáo tổng kết
công tác năm, nghiên cứu hồ sơ vụ án của VKSND quận 1 và VKSND thành phố
Hồ Chí Minh cũng như quy chế phối hợp giữa VKSND quận 1 và CQĐT Cơng an
quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn đã góp phần nhận thức sâu và thống nhất
những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn là tài liệu có giá trị dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động thực
hành quyền cơng tố trong vụ án hình sự, là tài liệu học tập, nghiên cứu trong các cơ
sở đào tạo chuyên ngành luật và đào tạo nghiệp vụ của KSV. Những giải pháp của
luận văn góp phần việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật TTHS về thực
hành quyền cơng tố của VKSND nói chung và trong điều tra VAHS nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn bao gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ
án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực hành
quyền công tố trong điều tra vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản và thực tiễn thi hành tại
Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

5


Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản

Để xây dựng khái niệm hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, trước hết phải làm sáng tỏ thế nào là vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản?
Liên quan đến vấn đề này cần phải làm sáng tỏ thế nào là vụ án hình sự. Cần lưu ý
rằng, trong khoa học pháp lý cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau xoay
quanh khái niệm vụ án hình sự, nhưng xét trên nhiều phương diện, tác giả luận văn
này chia sẻ với quan điểm cho rằng:“Vụ án hình sự là vụ án phát sinh khi phát hiện
có dấu hiệu tội phạm và CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra, VKS, Tòa án (thông qua Hội đồng xét xử) khởi tố vụ án
và áp dụng các biện pháp được quy định trong BLTTHS để xác định và xử lý người
phạm tội” [30, tr.15].
Vậy thì vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là gì? Trước hết cần nhấn mạnh rằng,
đó vụ án hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bởi vậy, để làm sáng tỏ thế nào
là vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần phải nhận thức một cách đúng đắn về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi của tội phạm dùng thủ
đoạn gian dối để chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin và giao tài sản cho tội phạm
để chiếm đoạt tài sản đó. Điều 174 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy
định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000
đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong những trường hợp sau đây
thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi

7


phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều
168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích
mà cịn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài
sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ...” [21]. Để
nhận thức đúng đắn và sâu sắc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần phân tích các dấu

hiệu thuộc bốn yếu tố cấu thành tội này, theo đó:
- Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu tài sản, đó
chính là các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản của Nhà
nước cũng như của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đối tượng tác động của tội phạm này
là các loại tài sản thể hiện dưới hình thức vật chất, đó là vật, tiền. Việc xâm phạm
quyền sở hữu cũng thể hiện ở hành vi chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người
khác sau khi lừa lấy được tài sản.
- Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
+ Về hành vi khách quan: Hành vi của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là
dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác mà ngay lúc đó, người
bị hại khơng biết được có hành vi gian dối. Như vậy, người phạm tội dùng thủ đoạn
gian dối là đặc điểm đặc trưng của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Dùng thủ
đoạn gian dối đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có nghĩa là người phạm tội đưa
ra thơng tin giả, thông tin không đúng với sự thật nhưng làm cho người bị lừa dối
tin rằng thơng tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thơng
tin giả có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ
viết, bằng hành động, bằng hình ảnh… hoặc cũng có thể kết hợp bằng nhiều cách
thức khác nhau. Hiện nay, thủ đoạn lừa đảo của các loại tội phạm rất tinh vi, tội
phạm thường thực hiện hành vi lừa đảo trên các trang mạng xã hội hoặc các trang
web, sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, tội phạm sẽ cắt đứt mọi liên hệ với người
bị hại và thường người bị hại không biết hoặc biết những thông tin không chính xác
về tội phạm. Đặc điểm nổi bật của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn gian
dối của người phạm tội phải có trước hành vi chiếm đoạt và là nguyên nhân trực

8


tiếp khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản cho người phạm tội. Hành vi gian
dối bao giờ cũng phải diễn ra trước hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu hành vi gian dối

diễn ra sau khi người phạm tội nhận được sản, tức là ý thức chiếm đoạt tài sản diễn
ra sau khi có tài sản thì khơng cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khi định tội
danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì cần lưu ý đặc trưng này để phân biệt với một
số tội phạm như lừa dối khách hàng hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Để
có thể lừa dối chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, trên thực tế người phạm tội sử
dụng rất nhiều các cách khác nhau như: bằng lời nói dối, bằng việc giả mạo giấy tờ,
giả danh người có chức vụ quyền hạn, giả danh các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội, tổ chức từ thiện để chuyển tiền, vàng hay thông qua việc ký kết hợp đồng…
Thực tế để xác định hành vi gian dối có xảy ra hay không, thường căn cứ vào các
chứng từ, tài liệu, giấy tờ giả (như hợp đồng mua bán, giấy chứng nhận sở hữu nhà,
đất, giấy vay tiền…) mà đối tượng dùng để tạo dựng niềm tin đối với chủ tài sản,
làm cho chủ tài sản tự nguyện giao tài sản để xác định.
Cần phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản. Người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản sử dụng và lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đều có thủ đoạn gian dối, tuy nhiên thủ đoạn gian
dối ở hai tội là khác nhau, đặc biệt là thời điểm thực hiện thủ đoạn này. Đối với tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người thực hiện hành vi phải dùng thủ đoạn gian dối
trước làm cho người có tài sản tin tưởng mà giao tài sản cho người phạm tội. Đối
với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người thực hiện hành vi để chiếm
đoạt tài sản bằng thủ đoạn có tính chất gian dối nhưng thủ đoạn này được thực hiện
sau khi đã được chủ tài sản giao tài sản một cách hợp pháp thơng qua các hình thức
như vay, mượn, th, hợp đồng hợp pháp...
+ Về hậu quả: Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nếu hành vi
gian dối bị phát hiện trước khi người bị lừa dối giao tài sản hoặc người bị lừa dối
không phát hiện ra hành vi gian dối nhưng không thực hiện việc giao tài sản thì
khơng cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời điểm hoàn thành tội phạm này
được xác định từ lúc kẻ phạm tội đã chiếm giữ được tài sản sau khi đã dùng thủ

9



đoạn gian dối để làm cho người chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản bị
mắc lừa giao tài sản cho mình hoặc khơng nhận tài sản đáng lẽ phải nhận Hậu quả
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là giá trị tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt.
Thiệt hại về tài sản bị chiếm đoạt được quy định cụ thể tại Điều 174 BLHS năm
2015. Theo đó, khoản 1 Điều luật quy định “chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên”
mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải
kèm theo điều kiện “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc
đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170,
171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm
hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài sản là phương
tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”.
+ Về mối quan hệ nhân quả: Cũng như những tội có cấu thành vật chất khác,
hậu quả và hành vi khách quan của tội phạm có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Hậu quả thiệt hại về tài sản phải được xuất phát từ hành vi lừa dối. Nếu việc thiệt
hại về tài sản từ nguyên nhân khác thì sẽ dựa vào những dấu hiệu khách quan để xác
định xem có dấu hiệu của tội phạm không và được pháp luật điều chỉnh như thế
nào. Tuy nhiên, ở đây cũng nên lưu ý là cần phân biệt tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản với những tội phạm có dùng thủ đoạn gian dối khác “tự nguyện” giao tài sản
cho mình, cịn đối với những thủ đoạn gian dối nhưng không phải do người bị hại tự
động giao tài sản của mình thì phải căn cứ vào dấu hiệu khách quan để xác định tội
phạm tương ứng, chẳng hạn dùng thủ đoạn cân, đong, đo, đếm gian dối nhằm ăn
gian, bớt của khách hành hoặc để bán hàng giả nhằm thu lợi bất chính thì sẽ cấu
thành tội lừa dối khách hành hoặc tội buôn bán hàng giả.
- Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường, có thể là bất kỳ
người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi
lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo quy định tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thì đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm không
phải là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Tức là nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16


10


tuổi thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà
chỉ có người trên 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
- Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người
phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả
do hành vi của mình gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra. Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản là tội có tính chất chiếm đoạt, do lỗi cố ý của chủ thể, mục đích là mong
muốn chiếm đoạt được tài sản thuộc sở hữu của người bị hại. Như đã phân tích ở
trên, ý định chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn nảy sinh trước
khi chiếm đoạt được tài sản. Do đó, mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội
ln có trước khi người phạm tội thực hiện hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt
tài sản.
Từ những điều phân tích trên đây có thể hiểu “Vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là vụ án phát sinh khi phát hiện có các dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản và CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra, VKS, Tòa án (thông qua Hội đồng xét xử) khởi tố vụ án và áp dụng
các biện pháp được quy định trong BLTTHS để xác định và xử lý người phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Vậy thì thế nào là thực hành quyền cơng tố trong điều tra vụ án hình sự? Để
có thể xây dựng khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, cần phải làm sáng tỏ thế nào quyền cơng tố và thế nào là thực
hành quyền cơng tố?
Nói đến quyền cơng tố là nói đến việc VKSND nhân danh quyền lực công của
Nhà nước để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội đối với người
phạm tội, cịn thực hành quyền cơng tố là VKSND sử dụng những quyền hạn được
Nhà nước giao để thực hiện những hoạt động tố tụng, hành vi tố tụng cần thiết cho

việc truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội đối với người phạm tội. Như vậy có
thể nói thực hành quyền cơng tố chính là việc tổ chức thực hiện quyền công tố.

11


Về mặt lập pháp, thuật ngữ “quyền công tố” lần đầu tiên được ghi nhận tại
Điều 17 Luật tổ chức VKSND năm 1960, theo đó “Viện kiểm sát nhân dân tối cao
tối cao và Viện kiểm sát nhân dân các địa phương có quyền khởi tố về hình sự và
giữ quyền cơng tố trước Tịa án nhân dân cùng cấp”. Thuật ngữ “quyền công tố”
tiếp tục được ghi nhận trong các văn bản pháp luật được ban hành sau đó. Tuy
nhiên, theo các quy định pháp luật sau đó thì phạm vi quyền công tố được mở rộng
hơn, không chỉ trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự mà trong cả quá trình tố tụng
vụ án hình sự.
Về mặt khoa học, thuật ngữ và khái niệm “quyền công tố” thường được các
nhà luật học sử dụng khi luận về chức năng của VKSND trong tố tụng hình sự. Tuy
nhiên, cho đến nay trong giới luật học vẫn chưa có sự thống nhất trong nhận thức
nội hàm của khái niệm quyền cơng tố. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng, quyền
công tố là quyền mà Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để
truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội.
Và quyền cơng tố do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành án hình sự. Đây chính là
hoạt động tiến hành tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên và những người được
pháp luật quy định có trách nhiệm xác định người phạm tội cũng như những căn cứ
để kết tội và áp dụng hình phạt cụ thể đối với người phạm tội [32, tr.26]. Theo tác
giả luận văn này thì quan điểm nêu trên là quá rộng, dễ dẫn đến sự nhầm lẫn giữa
chức năng cơ bản trong TTHS, đã đồng nhất khái niệm quyền công tố và nguyên tắc
TTHS. Hơn nữa, theo quan điểm này thì khơng chỉ CQĐT, VKSND mà cịn cả các
chủ thể khác cũng thực hành quyền cơng tố. Cũng có quan điểm khác cho rằng,
quyền cơng tố được thực hiện bởi một cơ quan nhất định (ở nước ta là VKSND), cơ

quan này có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác
định tội phạm và người phạm tội trên cơ sở đó VKSND quyết định việc truy tố bị
can ra trước Tòa án để xét xử bằng bản cáo trạng cụ thể và thực hiện việc buộc tội
tại phiên tòa. Vì vậy quyền cơng tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS với đối tượng tội
phạm và người phạm tội [32, tr.40]. Theo tác giả luận văn thì quan điểm vừa nêu đã

12


thể hiện rõ ràng và chính xác hơn với quan niệm chung về quyền công tố, được thể
hiện rõ ràng hơn trong Luật tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS năm 2015.
Thuật ngữ thực hành quyền công tố được ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 138
Hiến pháp 1980 và được cụ thể hóa tại các điều 1 và 3 Luật Tổ chức VKSND năm
1981. Tiếp sau đó, thuật ngữ này được ghi nhận tại Điều 137 Hiến pháp 1992, Điều
107 Hiến pháp 2013 cũng như được cụ thể hóa trong BLTTHS và Luật tổ chức
Viện kiểm sát. Hiện nay, thực hành quyền công tố trở thành chức năng quan trọng
của VKS, quy định cụ thể tại điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 “VKSND là cơ
quan thực hành quyền cơng tố, kiểm sốt hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”. Bên cạnh đó, chức năng thực hành quyền cơng tố cịn
được quy định tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014, cụ thể như sau: “Thực
hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong TTHS để thực hiện việc buộc
tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ giai đoạn giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử VAHS” [26].
Cụm từ “thực hành” theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là “làm để áp dụng lý
thuyết vào thực tiễn”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện” [36]. Như vậy,
các quyền năng của VKSND khi thực hành quyền công tố phải được VKSND thực
hiện trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS. Thực hành quyền
công tố cũng được các nhà luật học nhận thức theo nhiều cách khác nhau. Chẳng
hạn, có quan điểm cho rằng “Thực hành quyền công tố là thực hiện các hành vi tố

tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm
hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tịa án và bảo vệ sự
buộc tội đó” [33, tr.20]. Theo một quan điểm khác thì “Thực hành quyền công tố là
việc Viện Kiểm sát sử dụng các quyền năng pháp lý mà pháp luật quy định để đưa
người (hoặc pháp nhân thương mại) có hành vi phạm tội ra truy tố và buộc tội
trước Tòa án” [33, tr.12].
Phạm vi thực hành quyển công tố, như đã nhấn mạnh ngày càng mở rộng và có
thể nói là cả quá trình từ giải quyết nguồn tin về tội phạm cho đến khi xét xử tội

13


phạm. Bởi vậy, có thể hiểu “Thực hành quyền cơng tố trong tố tụng hình sự là việc
VKSND thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết trong quá trình tố tụng hình sự có
sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý theo quy định của pháp luật nhằm bảo
đảm việc truy tố và buộc tội của mình đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Cuối cùng, để có thể dựng khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra
vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, còn cần phải làm sáng tỏ thế nào điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, như đã nhấn mạnh là vụ
án phát sinh khi phát hiện có các dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
và CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra, VKSND, Tịa án (thơng qua Hội đồng xét xử) khởi tố vụ án và áp dụng các biện
pháp được quy định trong BLTTHS để xác định và xử lý người phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Trong q trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, điều tra là hoạt động tố tụng hình sự giữ vai trò hết
sức quan trọng, bởi điều tra là các hoạt động phát hiện, thu thập chứng cứ để chứng
minh tội phạm và người phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại mà tội
phạm đã gây ra. Kết quả điều tra là cơ sở cho việc truy tố và xét xử tội phạm đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vơ tội.
Do vậy, có thể hiểu “Điều tra trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là những hoạt

động tố tụng do các cơ quan có thẩm quyền (Cơ quan điều tra và các cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) tiến hành bằng các biện pháp
mà pháp luật tố tụng hình sự quy định phát hiện nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ
làm rõ sự thật của vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chứng minh tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản và người phạm tội này, bảo đảm giải quyết đúng đắn vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản”.
Như vậy, điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động pháp luật, hoạt
động áp dụng pháp luật được tiến hành bởi chủ thể có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật vào chứng minh, làm sáng tỏ vụ án bằng các biện pháp cũng do pháp
luật quy định như khám nghiệm hiện trường; khởi tố bị can và hỏi cung bị can; lấy
lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,

14


người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;đối chất, nhận dạng, khám xét...
Trong quá trình điều tra, các cơ quan có thẩm quyền có quyền ra các quyết định tố
tụng nhất định
Là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong các hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng trong suốt quá trình tố tụng vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong
điều tra vụ án, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố gắn với các hoạt động điều
tra, vì vậy bắt đầu từ khởi tố bị can và hỏi cung bị can cho đến khi kết thúc điều tra
hoặc đình chỉ điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Từ tất cả những điều phân tích trên đây có thể xây dựng khái niệm thực hành
quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “Thực hành
quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động của
Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước và có sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý
theo quy định của pháp luật thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết trong quá trình
điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm bảo đảm việc truy tố, xét xử đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
1.1.2. Đặc điểm của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản
Xét về đặc điểm, thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản có những đặc điểm chung của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ
án hình sự về bất kỳ một tội phạm cụ thể nào đó, song cũng có những đặc điểm
riêng của mình gắn với đặc trưng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
Một trong những đặc điểm riêng của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ
án lừa đảo chiếm đoạt tài sản gắn với việc phát hiện cũng như việc xác định thẩm
quyền điều tra cũng như thực hành quyền công tố. Hầu hết các vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài được phát hiện là do bị hại đến cơ quan có thẩm quyền trình báo; có những
vụ án xảy ra đã rất lâu nên khó khăn cho việc xác định tài liệu chứng cứ, hơn nữa
một số vụ án lừa đảo qua mạng zalo, facebook giả, chỉ khi không liên lạc được với
chủ các tài khoản đó, tài sản bị chiếm đoạt thì người bị hại mới đến cơ quan có thẩm

15


quyền trình báo. Một số vụ án có số lượng bị hại nhiều, xảy ra ở nhiều nơi nên khó
khăn cho việc xác định thẩm quyền, người thực hiện hành vi đã bỏ trốn nên việc xác
định bị hại, thời gian, địa điểm trong quá trình điều tra và thực hành quyền cơng tố
gặp nhiều khó khăn.
Một đặc điểm riêng khác của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản gắn với định giá tài sản bị chiếm đoạt hay giám định chữ
viết, chữ ký. Nhiều vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần phải có định giá tài sản,
xác định tài sản bị chiếm đoạt, hoặc cần giám định chữ viết, chữ ký. Việc giám
định, định giá tài sản có ý nghĩa lớn đối với việc xác định có phạm tội hay không,
thuộc điều khoản nào để áp dụng các biện pháp cưỡng chế phù hợp, qua đó thu hồi
tài sản bị chiếm đoạt hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, nhiều trường
hợp người thực hiện hành vi chiếm đoạt đã bỏ trốn, khó giám định chữ viết, chữ ký

của họ, hoặc tài sản bị chiếm đoạt đã không cịn, khơng có giấy tờ chứng minh
nguồn gốc, giá trị của tài sản đó, thì việc định giá rất khó thực hiện. KSV thực hành
quyền công tố cần xác định tính quan trọng của việc giám định, định giá tài sản,
phối hợp cùng ĐTV thực hiện việc định giá, giám định nhanh chóng, đúng pháp
luật.
Thêm một đặc điểm riêng của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản gắn với xác định tính chất các giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ
chức. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thường liên quan đến hành vi làm giả giấy
tờ tài liệu của cơ quan, tổ chức. Do đó, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra, KSV được phân công cần (và phải) chú ý xem xét hành vi làm giả giấy tờ
tài liệu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản có xâm phạm vào 02
khách thể khác nhau được Bộ luật Hình sự bảo vệ (quy định tại Điều 174 và Điều
341 của BLHS) hay khơng, nếu hành vi đó có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì
phải truy cứu TNHS cả về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và tội làm giả
con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ
quan, tổ chức (Điều 341).

16


Những đặc điểm chung của thực hành quyền công tố đối với các vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản:
Thứ nhất, là hoạt động có mục đích rõ ràng là nhằm truy cứu TNHS đối với
người đã thực hiện hành phạm tội, bảo đảm việc truy tố, xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Thứ hai, là hoạt động có tính quyền lực Nhà nước, tính bắt buộc thực hiện,
tính được bảo đảm bằng Nhà nước. Hoạt động này được thực hiện bởi VKSND và
chỉ VKSND là cơ quan duy nhất được Nhà nước trao quyền thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong khi
thực hành quyền công tố, VKSND được sử dụng các quyền hạn theo quy định của

pháp luật tố tụng hình sự như để đảm bảo tính có căn cứ khi truy cứu TNHS đối với
người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp cần thiết, VKSND có
thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra. Các quyết định mà Viện kiểm sát
ban hành trong quá trình thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn quyết định khởi tố bị
can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn…có hiệu lực bắt
buộc đối với cơ quan điều tra, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra và các cá nhân khác có liên quan.
Thứ ba, là hoạt động tính trình tự, thủ tục được pháp luật TTHS quy định.
VKSND thực hành quyền công tố trong các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra
theo trình tự, thủ tục được quy định của Bộ luật TTHS. Các quyết định mà Viện
kiểm sát ban hành như quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can;
quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; quyết định phê
chuẩn hay không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn…cũng đều phải tuân thủ các trình tự, thủ tục mà pháp
luật tố tụng hình sự đã quy định.
Thứ tư, là hoạt động mang tính sáng tạo. Cũng như các hoạt động tố tụng hình
sự khác, thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là
hoạt động thi hành pháp luật (tố tụng) vì vậy đều mang tính phức tạp, đòi hỏi chủ

17


thể tiến hành khơng những phải có kiến thức phong phú, trình độ chun mơn, nhất
là tư duy, trí tuệ, khả năng, năng lực, tính chun nghiệp, kinh nghiệm cơng tác lâu
năm mà cịn phải có phẩm chất, đạo đức, bổn phận trách nhiệm cao. Do vậy, người
thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải có
kiến thức tổng hợp, uyên thâm, hiểu biết rộng, có ý thức nghề nghiệp và ý thức
pháp luật cao.
1.1.3. Ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản
VKSND thực hành quyền quyền cơng tố chính là thực hiện chức năng buộc tội
được nhà nước giao, qua đó thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội. Đây là
chức năng cơ bản của VKSND mà không cơ quan nào có. Trong q trình thực
hành quyền cơng tố, VKSND sẽ tiến hành nhiều biện pháp theo quy định của
BLTTHS để góp phần làm rõ vụ án, qua đó bảo vệ các quyền con người, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một
bộ phận trong thực hành quyền cơng tố nói chung, có ý nghĩa hết sức quan trọng,
định hướng cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện những hành vi phù hợp với
quy định của pháp luật. Khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, một khi VKSND thực hiện đúng, đủ chức năng của mình khi
giải quyết vụ án hình sự, góp phần đảm bảo mọi hành phạm tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội, đảm bảo khơng có người nào bị bắt,
giam, giữ trái pháp luật, hạn chế các vi phạm pháp luật của những người tiến hành
tố tụng khi điều tra vụ án hình sự, xác định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị
can phải có căn cứ và đúng pháp luật.
Bên cạnh đó, thơng qua q trình thực hành quyền cơng tố trong điều tra vụ án
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phát hiện những phương thức, thủ đoạn mới của tội
phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, từ đó có biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật cho mọi người dân, kiến nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng

18


các biện pháp khắc phục, ngăn ngừa trên địa bàn quận 1, thành phố Hồ Chí Minh
cũng như trên cả nước.
1.2. Đối tượng, phạm vi, nội dung của thực hành quyền công tố trong điều
tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.2.1. Đối tượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
Bởi thực hành quyền cống tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
như đã nhấn mạnh có sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thực hiện những
hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật nhằm truy cứu (buộc tội)
ngươi phạm tội. Vì vậy, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và người phạm tội này chính
là đối tượng thực hành quyền cơng tố chính trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt
tài sản. Trong quá trình điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thực hành quyền
công tố hướng vào làm sáng tỏ một cách có căn cứ những vấn đề cần chứng minh
trong vụ án như: Có hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra hay không;
thời gian, địa điểm; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội đó, có thủ đoạn gian dối
hay khơng, họ có lỗi hay khơng có lỗi, do cố ý hay vơ ý; có năng lực trách nhiệm
hình sự hay khơng; có mục đích chiếm đoạt tài sản hay khơng, động cơ phạm tội là
gì; Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS của bị can và đặc điêm về nhân thân
của bị can; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, cụ thể phải
làm rõ thiệt hại về tài sản là bao nhiêu, thiệt hại có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay
không, tài sản bị chiếm đoạt thuộc khoản nào...; Nguyên nhân và điều kiện phạm
tội; Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ TNHS, miễn TNHS, miễn hình
phạt và những tình tiết khác của hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Như
vậy, khi chứng minh vụ án hình sự nói chung và tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài
sản nói riêng, Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào
những vấn đề phải chứng minh trong tố tụng hình sự, được quy định tại Điều 85
BLTTHS năm 2015.
Như vậy, đối tượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản là các yếu tố mà cơ quan tiến hành tố tụng tác động tới, chính là

19


tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản và người phạm tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản, nhằm mục đích quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những
người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản, chiếm đoạt tài sản của người
khác, bảo vệ quyền sở hữu tài sản và cá quyền, lợi ích hợp pháp khác của họ.
1.2.2. Phạm vi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao
giờ cũng gắn chặt với việc tiến hành các hoạt động điều tra của cơ quan điều tra có
thẩm quyền bắt đầu từ khi khởi tố bị can cho đến khi kết thúc điều tra hoặc đình chỉ
điều tra (vụ án). Về điều này, tác giả luận văn này chia sẻ với quan điểm cho rằng
“Khi nào và ở đâu, cơ quan điều tra tiến hành nghiệp vụ điều tra như: khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, lấy lời khái người làm chứng, hỏi cung
bị can... thì khi đó Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền cơng tố. Trong
trường hợp khơng có tội phạm thì quyền cơng tố bị triệt tiêu, theo đó cũng chấm dứt
mọi hoạt động tố tụng, trong đó có thực hành quyền cơng tố [18, tr.13].
1.2.3. Nội dung thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản như
đã nhấn mạnh, gắn với các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra. Điều đó có
nghĩa là Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong khám nghiệm hiện trường,
trong khởi tố bị can và hỏi cung bị can, trong các hoạt động khám xét, thu giữ, tạm
giữ đồ vật tài liệu và kê biên tài sản, trong tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra.
Viện kiểm sát thực hành quyền cơng tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, cụ thể là trong các hoạt động điều tra nói trên thơng qua những nhiệm vụ,
quyền hạn cụ đối với các hoạt động đó thể quy định tại các Điều 14, 15 Luật Tổ
chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014, các Điều 41, 113,119, 121, 122, 161, 165,
173, 179, 180, 449... BLTTHS năm 2015 nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội và
người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đều được điều tra nhanh chóng, đúng
đắn, chính xác, khơng để một người nào bị khởi tố, bị bắt, giam, giữ trái pháp luật,

20



×