Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Chủ trương, đường lối của Đảng; Chính sách, pháp luật của Nhà nước (Thi công chức)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.88 KB, 67 trang )

MỤC LỤC
Câu 1: Anh (chị) hãy phân tích và minh họa nguyên tắc “Tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách trong các cơ quan, tổ chức Đảng, Nhà nước trong glai đoạn
hiện nay”? Nên những tồn tại và giải pháp khắc phục?........................................3
Câu 2: Sự cần thiết, phương thức kết hợp giữa chính sách kinh tế - chính
sách xã hội? Liên hệ thực tế?................................................................................7
Câu 3: Trình bày tính chất tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của văn hoá
Việt Nam theo cương lĩnh của Đảng? Cần phải làm gì để giữ gìn và phát huy
bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay?......10
Câu 4: Cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nước ta?...................................................................................................17
Câu 5: Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền con
người. Trong những quan điểm đó theo Anh (Chị) quan điểm nào là quan trọng
nhất? Vì sao?.......................................................................................................25
Câu 6: Tại sao nói kết hợp giữa phát triển kinh tế xã hội với tăng cường
quốc phòng an ninh là tất yếu?............................................................................34
Câu 7: Trình bày những nhiệm vụ cơ bản của chiến lược bảo vệ Tổ quốc
Việt nam XHCN trong giai đoạn hiện nay. Theo anh, chị trong những nhiệm vụ
trên là quan trọng nhất? Vì sao?..........................................................................39
Câu 8: Vai trò, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong cơ chế thể chế hố
ở Việt Nam?.........................................................................................................45
Câu 9: Trình bày những định hướng cơ bản về tăng cường củng cố Quốc
phòng – An ninh bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo trong thời kỳ mới?.....51
Câu 10: Đánh giá tác động của chính sách trong xây dựng pháp luật ở
nước ta hiện nay?.................................................................................................57


CHUYÊN ĐỀ 2: CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG;
CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC
Câu 1: Anh (chị) hãy phân tích và minh họa nguyên tắc “Tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách trong các cơ quan, tổ chức Đảng, Nhà nước trong


glai đoạn hiện nay”? Nên những tồn tại và giải pháp khắc phục?
- Tập thể lãnh đạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ: "Lãnh đạo khơng tập thể, thì sẽ đi
đến cái tệ bao biện, độc đốn, chủ quan. Kết quả là hỏng việc”. Người đứng đầu,
cán bộ lãnh đạo, quản lý khơng có phong cách làm việc tập thể, dân chủ, mà độc
đoán, chuyên quyền sẽ dẫn đến kìm hãm tính tích cực, sáng tạo của Đảng viên
và nhân dân. Đối với cơ quan lãnh đạo, đối với những người lãnh đạo, các Đảng
viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng khơng dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ,
khơng dám phê bình, Thành thử cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau. Quần
chúng với Đảng rời xa nhau. Trên thị trường cái gì cũng tốt đẹp. Dưới thì có gì
khơng dám nói ra.
- Người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý cần có phong cách làm việc
tâp thể, dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: Lực lượng của nhân dân
nhiều vô cùng. Kinh nghiệm trong nước và các nước đều chứng tỏ: có lực lượng
nhân dân việc to tát mấy, khó khăn mây làm cũng được. Khơng có, thì việc gì
làm cũng khơng xong. Nhân dân biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn,
mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi
khơng ra.
Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân
chủ mới làm cho cán bộ về quần chúng đề ra sáng kiến. Nhưng sáng kiến đó
được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng


học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc, thì những
khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ nguyên tắc và phong cách làm việc dân chủ,
tập thể là: "Chúng ta cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra, khuyên gắng cán bộ
và Đảng viên, bày cho họ suy nghĩ, bày cho họ, học hỏi quần chủng, cổ động họ
tìm tịi, đề nghị, làm thêm việc ích lợi cho quần chúng. Khi họ đã có ít nhiều
sáng kiến, thì giúp cho họ phát triển, khen ngợi cho họ thêm hăng hái. Như thế,

thì những tính lười, tính "gặp chăng hay chở" ngay càng bớt, mà sáng kiến và
tính hăng hái ngày càng cao.
- Cá nhân phụ trách:
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân
phụ trách là tập trung. Làm việc mà khơng theo đúng cách đó, tức là làm trái dân
chủ tập trung. Trong thực tế, chỉ nhấn mạnh mặt dân chủ, tập thể lãnh đạo, mà
không chú ý đến tập trung, cá nhân phụ trách, hoặc ngược lại chỉ nhấn mạnh một
tập trung, cá nhân phụ trách không thực hiện dân chủ, tập thể và đạo đều dẫn
đến sai lầm.
- Cá nhân phụ trách là khi công việc của Đảng, của cấp uỷ, của tập thể
sau khi đã được bàn bạc thấu đáo đã đến ra nghị quyết hoặc quyết định thì phải
được phân cơng cho từng người phụ trách thi hành. Việc một người không làm
nổi phải giao cho một tập thể thực hiện thì cũng phải có người đứng đầu tập thể
đó để chịu trách nhiệm chính.
- Bản lĩnh cá nhân phụ trách theo Chủ tịch Hồ Chí Minh có nghĩa là
người đứng đầu, hoặc là cán bộ lãnh đạo, quản lý của đất nước, một địa phương.
Bộ, ngành hoặc đơn vị, phải là “Những người có thể phụ trách giải quyết các
vấn đề, trong những hồn cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách và khơng có sáng kiến


thì khơng phải người lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thắt bại
không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành của các nghị
quyết kiên quyết, gan góc khơng sợ khó khăn. Những người luôn luôn giữ đúng
kỷ luật"
Người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có trách nhiệm cao trước
Tổ quốc, nhân dân, trước Đảng, trước cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh phân
tích rõ: “Có người nói rằng mọi việc họ đều phụ trách trước Đảng, trước Chính
phủ. Thế là đúng, nhưng chỉ đúng một nửa. Họ phụ trách trước Đảng và 1 Chính
phủ, đồng thời họ phải phụ trách trước nhân dân. Mà phụ rách trước nhân dân
nhiều hơn phụ trách trước Đảng và Chính phủ, vì Đảng và Chính phủ vì dân mà

làm các việc, và cũng phụ trách trước nhân đến. Vì vậy nếu cán bộ khơng phụ
trách trước nhân dân, tức là không vi trách trước Đảng và Chính phủ, tức là đưa
nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ.
- Cá nhân phụ trách trước Đảng, Chính phủ và nhân dân cần làm gì? Nếu
trong những chính sách, những chỉ thị, những khẩu hiệu của cấp trên có khiếm
khuyết khuyết, cán bộ phải có tinh thần phụ trách trước nhân dân mà để nghị
những chỗ nên sửa đổi. Không làm như vậy, tức là cán bộ không phụ trách trước
nhân dân, mà cũng không phụ trách trước Đảng và Chính phủ.
Việc gì cũng bàn bạc với nhân dân, giải thích cho nhân dân. Thế là phụ
trách trước nhân dân. Chúng ta phải ghi tâm vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt.
Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khi nấy họ cũng làm được, hy sinh họccũng
không sợ. Nhưng trước hết cần phải chịu khó tìm cách giải thích cho họ hiểu
rằng: những việc đó là vì lợi ích của họ mà phải làm.
Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chủng,
vì cần cho quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào khơng hợp với
quần chúng thì cá nhân phụ trách phải cố gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc


sửa lại. Cách nào hợp với quần chủng, quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, có
nhân phụ trách phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra. Nếu cần làm thì cứ đặt ra, rồi
báo cáo sau, miễn là được việc. Đó cũng là tinh thần dám đổi mới và cách mạng.
- Trách nhiệm và quyền hạn của cá nhân phụ trách và tập thể.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh cá nhân phụ trách cũng có nghĩa là người
đứng đầu, cán bộ lãnh đạo quản lý có một quyền uy nhất định, nhưng đồng thời
cũng phải có tỉnh thần tập thể cao nhất, có trách nhiệm với tập thể cao nhất và
phải có chính kiện trong tập thể để giải quyết công việc của tập thể, cơ quan, địa
phương, đất nước.
Cá nhân phụ trách trên cơ sở tập thể lãnh đạo nghĩa là phải quyết tâm tổ
chức thực hiện đúng việc tập thể đã bàn, đã quyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: "Người nào phụ trách thi hành, mà tự làm đúng kế hoạch do đa số đã quyết

định, là làm trái với nhiệm vụ của mình, và cũng không xứng đáng là người lãnh
đạo".
Những tồn tại, hạn chế:
Nhận thức chưa đầy đủ về nguyên tắc và phong cách làm việc tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách dẫn đến những bất cập, lạm dụng, cực đoan trong vận
dụng nguyên tắc và phong cách làm việc đó. Cho nên vừa có hiện tượng gia
trưởng, độc đốn, coi nhẹ trách nhiệm tập thể cấp uỷ, vừa có tình trạng cấp trên
không kỷ luật được cấp dưới, không quản lý được cấp dưới; người lãnh đạo,
quản lý thiếu tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Mỗi cán bộ, Đảng viên mà trước hết là cán bộ lnh đạo, quản lý kiểm điểm,
liên hệ theo chức trách, nhiệm vụ được giao, tự phê bình và phê bình thẳng thắn,
dân chủ, nghiêm túc, chân thành, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ theo cương vị


công tác. Tập trung làm rõ trách nhiệm cá nhân, gương mẫu thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê
bình, nói đi đơi với làm.

Câu 2: Sự cần thiết, phương thức kết hợp giữa chính sách kinh tế chính sách xã hội? Liên hệ thực tế?
CSKT và CSXH là một thể thống nhất, sự thống nhất đó được xác định ở
một giới hạn hợp lý giữa chúng, mà ở đó sự kết hợp tối ưu CSKT và CSXH có
tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Sự kết hợp đó dựa trên
nguyên tắc:
-

CSKT phải tìm được động lực trong xã hội và đảm bảo ổn định xã

-

CSXH phải thúc đẩy kinh tế phát triển và phù hợp với điều kiện


hội

kinh tế cho phép



Sự cần thiết kết hợp CSKT và CSXH
Để hoạch định CSXH phải nghiên cứu mối quan hệ giữa CSKT và

CSXH, tức là làm rõ:
-

Tính chất xã hội, mục tiêu xã hội trong CSKT


-

Những điều kiện đảm bảo khả năng của nền kinh tế để đầu tư cho

CSXH
-

Sự kết hợp giứa mục tiêu KT –XH trong hoạch định CSKT và

CSXH
Khi kết hợp cần chú ý các điểm sau:
-

CSKT và CSXH tuy có mục tiêu riêng, mục tiêu tự thân của nó


song lại có mục tiêu chung là phát triển xã hội.
-

CSXH là yếu tố của sự phát triển và nằm trong yếu tố phát triển, vì

vậy đầu tư cho CSXH là đầu tư cho sự phát triển.
-

Tăng trưởng kinh tế khơng tự nó giải quyết được tất cả các vấn đề

xã hội, vì vậy địi hỏi phải có các chính sác, chương trình xã hội riêng để giải
quyết các đối tượng, các địa bàn (vùng) và các loại vấn đề xã hội cụ thể nổi lên
trong từng thời điểm nhất định.
-

Các vấn đề xã hội, đặc biệt là các vấn đề gây bức xúc trong dư luận

phát sinh có nguyên nhân và nguồn gốc sâu xa về kinh tế; vì vậy, các chính sách
và chương trình xã hội phải được giải quyết bằng các giải pháp kinh tế, phải tìm
đến hiệu quả kinh tế - xã hội và theo quan điểm phát triển.
-

Khi nói đến tiến bộ xã hội có nghĩa là đề cập đến mặt chất lượng

của sự phát triển xã hội và tính hợp quy luật của sự phát triển xã hội.
-

Để kết hợp giữa CSKT và CSXH đòi hỏi phải tìm ra giới hạn hợp


lý giữa chúng: Xem xét, phân tích những dấu hiệu, những yếu tố tác động tích


cực hoặc những yếu tố gây hậu quả tiêu cực của những chính sách đó, để từ đó
Nhà nước áp dụng các biện pháp kiểm soát, khống chế



Phương hướng kết hợp CSKT và CSXH

Sự kết hợp giữa CSKT và CSXH được xác định phụ thuộc và định hướng
chính sách ở tầm vĩ mơ và trong xây dựng phương án chính sách cụ thể. Ở đây
có 3 phương thức lựa chọn.
-

Chính sách xã hội đi sau chính sách kinh tế

-

CSXH đi trước CSKT

-

CSXH đi đồng thời và song song với CSKT

Kinh nghiệm phát triển kinh tế ở nước ta cho thấy nếu chọn phương thức
1 thì sẽ sa vào quan điểm chạy kinh tế thị trường tự do đơn thuần, coi nhẹ các
vấn đề xã hội, nếu chọn phương thức 2 thì lại rất dễ mắc sai lầm chủ quan duy ý
chí.
Vì vậy phương thức chọn là:“ Phải kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh

tế với tiến bộ và công bằng xã hội”



Phương pháp kết hợp ở tầm Quốc gia

-

Kết hợp ngay trong mục tiêu và phương hướng chiến lược phát

triển KT – XH của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
XH 5 năm

Kết hợp quy hoạch tổng thể trong kế hoạch dài hạn phát triển KT-


-

Kết hợp trong việc xây dựng và thể chế hoá, luật pháp hố các

chính sách xã hội
-

Kết hợp trong kế hoạch và cân đối Ngân sách Nhà nước hằng năm

(trong đó: xác định rõ tỷ lệ và quy mơ đầu tư cho CSXH, có lựa chọn các vấn đề
ưu tiên)
-

Kết hợp trong việc lồng ghép các chương trình, dự án kinh tế và các


chương trình, dự án xã hội



Nguyên tắc kết hợp

-

Hoạch định chính sách phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy luật của

kinh tế hàng hoá để phát triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế, đồng thời lường
trước những mặt khiếm khuyết để chủ động điều chỉnh thông qua cơ chế và
chính sách phù hợp, kịp thời
-

Cần xác định rõ vai trị của Nhà nước. Nhà nước khơng can thiệp

trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế mà bằng cách
tạo ra môi trường pháp lý cho họ.
-

Cần phải coi trọng việc xã hơi hố cả trong nhận thức và trong hành

động về quan hệ giữa CSKT và CSXH, phải quán triệt ở tất cả các ngành, các
cấp và mọi người, đặc biệt là trong các cơ quan và cán bộ hoạch định và thực thi
chính.
-

Trong việc kết hợp giữa CSKT và CSXH phải biết chọn ra chính


sách cơ bản, xác định những vấn đề xã hội cần ưu tiên giải quyết.


Tóm lại, CSKT và CSXH là một thể thống nhất, sự thống nhất đó được
xác định ở một giới hạn hợp lý giữa chúng mà ở đó sự kết hợp tối ưu giữa CSKT
và CSXH có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Sự kết
hợp đó dựa trên ngun tắc: CSKT phải tìm được động lực trong xã hội và đảm
bảo ổn định xã hội; ngượi lại CSXH phải thúc đẩy kinh tế phát triển và phù hợp
với điều kiện kinh tế cho phép.

Câu 3: Trình bày tính chất tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của văn
hoá Việt Nam theo cương lĩnh của Đảng? Cần phải làm gì để giữ gìn và
phát huy bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam trong xu thế tồn cầu hóa
hiện nay?
Đảng ta ln quan tâm và đánh giá cao vai trị, vị trí của văn hóa đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa, trong đó nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc trong thời kỳ mới là một nhiệm vụ quan trọng. Để hiểu rõ nhiệm vụ xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trước hiểu ta tìm hiểu: Văn
hóa là gì? Tính chất tiên tiến của nền văn hóa Việt Nam là gì?
- Văn hóa là tất cả giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra.
- Tính chất tiên tiến của nền văn hóa Việt Nam là một sự vật hiện tượng
luôn luôn đi trước và biểu hiện trình độ cao về văn minh, vật chất lẫn tinh thần.
Là sự hòa huyện giữa giá trị truyền thống và tinh hoa văn hóa nhân loại đáp ứng
yêu cầu xã hội đem lại hạnh phúc cho con người.
Trong thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế,



Đảng ta đã xác định nền văn hóa mà chúng ta tiến tới là nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Trình độ tiên tiến của nền văn hóa khơng mâu thuẫn với
bản sắc văn hóa dân tộc, ngược lại, hai đặc tính thống nhất biện chứng với nhau,
tác động qua lại và quy định lẫn nhau. Ở đây, chúng ta tách thành 2 nội dung đặc
trưng “tiên tiến” và “bản sắc dân tộc” để nghiên cứu sâu sắc hon và đầy đủ hơn
theo phương pháp trừu tượng hóa khoa học.
- Tính chất tiên tiến của nền văn hóa Việt Nam được thể hiện như sau:
Thứ nhất, nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa thể hiện tinh thần yêu nước
và tiến bộ.
Đặc trưng tiên tiến của nền văn hóa hiện đại dựa trên các giá trị văn hóa
cao đẹp và tiến bộ của dân tộc và thời đại. Đó là chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - cơ sở chỉ đạo đời sống tinh thần dân
tộc và là thành tố quan trọng của văn hóa.
Dưới ánh sáng của hệ tư tưởng tiến bộ trên, tính “tiên tiến” của nền văn
hóa Việt Nam thể hiện ở mục tiêu mà nền văn hóa hướng tới là “độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội”. Bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và nền
văn hóa mới ở nước ta hiện nay là một quá trình thống nhất không thể tách rời.
Chế độ xã hội tiên tiến quy định tính tiên tiến của nền văn hóa, đồng thời nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là iộng lực của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triên kinh tế - xã hội của đất nước.
Nghị quyêt Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiên
tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.


Thứ hai, nền văn hóa tiên tiến phải thể hiện tinh thần nhân văn cách
mạng.
Xây dựng nền văn hóa nhân văn là hướng tới con người, giải phóng con
người, phát triển và hoàn thiện con người. Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng
duy nhất lấy việc giải phóng con người làm mục tiêu cao cả của mình. Giải

phóng con người khơng chỉ là làm cho con người thốt khỏi mọi hình thức bóc
lột, áp bức bất cơng về thể xác mà cịn là giải phóng con người về mặt tinh thần,
giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo, mở ra những điều kiện xã hội tốt đẹp cho
con người phát triển toàn diện về nhân cách. Chủ nghĩa Mác-Lênin là chủ nghĩa
nhân văn “trực tiếp nhằm vào hành động” đê giải phóng con người theo ý nghĩa
cách mạng cao quý đó. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh tinh thần giải
phóng con người như là mục đích tối thượng của chủ nghĩa Mác-Lênin “muốn
chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, mọi người đều được phát triển hết khả năng
của mình”.
Thứ ba, nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa mang tinh thần dân chủ.
Dân chủ là đặc trưng cơ bản của nền văn hóa tiên tiên (tiến bộ), dân chủ là
yếu tố làm thay đổi nhiều mặt đời sống văn hóa dân tộc. Dân chủ là nguồn sữa
ni dưỡng nền văn hóa, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển văn hóa. Dân
chủ là động lực cho sự phát triển tài năng, nhu cầu sáng tạo của quần chúng
nhân dân góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hóa dân tộc để phục vụ cho
con người. Dân chủ gắn liền với tự do sáng tạo, tôn trọng cá tính sáng tạo, ý kiến
cá nhân, giá trị cá nhân trong văn hóa và mọi hoạt động của đời sống xã hội.
Thứ tư, nền văn hóa tiên tiến bao gồm tính hiện đại.
Ngồi yếu tố hệ tư tưởng - thành tố quan trọng của nền văn hóa tiên tiến
thì các yếu tố khác của nó cũng địi hỏi phải có trình độ hiện đại: trình độ giáo


dục, khoa học - công nghệ, v.v... Phải dẩn dần tiến kịp và hịa nhập với trình độ
hiện đại của thế giới, phải hướng tới cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ để
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đòi hỏi sự vận dụng sáng tạo và làm
chủ các tri thức khoa học và công nghệ để xây dựng đất nước. Nâng cao trình độ
tư duy khoa học, duy lý trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội trong điều kiện
kinh tế thị trường, giải quyết các vân đê dân tộc đặt ra trên tâm thời đại. Nen văn
hóa mới phải tạo ra những phẩm chất, đạo đức, tâm hồn, lối sống con người Việt
Nam hiện đại ngang tầm với sự nghiệp đổi mới đất nước.

Thứ năm, nền văn hóa tiên tiến thể hiện ở hình thức biểu hiện, phương
tiện chuỵển tải nội dung.
Sử dụng các hình thức sáng tạo mới bằng các công nghệ hiện đại làm sâu
sắc, phong phú và đa dạng các sản phẩm văn hóa dân tộc. Có cách thức và
phương pháp tiên tiến để chuyển đổi nội dung và làm mới các giá trị văn hóa cổ
truyền cho phù hợp với thời đại. Đồng thời phải xây dựng kết cấu hạ tầng của xã
hội và văn hóa từng bước hiện đại hóa. Đầu tư để xây dựng cơ sở vật chất kỳ
thuật, trang thiết bị cho hoạt động văn hóa tiến kịp trình độ khoa học cơng nghệ
hiện đại. Có như vậy mới giúp cho sự sáng tạo tốt hơn, sự truyền bá nhanh hon,
rộng rãi hơn đáp ứng được nhu cầu văn hóa ngày càng tăng và càng cao của
nhân dân.
- Bản sắc dân tộc của nền văn hóa mới
Trong văn kiện Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã chỉ rõ: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh
hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng
ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u nước nồng nàn, ý
chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia
đình làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức


tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong
lối sống. Bản sắc văn hóa dân tộc cịn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện
mang tính dân tộc độc đáo”.
Nền văn hóa tiên tiến phải có sắc thái riêng, cái độc đáo của truyền thống,
tâm hồn, cốt cách, lối sống, v.v... của một dân tộc chứa đựng những tinh hoa của
quá khứ kết hợp với những cái tốt đẹp của hiện đại. Nền văn hóa đó phải phát
triển trên nền những sắc thái riêng đã trở thành bản sắc của chính nó. Nếu
khơng, trước xu hướng tồn cầu hóa, xu hướng áp đặt văn hóa được truyền bá
bởi sức mạnh vật chất và phương tiện kỹ thuật hiện đại sẽ biến văn hóa của các
quốc gia dân tộc thành “bản sao” của nền văn hóa khác.

Để xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta cần:
+ Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đổi mới bản
sắc dân tộc phù hợp với u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đem lại
hạnh phúc cho nhân dân.
+ Phát triển văn hóa dân tộc đi đơi với giao lưu văn hóa với nước ngồi,
tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu đẹp thêm văn hóa Việt Nam.
Ngăn chặn và đấu tranh chống sự xâm nhập của những sản phẩm văn hóa, phản
giá trị, chống lại âm mưu “diễn biến hịa bình” trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng
của các thế lực phản động hiện nay.
Văn hóa là nền tảng, là động lực mục tiêu, là cái gốc của dân tộc, gốc của
con người. Sự nghiệp cách mạng vẻ vang đòi hỏi Đảng và nhân dân ta phải
quyết tâm xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Đứng
trước những khó khăn và thách thức mới, mỗi người dân Việt Nam chúng càng
phải nhận thức được vai trò của bản thân trong xây dựng và phát triển nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng đã đề ra. Chúng


ta hãy cố gắng học tập, rèn luyện bản thân thật tốt để mỗi người đều trở thành
một bông hoa đẹp có ích, qua đó thể hiện được bản sắc văn hố dân tộc trong
từng lời nói, hành động. Làm được điều đó có nghĩa là chúng ta đã góp phần xây
dựng hình ảnh đất nước Việt Nam thân thiện và đẹp đẽ trong mắt bạn bè quốc tế.
Với riêng bản thân tơi, để góp phần sức lực nhỏ bé của mình, khơng
ngừng học tập nâng cao trình độ chuyen mơn, trình độ chính trị, hồn thành xuất
ắc các nhiệm vụ được giao; gương mẫu đi đàu trong các hoạt động địa phương,
từ đó tuyên truyền, vận động người thân, gia đình tham gia xây dựng đời sống
văn hóa mới như các phong trào xây dựng Gia đình văn hóa, khu dân cư văn
hóa, củng cố tình làng nghĩa xóm, nêu cao tinh thần dồn kết tương trợ lẫn nhau;
tích cực tham gia cùng mặt trận, hội đoàn thể địa phương tổ chức vận động nhân
dân xây dựng đời sống văn hóa, bài trừ hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, kịp thời
góp ý phản biện để Đảng, Nhà nước có những sửa đổi cho phù hợp, góp phần

đưa chủ trương chính sách của Đảng vào cuộc sống.
Giữ gìn, phát huy, làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc càng ngày càng trở
thành nhu cầu, nhiệm vụ của văn hóa và của tất cả mọi người. Để làm tốt nhu
cầu và nhiệm vụ nặng nề này, cần phải thấm nhuần quan điểm: chỉ có phát triển
mạnh mẽ văn hóa các dân tộc với bản sắc riêng của chúng, văn hóa nhân loại
mới trở nên phong phú, đa dạng. Nếu văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới
đều bị mất đi bản sắc riêng hoặc bị đồng hóa bởi một nền văn hóa... thì chắc
chắn kho tàng văn hóa nhân loại sẽ nghèo nàn, đơn điệu. Cho nên cái chung của
văn hóa nhân loại chỉ phong phú khi cái riêng của văn hóa từng dân tộc được
coi trọng.
Đảng ta chỉ rõ xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đặc đậm bàn sắc
dân tộc, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc trong giao lưu quốc tế là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân.


Giữ gìn bản sắc văn hóa khơng có nghĩa là loại bỏ các yếu tố văn hóa
ngoại lai. Các yếu tố văn hóa bản địa trước đây đã từng dung hợp với các yếu tố
văn hóa ngoại nhập nhưng vẫn tạo ra những nét văn hóa bản sắc. Vấn đề là phải
dung hợp như thế nào và điều đó phải trở thành nhận thức, ý thức thường trực
trong tiếp nhận và sử dụng. Thực tế cho thấy nhiều người có ý thức giữ gìn bản
sắc văn hóa Việt Nam rất quan ngại khi các yếu tố văn hóa ngoại nhập đã làm
xâm phạm và làm lu mờ những giá trị văn hóa truyền thống. Gần đây trang phục
và diễn xuất của nhiều ca sĩ, diễn viên trên sân khấu đã tạo ra sự phản cảm, trở
thành một vấn đề nhức nhối khiến cho một bộ phận không nhỏ khán giả quay
lưng với nghệ thuật sân khấu.
Giữ gìn bản sắc văn hóa là một yêu cầu vừa lâu dài vừa cấp thiết. Do đó,
chúng ta cần phải:
- Kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa của tất cà các dân tộc trong
nước, sự đa dạng, phong phú của văn hóa tộc người, vùng, miền, địa phưong.
khẳng định giá trị, giữ' gìn tinh hoa di sàn văn hóa dân tộc.

- Phát triển văn hóa dân tộc đi liền với giao lưu văn hóa quốc tế; tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu đẹp văn hóa dân tộc; đồng thời đề
cao bản lĩnh văn hóa dân tộc, đấu tranh chống sự thâm nhập của văn hóa độc
hại.
- Chuyển đổi, bổ sung những thiêu hụt cùa văn hóa cổ truyền trước yêu
cầu mới của thời đại, làm cho bản sắc văn hóa dân tộc càng giàu có, phong phú,
có sự đồi mới phù hợp với thời đại tiên tiến, với việc đầy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Phát huy thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh như sự kết tinh tốt đẹp nhất của tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại


thời hiện đại.
- Tạo một môi trường quốc gia về văn hóa thật sự lành mạnh và thuận lợi
cho việc giữ gìn, phát huy bàn sắc văn hóa dân tộc. Mơi trường này thể hiện ờ
cấu trúc văn hóa (gia định, làng (phố, nước); những cơ quan làm văn hóa; ở
khơng khí nhiệt tình sáng tạo của nhũng lực lượng sưu tầm, nghiên cứu, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, nhũng lực lượng tiếp nhận văn hóa nước ngồi và
tính tích cực tham gia văn hóa ờ trình độ dân trí cao và sự am hiểu văn hóa dân
tộc của tồn dân; đưa giáo dục văn hóa văn nghệ vào nhà trường, từ mẫu giáo.
- Tổ chức, vật chất hóa q trình gìn giữ, phát huy các giá trí văn hóa cổ
truyền và hiện đại bằng cách đầy mạnh phương châm xã hội hóa sự nghiệp văn
hóa. kết họp sự tìm tịi, đóng góp. đầu tư của Nhà nước, nhân dân và các nguồn
quí quốc tế
- Một mặt táng cường hoạt động giao lưu văn hóa với nước ngồi, trong
giao lưu chú ý tiếp thu tinh hoa, ngăn chặn độc tố; mặt khác tăng cường phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc góp phần vào kho tàng văn hóa thế giới...
- Giữ gìn, phát huy, làm giàu bàn sắc văn hóa dân tộc trong giao lưu quốc
tế là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, rất cần sự chung sức, chung lịng của Đàng,
Nhà nước, nhân dân, mới có thể làm tốt được.


Câu 4: Cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta?
Ngay từ thời dựng nước, Việt Nam đã là quốc gia thống nhất đa dân tộc
(tộc người). Trong tiến trình phát triển hàng ngàn năm, các dân tộc luôn luôn sát


cánh bên nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với truyền thống: “Bầu ơi thương
lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Cái “giàn” mà ông cha
ta đã tổng kết chính là Tổ quốc Việt Nam của tất cả chúng ta. Ngay từ khi mới
thành lập, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định vấn đề dân tộc có vai
trị và vị trí đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng
và nhân dân ta. Quán triệt những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
về vấn đề dân tộc, ngay từ đầu, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra
những nguyên tắc và định hướng chiến lược về chính sách dân tộc ở Việt Nam,
đó là đồn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc.
Với quan điểm cách mạng là sáng tạo khơng ngừng, trong thời kỳ đổi
mới, chính sách dân tộc của Đảng ta vừa đảm bảo tính nhất quán, vừa đổi mới
trước yêu cầu phát triển và hội nhập nhằm giải quyết thành công vấn đề dân tộc
ở nước ta hiện nay và trong tương lai.
Dân tộc được hiểu là một cộng đồng ổn định có chung về lãnh thổ hoạt
động kinh tế, về một ngôn ngữ giao tiếp và một nền văn hóa hay cịn gọi là dân
tộc quốc gia.
Các dân tộc sống trong một dân tộc quốc gia có ba đặc trưng về tiếng mẹ
đẻ (ngơn ngữ riêng), về nền văn hóa riêng và ý thức tự giác riêng thì gọi là dân
tộc tộc người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, vấn đề dân tộc là một vấn đề
rộng lớn, phức tạp. Việc đề ra chính sách dân tộc cùa Đảng Cộng sản Việt Nam
dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như các điều kiện lịch sử cụ thể của
từng dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam.

1. Về cơ sở lý luận


- Thứ nhất, đó là việc dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
về khái niệm và những đặc trưng cơ bản của dân tộc.
Dân tộc được hiểu là một khái niệm để chỉ một công đồng người ổn định,
được hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất định, với
những đặc trưng cơ bản đó là có chung lãnh thổ, có một phương thức sinh hoạt
kinh tế chung, một ngôn ngữ giao tiếp chung và một nền văn hóa chung biểu
hiện trong tâm lý dân tộc.
Từ khái niệm này, chúng ta có thể xem dân tộc là một cộng đồng người ổn
định, hình thành và phát triển trong lịch sử với ba đặc trưng cơ bản sau:
+ Cộng đồng về ngôn ngữ. Ngôn ngữ chung của cộng đồng có thể bao
gồm ngơn ngữ nói và viết. Đây là nhân tố quan trọng giúp cho quá trình cố kết
cộng đồng. Tuy nhiên, khơng phải có bao nhiêu ngơn ngữ nói là có bấy nhiêu
dân tộc.
+ Có những đặc điểm chung thuộc bản sắc văn hóa. Những đặc điểm
chung này có thể là văn hóa vật chất, có thể là văn hóa l i nh thần phản ánh
truyền thống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng lon giáo của dân tộc.
+ Có ý thức tự giác tộc người. Đây là nhân tố quan trọng khẳng định sự
tồn tại và phát triển của dân tộc, đồng thời là tiêu chí để phân định giữa dân tộc
này với dân tộc khác. Các yếu tố cư dân, kinh tế, địa bàn có thể thường xuyên
biến đổi, song ý thức tộc người có tính bền vững tương đối và thường gắn với
lịch sir dựng và giữ nước của cả dân tộc.
- Thứ hai, việc đề ra chính sách dân tộc cịn dựa trên lý luận về 2 xu
hướng khách quan trong phong trào dân tộc và quan hệ dân tộc.


Nghiên cứu vấn đề dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa
Mác-Lênin đã phát hiện ra 2 xu hướng khách quan:

+ Xu hướng phân lập. Đây là xu hướng phản ánh sự chín muồi về ý thức
dân tộc, sự thức tỉnh về các quyền sống của dân tộc và phát triển thành phong
trào dân tộc. Các cộng đồng cư dân muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân
tộc độc lập. Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, hàng loạt các dân tộc
vùng lên đấu tranh để lập nên các quốc gia dân tộc độc lập; xác lập quyền lựa
chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc mình.
+ Xu hướng liên hiệp. Đây là xu hướng mà các dân tộc ớ từng quốc gia
hoặc nhiều quốc gia liên hiệp với nhau, xóa bở sự biệt lập khép kín, phá vỡ hàng
rào ngăn cách giữa các dân tộc đế thành lập các quốc gia đa dân tộc độc lập,
thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc.
- Thứ ba, dựa trên cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Những năm đầu của thế kỷ XX, dựa trên sự vận dụng và phân tích sâu sắc
lý luận của C.Mác về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, 2 xu
hướng khách quan của phong trào dân tộc, kinh nghiệm thế giới và kinh nghiệm
của nước Nga, V.I.Lênin đã nêu ra Cương lĩnh dân tộc: các dân tộc hồn tồn
bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quỵêt, liên hiệp công nhân tất cả các dân
tộc lại. Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin có 3 nội dung:
+) Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Bình đẳng dân tộc là quyền
thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc
hồn tồn bình đẳng có nghĩa là các dân tộc dù lớn hay nhỏ, khơng phân biệt
trình độ cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân
tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức dân tộc khác.


+) Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết. Quyền dân tộc tự quyết là
quyền làm chủ của một dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình, trong đó có
quyền quyết định chế độ chính trị - xã hội và con đường phát triển của dân tộc
mình; quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành một quốc gia dân tộc độc
lập vì lợi ích của các dân tộc; quyền tự nguyện hiệp lại với các dân tộc khác trên
cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên

ngồi, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển quốc gia, dân tộc.
+) Ba là, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây là tư tưởng cơ bản
trong Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin, phản ánh bản chất quốc tế của phong
trào công nhân, đồng thời phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân
tộc với giải phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh
để giành thắng lợi.
- Thứ tư, dựa trên Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu
tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và
truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận
dụng và phát triển sáng tạo, chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với tình hình và
điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.
2. Về cơ sở thực tiễn
Trên phương diện thực tiễn, việc đề ra chính sách dân tộc hiện nay của
Đảng ta trước hết xuất phát từ thực tiễn vấn đề dân tộc và quá trình giải quyết
vấn đề dân tộc ở Việt Nam những năm qua.


Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, các dân tộc ở Việt Nam có một q
trình gắn bó và một ý thức dân tộc được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử
dựng và giữ nước của cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Theo các nhà nghiên
cứu, các dân tộc ở Việt Nam có các đặc điểm đáng chú ý về tộc người và quan
hệ giữa các tộc người sau:
Một là, các dân tộc ở Việt Nam cư trú, sinh sống xen kẽ nhau và có sự
chênh lệch khá lớn về nhiều mặt.
Nhìn chung, việc các dân tộc sống và cư trú xem kẽ, đang xen từ lâu đã
trở thành tình trạng chủ yếu ở mọi vùng, miền, tình thành trong cả nước. Khơng
có dân tộc nào có lãnh thổ riêng biệt hoặc sống biệt lập. Trên một địa bàn có thể
có nhiều dân tộc cùng sinh sống, cư trú. Hơn thế nữa cùng một dân tộc có thể cư

trú, sinh sống trên nhiều địa bàn, tỉnh thành khác nhau. Cả nước có 54 dân tộc
anh em, riêng vùng Tây Nguyên đã có tới hơn 40 dân tộc cùng sinh sống đan
xen nhau.
Việc cư trú, sinh sống xen kẽ nhau một mặt sẽ tạo điều kiện thuận lợi để
các dân tộc giao lưu về kinh tế, văn hóa, xã hội, v.v... kế thừa và phát huy các
yếu tố tốt đẹp của các dân tộc khác, các giá trị về mặt đạo đức, phong tục tập
quán của nhau và phát huy các giá trị bản sắc dân tộc; mặt khác cũng sẽ xuất
hiện các vấn đề náy sinh trong các quan hệ dân tộc đòi hỏi Đảng, Nhà nước và
chính quyền địa phương phải đương đầu giải quyết.
Về địa bàn cư trú, ngoại trừ người Kinh chủ yếu sống ở các thành phố,
vùng đồng bằng, trung du nơi có những điều kiện sống thuận lợi hơn, cịn hầu
hết các dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú ở các vùng núi, biên giới, hải đảo, v.v...
nơi có những điều kiện sống khơng thuận lợi và nhiều khó khăn. Chính những
điều kiện sống khác nhau này đã dẫn tới trình độ phát triển về các mặt kinh tế,
xã hội và văn hóa khơng đều nhau. Trong các dân tộc thiểu số, có những dân tộc


đã đạt đến tình độ kinh tế hàng hóa phát triển, song cũng cịn khơng ít các dân
tộc kinh tế hàng hóa mới hình thành. Tình trạng nói trên đã và đang đặt ra cho
Đảng và Nhà nước ta những nhiệm vụ hết sức bức thiết, nặng nề đó là khắc phục
và thu hẹp dần khoảng cách về mọi mặt giữa miền núi với miền xuôi, vùng cao
với vùng thấp.
Hai là, các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống đồn kết, tương thân
tương ái, gắn bó lâu đời trong quá trình đấu tranh dựng và giữ nước của dân tôc.
Đây là một truyền thống được hun đúc gắn liền với quá trình đấu tranh chống
thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm nhiều thế kỷ. Chính q trình gắn bó lâu
dài, chung lưng đấu cật, chia ngọt sẻ bùi của các dân tộc anh em đã lạo nên
truyền thống đoàn kết, yêu nước của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Ba là, các dân tộc ở Việt Nam đều có bản sắc văn hóa riêng tao nên sự
thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam.

Bản sắc văn hóa là tổng thể các giá trị đặc trưng của văn hóa dân tộc,
được hình thành, tồn tại và phát triển cùng với quá trình lịch sử lâu dài của đất
nước.
Bản sắc văn hóa có các giá trị đặc trirng mang tính bền vững, trường tồn,
trừu tượng và tiềm ẩn. Để nhận biết chúng phải thông qua vô vàn sắc thái văn
hóa với tư cách là sự biểu hiện của bản sắc văn hóa ấy. Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 5 khóa VIII của Đảng đã chỉ rõ: Bản sắc văn hóa của dân tộc Việt
Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa vun đắp nên qua lịch sử
hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước trở thành những nét đặc sắc
của cộng đồng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Đó là lịng u nước
nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, tính cộng đồng gắn kết cá
nhân, gia đình, làng nước, lịng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đầu óc


thực tế, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động, tế nhị trong ứng xử, giản dị
trong lối sống.
Có thể hiểu bản sắc văn hóa của các dân tộc ở nước ta như là yếu tố cốt
lõi tạo nên bản sắc dân tộc Việt Nam, tới lượt nó, bản sắc dân tộc góp phần tạo
nên bản lĩnh dân tộc, sức sống và sự từng trải của dân tộc, nhờ đó mà dân tộc có
thể vững vàng, trường tồn trước thử thách khắc nghiệt của lịch sử.
Bốn là, xuất phát từ thực tiễn đã và đang đặt ra hiện nay của vấn đề dân
tộc ở nước ta. vấn đề dân tộc thực chất là quan hệ giữa các tộc người trong một
quốc gia đa dân tộc. Mối quan hệ ấy thế hiện trên tất cả các mặt, các lĩnh vực
của đời sống xã hội, từ đời sống chính trị, kinh tế đến đời sống xã hội, văn hóa
và tinh thần. Thực tiễn những năm qua cho thấy, vấn đề dân tộc và quan hệ giữa
các dân tộc ở nước ta đang nổi lên những vấn đề lớn sau đây:
Đời sống kinh tế - xã hội và an ninh, quốc phòng vùng dân tộc thiểu số có
khơng ít những vấn đề cộm cán, phức tạp. Hiện nay mặc dù đã được Đảng và
Nhà nước đầu tư, quan tâm, song đời sống kinh tế vùng dân tộc thiểu số vẫn còn
quá nhiều khó khăn, kinh tế hàng hóa chưa theo kịp trình độ chung, tỷ lệ hộ đói,

nghèo vẫn cịn cao. Các vụ việc phức tạp và điểm nóng về dân tộc, tôn giáo vẫn
tiếp tục phát sinh ở Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ. An ninh chính trị và
trật tự an tồn xã hội vẫn cịn nhiều phức tạp tiềm ấn, nhất là vùng núi, hải đảo,
vùng dân tộc thiểu số. Đây là những vấn đề đã, đang và sẽ còn đặt ra trong thời
gian tới đòi hỏi chúng ta phải quan tâm giải quyết và giải quyết đồng bộ.
Cần phải có một chiến lược và tập trung khắc phục khoảng chênh lệch về
nhiều mặt giữa các vùng miền, giữa dân tộc trong cả nước. Thời gian qua chúng
ta đã tập trung để giải quyết vấn đề nan giải này, song hiệu quả chưa cao,
khoảng cách và sự chênh lệch về kinh tế, văn hóa, mức sống vẫn cịn lớn. Vì
vậy, mục tiêu và chủ trương đưa miền núi tiến kịp miền xuôi vẫn tiếp tục được


đặt ra. Ở cấp độ vĩ mô, quốc gia dân lọc cần phát huy sức mạnh đồn kết dân tộc
vì lợi ích và mục tiêu chung là độc lập dân tộc và dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng và văn minh. Ở cấp độ dân tộc, quan hệ giữa các tộc người I ủn phải
phát huy năng động tính của từng dân tộc và quan tâm tạo những điều kiện hỗ
trợ, giúp đỡ các tộc người cả về vật chất và tinh thần để nhanh chóng xóa đói,
giảm nghèo, tiến kịp trình độ chung.
Cần cảnh giác, đấu tranh chống mọi âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, chia
rẽ dân tộc của các thế lực thù địch, vấn đề dân tộc được Đảng ta coi là vấn đề
chiến lược, gắn với chính sách đại đồn kết dân tộc. Chính vì vậy, các thế lực
thù địch ln tộp trung cơng phá, kích động, chia rẽ các dân tộc. Các vụ bạo
loạn ở Tây Nguyên, Tây Bắc thời gian qua đều có bàn tay kích động, chia rẽ của
các thế lực xấu lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn l',iáo, lợi dụng các sơ hở, thiếu sót
của ta trong thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tơn giáo. Thực tiễn đó vẫn
đang và sẽ đặt ra cho Đảng và Nhà nước, các ngành, các cấp, cho từng tộc người
trong phạm vi cả nước nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Do đó việc giải quyết
vấn đề dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc trong những năm tới khơng thể
khơng tính đến tác động nói trên.
Chính sách dân tộc của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới chính là sự kế thừa

và phát triển chính sách dân tộc của Đảng đã được vạch ra cùng với sự ra đời và
trưởng thành của Đảng; là sự vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. Cơ sở lý luận và thực
tiễn là tiền đề, là điều kiện quan trọng nhất để giải quyết thành công vấn đề dân
tộc ở nước ta trên hành trình đổi mới.


×