Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.13 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN KHÁNH TỒN

THỰC HÀNH QUYỀN CƠNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN
LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN KHÁNH TỒN

THỰC HÀNH QUYỀN CƠNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN
LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LẠI VIẾT QUANG

Hà Nội, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong Luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Khánh Tồn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN “LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN” ............................................................................. 7
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án
lừa đảo chiếm đoạt tài sản ............................................................................. 7
1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền cơng tố trong điều tra vụ án
hình sự ......................................................................................................... 26
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN “LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN” TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................... 33
2.1. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ
án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh ........................ 33
2.2. Những khó khăn, vướng mắc và tồn tại hạn chế trong thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh ...................................................................... 35
2.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc và tồn tại, hạn chế khi
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án “Lừa đảo đảo
chiếm đoạt tài sản” trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. ........................ 54

Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN ............................................................................................ 60
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ............................................................ 60
3.2. Giải pháp khác...................................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- BLHS

:

Bộ luật hình sự

- CĐTS

:

Chiếm đoạt tài sản

- CQĐT

:

Cơ quan điều tra

- ĐTV


:

Điều tra viên

- HĐXX

:

Hội đồng xét xử

- KSV

:

Kiểm sát viên

- TAND

:

Tòa án nhân dân

- TNHS

:

Trách nhiệm hình sự

- TTHS


:

Tố tụng hình sự

- VAHS

:

Vụ án hình sự

- VKS

:

Viện kiểm sát

- VKSND

:

VKS nhân dân

- XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Thống kê số vụ án và bị can đã khởi tố, truy tố phạm tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản từ năm 2015 đến 2019 ....................................................... 33
Bảng 2.2. Tỷ lệ tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản so với tổng số tội phạm chung
từ năm 2015 đến năm 2019. ............................................................................ 34


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN, với xu hướng tồn cầu hóa và khu vực hóa, các giao dịch
dân sự, kinh tế diễn ra một cách thường xuyên và đạt những thành tựu quan
trọng về phát triển kinh tế - xã hội thì mặt trái của sự phát triển là tình hình tội
phạm diễn biến ngày càng phức tạp, nhiều loại tội phạm gia tăng, tính chất,
mức độ ngày càng nguy hiểm hơn. Trong đó, tội Lừa đảo CĐTS là một trong
những tội phạm xảy ra phổ biến trong thời gian qua, gây nhiều biến động trong
xã hội và cản trở sự phát triển của đất nước.
Trong những năm qua, thông qua công tác Thực hành quyền công tố,
Kiểm sát điều tra, Kiểm sát xét xử VAHS nói chung, các vụ án Lừa đảo CĐTS
nói riêng, VKSND các cấp đã góp phần khơng nhỏ vào việc thực hiện nhiệm
vụ đấu tranh phịng chống tội phạm, bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Tuy nhiên, qua theo dõi tình hình chung trên toàn quốc, cũng như từ thực
tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh, thấy rằng nhiều vụ án Lừa đảo CĐTS cơ quan
tiến hành tố tụng có sai sót trong quá trình điều tra các dẫn đến vụ án bị trả điều
tra bổ sung hoặc Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy án để điều tra lại. Theo thống
kê, tại thành phố Hồ Chí Minh, tội Lừa đảo CĐTS bị Tịa án cấp phúc thẩm
hủy để điều tra lại chiếm tỷ lệ cao nhất trong các loại án đã xét xử phúc thẩm.
Để xảy ra những sai sót dẫn đến hủy án có phần trách nhiệm thuộc về VKSND

khi Thực hành quyền cơng tố trong điều tra các VAHS nói chung, tội Lừa đảo
CĐTS nói riêng.

1


Về mặt lý luận vẫn còn những nội dung liên quan đến thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc giải quyết các vụ án hình sự nói chung, các vụ án liên
quan đến lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng cần được nghiên cứu một cách
tường minh hơn nhằm phục vụ thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa
có cơng trình nghiên cứu chun sâu nào về thực trạng hoạt động thực hành
quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS từ thực tiễn Thành phố
Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hoạt
động Thực hành quyền công tố trong điều tra của VKSND Thành phố Hồ Chí
Minh, thơng qua các vụ án Lừa đảo CĐTS là cần thiết cả về mặt lý luận lẫn
thực tiễn.
Từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Thực hành quyền công
tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố
Hồ Chí Minh” làm Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện chưa có cơng trình nghiên cứu về Thực hành quyền cơng tố trong
điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS; nhưng có một số cơng trình nghiên cứu về
hai nhóm vấn đề có tính chất liên quan đến đề tài là “Thực hành quyền công tố
trong điều tra” của VKSND và “Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Sách chun khảo có các cơng trình nghiên cứu liên như: "Quyền con
người" của GS.TS Võ Khánh Vinh do Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản
năm 2015; "Chức năng của tố tụng hình sự Việt Nam: Nhìn từ lý thuyết chức
năng" của TS. Đinh Đinh Thị Mai năm 2015 đăng trên tạp chí Nhân lực khoa
học xã hội; “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
giai đoạn điều tra” của Lê Hữu Thể (chủ biên) và các tác giả, Nhà xuất bản Tư

pháp năm 2008; “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư

2


pháp” của Nguyễn Hải Phong (chủ biên) và các tác giả, Nhà xuất bản Tư pháp
năm 2013.
Luận án Tiến sĩ Luật học có các cơng trình: “Hoạt động của VKSND
trong điều tra VAHS” của tác giả Đoàn Tạ Cửu Long, bảo vệ tại Trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2014; “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn miền đơng nam bộ: Tình hình, ngun nhân và giải pháp phòng
ngừa” của tác giả Bùi Thị Lan Hương, bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội
năm 2018.
Luận văn Thạc sĩ Luật học liên quan đến hoạt động thực hành quyền
cơng tố trong điều tra có cơng trình: “Thẩm quyền của VKS trong giai đoạn
truy tố” của Vũ Đức Ninh, bảo vệ tại Khoa Luật Trường Đại học Quốc Gia Hà
Nội năm 2013; liên quan đến tội Lừa đảo CĐTS có cơng trình: “Tội lừa đảo
CĐTS - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Thị Phương Hiền, bảo vệ
tại Khoa Luật Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội năm 2007; “Tội lừa đảo CĐTS
trong pháp luật hình sự Việt Nam” của Đặng Thị Thanh Huyền, bảo vệ tại
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016; “Đấu tranh phòng, chống tội Lừa đảo
CĐTS tại thành phố Hồ Chí Minh” của Dương Thị Ngọc Thủy, bảo vệ tại
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2008; "Thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự" của Nguyễn Cơng Cường bảo
vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016; "Thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hải Phòng" của
Phạm Thị Tuyết Chinh, bảo vệ năm 2017 tại Trường Đại học Luật Hà Nội;
"Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự" của Bùi
Trọng Thắng, bảo vệ năm 2018 tại Trường Đại học Luật Hà Nội; "Tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam - trên cơ sở nghiên cứu thực
tiễn địa bàn tỉnh Nam Định" của Nguyễn Tiến Dũng, bảo vệ năm 2014 tại Đại
học Quốc gia Hà Nội.... Ngồi ra cịn có một số bài viết trên Tạp chí khoa học
3


chuyên ngành bàn về các khía cạnh hoạt động thực hành quyền công tố trong
điều tra.
Qua khảo sát tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn,
thấy rằng các cơng trình nghiên cứu trên với những cách tiếp cận khác nhau, đã
làm rõ một số vấn đề liên quan trực tiếp và gián tiếp đến các vấn đề lý luận,
thực tiễn cũng như định hướng, giải pháp giải quyết vấn đề liên quan đến hoạt
động thực hành quyền công tố trong điều tra VAHS. Tuy nhiên các cơng trình
nghiên cứu này hoặc q rộng, q bao qt, tồn diện nên khơng trùng lặp về
phạm vi nghiên cứu với đề tài, hoặc quá hẹp, chuyên sâu, chi tiết và thiên về
diễn giải, hướng dẫn thực hiện các thao tác nghiệp vụ kiểm sát đối với Cán bộ
kiểm sát. Đồng thời, các cơng trình nghiên cứu trên chưa chỉ rõ những tồn tại,
hạn chế trong hoạt động Thực hành quyền cơng tố trong điều tra của VKS nói
chung, đối với các vụ án Lừa đảo CĐTS nói riêng, để từ đó có những đề xuất
nhằm nâng cao chất lượng công tác này trong thực tiễn.
Những hạn chế trên đã đặt ra u cầu phải có cơng trình chun khảo
nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về hoạt động thực hành quyền công
tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS. Đặc biệt là nghiên cứu từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh thơng qua các vụ án Lừa đảo CĐTS bị trả điều tra bổ
sung hoặc Tòa án các cấp tuyên hủy để điều tra lại. Trên cơ sở nghiên cứu các
vi phạm, thiếu sót phổ biến trong quá trình điều tra, dẫn đến trả điều tra bổ sung
hoặc hủy án để cùng nghiên cứu, nhằm rút kinh nghiệm và đề ra các giải pháp
khắc phục trong thời gian tới. Đây là yêu cầu khách quan, vừa có tính lý luận,
vừa có tính thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát trong thời
gian tới.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong TTHS nói
chung, hoạt động của VKSND khi Thực hành quyền công tố trong điều tra các
4


vụ án Lừa đảo CĐTS nói riêng và thực trạng hoạt động thực hành quyền công
tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS tại Thành phố Hồ Chí Minh, trọng
tâm là những vi phạm trong hoạt động điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS
- Đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền
công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo CĐTS nhằm hạn chế tình trạng cấp
phúc thẩm hủy án sơ thẩm để điều tra lại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ
bản về hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra đối với các vụ án Lừa
đảo CĐTS; tập trung nghiên cứu hoạt động này dưới góc độ thực trạng quy
định và thực tiễn áp dụng để làm rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
Trên cơ sở đó có các kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động này
trong thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Luận văn nghiên cứu về hoạt động
thực hành quyền công tố trong điều tra đối với các vụ án Lừa đảo CĐTS của
các Viện kiểm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Các số liệu khảo sát trong khoảng thời
gian 05 năm (từ năm 2015 đến hết năm 2019).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận tiếp cận vấn đề nghiên cứu của Luận văn dựa trên cơ
sở lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền

Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận hệ thống, phương
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê cùng với việc tham khảo kinh

5


nghiệm của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng để làm rõ mục đích,
nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề của Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hồn thiện
lý luận về hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo
CĐTS; chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn và nguyên nhân. Từ đó đưa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác trong thực tiễn.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng cho
mục đích tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy. Luận văn cũng đề ra các
đề xuất, kiến nghị có thể dùng vào việc phục vụ cho hoạt động thực tiễn, qua
đó đóng góp một phần vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác
đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu gồm phần mở đầu,Bảng chữ cái viết tắt, Bảng kê
mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và nội dung chính được trình bày trong
3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về Thực hành quyền công
tố trong điều tra vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Chương 2: Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

6



Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA
VỤ ÁN “LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN”
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra
vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản
Hoạt động TTHS là một dạng hoạt động quyền lực Nhà nước do một số
cơ quan Nhà nước được pháp luật giao nhiệm vụ tiến hành, hay còn gọi là thực
hiện chức năng, nhiệm vụ. TTHS còn được hiểu là hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng từ khi người thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, cho đến
khi hành vi đó được cơ quan tố tụng hình sự giải quyết bằng quyết định hoặc
bản án của Tòa án. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến
các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của cơng dân, đến lợi ích của Nhà nước,
của xã hội. Các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng mọi biện pháp do luật
định để khám phá tội phạm, đối tượng phạm tội và trừng phạt theo quy định
của pháp luật, bảo đảm ngun tắc tội phạm khơng tránh khỏi hình phạt. Do
vậy hoạt động TTHS là hoạt động quyền lực công – hoạt động vì lợi ích chung
của Nhà nước, của xã hội, nhưng khi thực thi phải tuân thủ nghiêm ngặt các
quy định của BLTTHS đã qui định.
Quá trình thực hiện hoạt động tố tụng hình sự gồm các giai đoạn diễn
ra liên tục và nối tiếp nhau tạo thành một thể thống nhất, đó là:
Giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (còn
gọi là giai đoạn tiền khởi tố hoặc giải quyết tin báo, tin tố giác); Giai đoạn điều
tra; Giai đoạn truy tố và giai xét xử.

7



Ngồi ra, trong Bộ luật tố tụng hình sự cịn quy định một số thủ tục như
Thi hành án hình sự; thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm nhưng khơng phải là
một gia đoạn của tố tụng hình sự.
Về giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình
sự; trong đó cơ quan điều tra trong ngành Công an, trong Quân đội và Bộ đội
Biên phòng và cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra được sử dụng
một số biện pháp nghiệp vụ do Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng
cứ, chứng minh hành vi phạm tội, người phạm tội và những vấn đề khác có liên
quan. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra, xác định nguyên nhân, điều kiện
phạm tội đối với từng vụ án cụ thể để kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước, tổ
chức….có các biện pháp phịng ngừa khơng để xảy ra hành vi phạm tội xảy ra.
Giai đoạn điều tra có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động đặc biệt của
một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành theo qui định của Bộ luật tố tụng
hình sự.
Thứ hai, giai đoạn điều tra vụ án hình sự bắt đầu khi CQĐT ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng việc ban hành bản kết luận điều tra,
quyết định truy tố (thủ tục rút gọn) hoặc ra quyết định đình chỉ vụ án.
Thứ ba, trong giai đoạn điều tra, CQĐT được áp dụng mọi biện pháp
do pháp luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ chứng minh có sự
việc phạm tội và người thực hiện tội phạm và các tình tiết khác có liên quan
đến vụ án và qua cơng tác điều tra các loại tội phạm CQĐT sẽ kiến nghị biện
pháp phòng ngừa với cơ quan và tổ chức hữu quan góp phần đấu tranh phịng
chống tội phạm hiệu quả hơn.
Theo Hiến pháp năm 2013, thì VKSND là cơ quan được giao nhiệm vụ
Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát có nhiệm
vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
8



bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất. Như vậy, Thực hành quyền công tố là chức năng Hiến
định của Ngành Kiểm sát.
Tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì Thực hành quyền
cơng tố “là hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự để thực hiện việc
buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội”. Theo đó, đối tượng của hoạt
động thực hành quyền cơng tố là tội phạm (là hành vi nguy hiểm cho xã hội có
dấu hiệu của một tội phạm cụ thể được qui định trong Bộ luật hình sự) và người
bị tình nghi đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đó. VKS có nhiệm vụ
sử dụng các quyền năng pháp lý để truy cứu TNHS (truy tố) người đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Hoạt động
thực hành quyền cơng tố của VKS với mục đích bảo đảm mọi hành vi phạm
tội, người phạm tội phải được kịp thời phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét
xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không
để lọt tội phạm và người phạm tội; không để bất kỳ một người nào bị khởi tố,
bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: “Lừa đảo là dùng thủ đoạn
gian dối đánh lừa người khác để mưu lợi. Thủ đoạn gian dối rất đa dạng, nhằm
giấu giếm nội dung sai sự thật (ít, nhiều hoặc hồn tồn) làm cho người khác
tin, nhầm, tưởng giả là thật để chiếm đoạt tài sản, tiền bạc, thu lợi vật chất
khác hoặc che giấu một việc làm xấu. Sự lừa đảo được thực hiện trước hoặc
liền ngay với hành động chiếm đoạt, nó thể hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau: nói dối, dùng giấy tờ giả mạo, giả danh người có chức, có quyền….”
Dưới góc độ pháp lý, “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện một cách cố ý...” Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được xếp vào nhóm các
9



tội phạm “xâm phạm về sở hữu” được quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về cấu thành cơ bản của tội lừa đảo
CĐTS: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác
trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng
nhưng thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”.
Như vậy, Tội lừa đảo CĐTS là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác
bằng thủ đoạn gian dối, do người có năng lực TNHS thực hiện với lỗi cố ý, xâm
hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân.
Để xác định hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm Lừa đảo CĐTS hay
khơng cần đảm bảo có yếu tố đặc trưng là thủ đoạn gian dối đây nhưng cịn
phải có điều kiện người phạm tội cịn có hành vi chiếm đoạt tài sản.
Như vậy, lừa đảo CĐTS là việc người phạm tội đã dùng những thủ đoạn
gian dối, đưa ra những thơng tin sai sự thật, có thể bằng lời nói hoặc hành động
làm cho người có tài sản hoặc người có trách nhiệm trơng giữ, quản lý tài sản
tin, tưởng giả là thật, mà “tự nguyện” giao tài sản cho người phạm tội, sau đó
người phạm tội đã CĐTS đó.
Dấu hiệu pháp lý của tội Lừa đảo CĐTS
Theo Điều 139 BLHS năm 1999, Lừa đảo CĐTS là hành vi dùng thủ
đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Điều 174 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017 giữ nguyên quy định này. Có thể thấy tội Lừa đảo CĐTS có các
dấu hiệu pháp lý đặc trưng như sau:
- Khách thể của tội Lừa đảo CĐTS là quan hệ xã hội về sở hữu và quản
lý tài sản. Quan hệ sở hữu có nội dung là quyền của sở hữu tài sản (gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt) đối với tài sản. Đối tượng tác
động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tài sản thuộc quyền sở hữu; thuộc
quyền quản lý, quyền sử dụng hợp pháp của người khác, có thể là tài sản hợp
10



pháp, cũng có thể là tài sản bất hợp pháp. Tài sản được hiểu là vật có thực, tiền,
giấy tờ trị giá bằng tiền và các quyền về tài sản. Giá trị của tài sản đó một phần
hay tồn bộ là do sức lao động của con nguời tạo nên.; Những tài sản có tính
chất đặc biệt khơng phải đối tuợng của các tội xâm phạm sở hữu mà là đối
tuợng của tội phạm khác (ví dụ: Cơng trình, phương tiện quan trọng về an ninh
quốc gia, ma túy, vũ khí...).
Thơng qua việc tác động lên đối tượng của tội phạm là chiếm đoạt tài
sản thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp pháp của người khác đã xâm phạm đến
khách thể là quyền sở hữu và quản lý tài sản.
- Chủ thể:
Chủ thể của tội Lừa đảo CĐTS là người có năng lực TNHS, nghĩa là
khơng mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình và đủ tuổi chịu TNHS. Theo Điều
12 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì tuổi chịu TNHS đối với tội
Lừa đảo CĐTS là từ đủ 16 tuổi trở lên. Đây là sự thay đổi lớn so với BLHS
năm 1999 về tuổi chịu TNHS, vì BLHS năm 1999 quy định người từ đủ 14 tuổi
trở lên phải chịu TNHS đối với tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng, nghĩa là người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu
TNHS về tội Lừa đảo CĐTS nếu phạm vào khoản 2, 3, 4 Điều 139 của BLHS
năm 1999.
- Mặt chủ quan của tội Lừa đảo CĐTS gồm các yếu tố lỗi, động cơ, mục
đích phạm tội, là trạng thái tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành
vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó.
Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, khi thực hiện hành vi Lừa đảo
CĐTS, người phạm tội mong muốn chiếm đoạt tài sản nên cố ý thực hiện hành
vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra người phạm nên đây là lỗi cố ý trực tiếp
nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
11



hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, nhưng vẫn có ý thức để
mặc cho hậu quả xảy ra.
Khi thực hiện hành vi, người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải có
mục đích chiếm đoạt được tài sản của người khác và mục đích này tồn tại trước
khi thực hiện hành vi. Trong trường hợp người phạm tội đã có tài sản một cách
hợp pháp rồi mới có ý định chiếm đoạt tài sản, thì hành vi của họ khơng cấu
thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để
xem xét người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với một tội danh
khác.
- Mặt khách quan của tội Lừa đảo CĐTS được nêu trong đoạn đầu của
Điều 174 BLHS 2015: Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản
của người khác...”, Như vậy, mặt khách quan của tội phạm bao gồm 2 dấu hiệu
cơ bản, bắt buộc, đó là:
+ Thủ đoạn gian dối. Theo Từ điển tiếng Việt thì thủ đoạn là cách làm
khôn khéo, thường là xảo trá, chỉ cốt sao cho đạt mục đích; cịn gian dối là có
ý lừa lọc, khơng thật thà ngay thẳng. Như vậy thủ đoạn gian dối được hiểu là
cách làm xảo trá, có ý lừa lọc chỉ cốt đạt mục đích. Thủ đoạn gian dối là đưa ra
thông tin giả (không đúng sự thật) bằng nhiều hình thức khác nhau làm cho chủ
sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin là thật và giao tài sản cho người phạm tội.
+ Chiếm đoạt tài sản là chiếm lấy tài sản của nguồi khác thành tài sản
của mình. Hay nói cách khác là là chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản
thuộc quyền sở hữu hoặc quyền quản lý của người khác thành của mình.
Hai dấu hiệu khách quan của tội lừa đảo có mối quan hệ nhân quả, đó là
dùng thủ đoạn gian dối mục đích để chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối bao
giờ cũng phải có trước khi phát sinh việc giao nhận tài sản giữa người bị hại
với người phạm tội thì mới là hành vi Lừa đảo CĐTS; còn nếu thủ đoạn gian

12



dối có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì khơng thuộc tội danh này,
mà có thể phạm tội che giấu tội phạm hoặc tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS…
Tội Lừa đảo CĐTS thường dựa trên các giao dịch dân sự, kinh tế nên
trong thực tiễn có tình trạng hình sự hóa các giao dịch dân sự, kinh tế, hoặc
ngược lại, dân sự hóa các hành vi phạm tội. Tội Lừa đảo CĐTS và các giao
dịch dân sự, kinh tế đều có điểm giống nhau là các bên đã xác lập một giao dịch
dân sự, kinh tế theo quy định của pháp luật. Các bên xác lập và thực hiện giao
kết với quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận về tài sản nhưng trong q trình thực
hiện, có một bên hưởng lợi nhưng không thực hiện nghĩa vụ về tài sản tương
ứng đã thỏa thuận, dẫn đến thiệt hại cho bên kia. Trường hợp này cần xem xét
cụ thể có hành vi gian dối và chiếm đoạt tài sản hay không để kết hành vi cấu
thành tội Lừa đảo CĐTS hay chỉ là vi phạm nghĩa vụ trong giao dịch dân sự,
kinh tế. Yếu tố chiếm đoạt và thủ đoạn gian dối là điểm khác nhau cơ bản để
phân biệt tội Lừa đảo CĐTS với các giao dịch dân sự. Nếu một người vi phạm
nghĩa vụ về tài sản đã giao kết do nguyên nhân khách quan sau đó sử dụng
nhiều phương thức gian dối để chậm thực thi nghĩa vụ thì khơng có cơ sở xác
định hành vi phạm tội lừa đảo nhưng nếu xác định họ có ý thức chiếm đoạt
ngay từ đầu thì đây là hành vi phạm tội Lừa đảo CĐTS. Như vậy, để phân biệt
tội Lừa đảo CĐTS với các giao dịch dân sự, kinh tế, phải chứng minh được yếu
tố chiếm đoạt và hành vi gian dối, trong khi việc chứng minh yếu tố chiếm đoạt
trong một số trường hợp rất khó khăn. Trên thực tế, để phân định ranh giới giữa
các giao dịch dân sự, kinh tế và tội Lừa đảo CĐTS còn nhiều vấn đề chưa được
làm rõ dẫn đến có những thiếu sót trong việc chứng minh yếu tố chiếm đoạt và
phân định thủ đoạn gian dối làm xuất hiện tình trạng “hình sự hóa” các quan hệ
dân sự, kinh tế hoặc ngược lại.
Trong thực tiễn có một số trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian
dối nhằm CĐTS, nhưng thủ đoạn gian dối này đã được BLHS quy định thành
13



tội phạm độc lập, ví dụ “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” nhằm
“lừa đảo CĐTS”. Do chưa có hướng dẫn thống nhất của liên ngành tư pháp
Trung ương nên đối với các trường hợp này có địa phương xử lý về hai tội
nhưng có địa phương chỉ xử lý về tội “Lừa đảo CĐTS”.
Về hậu quả của tội phạm, tội Lừa đảo CĐTS phải gây thiệt hại về tài sản
có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên. Trường hợp tài sản bị chiếm đoạt có giá trị
khơng đến 2 triệu đồng thì để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Lừa đảo
CĐTS cần phải có đủ điều kiện là đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về các tội có tính chất chiếm đoạt được quy định
cụ thể trong BLHS 2015, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm. BLHS năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã liệt kê cụ thể các tội CĐTS, thay vì chỉ quy
định chung chung “tội CĐTS” như BLHS năm 1999. Ngoài ra BLHS năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 còn bổ sung thêm trường hợp Lừa đảo CĐTS
dưới 2 triệu đồng nhưng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
bỏ tình tiết tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh
thần đối với người bị hại và tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng trong cấu thành
cơ bản, bỏ tình tiết gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng trong
cấu thành tăng nặng của tội phạm.
Ngoài hành vi và hậu quả, các yếu tố khác thuộc về mặt khách quan của
tội phạm như: phương pháp, thủ đoạn, phương tiện thực hiện tội phạm và thời
gian, hoàn cảnh, địa điểm xảy ra tội phạm khơng phải là tình tiết định tội mà
có thể là tình tiết định khung hoặc tăng nặng, giảm nhẹ.
1.1.2. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Theo BLTTHS năm 2015 thì Thực hành quyền cơng tố bao gồm các hoạt
động cơ quan tố tụng từ khi tiếp nhận tin báo, tin tố giác về tội phạm và kiến
14



nghị khởi tố; và các hoạt động xét phê chuẩn các biện pháp tư pháp làm hạn
chế quyền công dân, quyền con người như: bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và một số các biện pháp khác như thu thập phương
tiện điện tử, dữ liệu điện tử….. thời điểm này chưa khởi tố vụ án, khởi tố bị
can, mới là ở giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm. Bộ luật tố tụng hình
sự qui định Viện kiểm sát tham gia hoạt động tố tụng rất sớm (từ khi vụ án chưa
được khởi tố) đó là sự khẳng định chức năng THQCT của Viện kiểm sát trong
việc phân loại, xử lý nguồn tin về tội phạm. Đây là khâu đầu tiên của hoạt động
điều tra vụ án hình sự, là rất quan trọng vì: Nếu khơng phân loại, xử lý đúng
nguồn tin về tội phạm từ đầu để có biện pháp xử lý đúng thì dễ xảy ra oan, sai,
có thể xảy ra hình sự hóa quan hệ dân sự - hành chính hoặc ngược lại hành vi
đáng phải xử lý hình sự (theo tố tụng hình sự) thì lại xử lý bằng biện pháp dân
sự, hành chính. Theo đó, VKSND thực hiện chức năng Thực hành quyền công
tố bằng 6 công tác sau đây: (1) Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; (2) Thực hành quyền công tố
trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS; (3) Thực hành quyền công tố trong giai
đoạn truy tố tội phạm; (4) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
VAHS; (5) Điều tra một số loại tội phạm; (6) Thực hành quyền công tố trong
hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.
Giai đoạn điều tra là một trong những giai đoạn của quá trình tố tụng
hình sự được tiến hành bởi cơ quan có thẩm quyền giao cho người tiến hành tố
tụng thực hiện các hoạt động điều tra nhằm thu thập đầy đủ các chứng cứ chứng
minh có hay không tội phạm xảy ra và giải quyết các vấn đề pháp lý khi phát
sinh tội phạm. Các nhà làm luật đều thống nhất việc giai đoạn điều tra kết thúc
khi cơ quan có thẩm quyền điều tra ban hành Bản kết luận điều tra chuyển hồ
sơ đến Viện kiểm sát đề đề nghị truy tố hoặc đình chỉ vụ án nhưng chưa thống
nhất về quan điểm về việc gia đoạn điều tra được bắt đầu khi nào. Một số quan
15



điểm cho rằng giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm
hoặc kiến nghị khởi tố nhưng một số khác cho rằng giai đoạn điều tra chỉ bắt
đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc. Trong luận văn này tác giả
tập trung nghiên cứu tồn diện q trình điều tra kể từ khi khởi tố vụ án đến khi
kết thúc điều tra.
1.1.3. Ý nghĩa thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Qua công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động của CQĐT và các cơ
quan có thẩm quyền trong trong giai đoạn điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản từ thực tiễn hoạt động kiểm sát điều tra có ý nghĩa sau:
Thứ nhất, thơng qua việc thực hiện vai trò THQCT và kiểm sát các hoạt
động của CQĐT trong quá trình thu thập các chứng cứ để xác định có hay
khơng sự việc phạm tội xảy ra, đối tượng thực hiện hành vi phạm tội, hành vi
của họ có thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật
hình sự hay không để làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án, Viện kiểm sát thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, đảm bảo việc truy cứu đúng người, đúng
tội, khơng bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
Thứ hai, khơng chỉ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trong giải
quyết các vấn đề về bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho bị hại trong
vụ án Lừa đảo CĐTS mà thông qua việc phối hợp với cơ quan điều tra kịp thời
phát hiện những vi phạm trong quá trình quản lý con người, quản lý tài sản của
cơ quan điều tra cần kịp thời đưa ra kiến nghị, yêu cầu các cơ quan khắc phục.
Thứ ba, thơng qua cơng tác THQCT trong q trình điều tra, VKS tập
hợp những nguyên nhân, điều kiện phạm tội, những khó khăn, vướng mắc và
vi phạm thường xảy ra trong quá trình giải quyết vụ án Lừa đảo chiems đoạt tài
sản để từ đó đề ra biện pháp khắc phục thích hợp và kiến nghị, yêu cầu cơ quan,

16



tổ chức, cá nhân có liên quan áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, biện pháp
phòng ngừa loại tội phạm này.
1.1.4. Nội dung và những đặc trưng khi thực hành quyền công tố trong
điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Thực hành quyền công tố trong việc khởi tố vụ án Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản
Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự là giai đoạn bắt đầu từ khi các cơ
quan có thẩm quyền tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, thực hiện các biện pháp
điều tra, xác minh tội phạm và sau khi có đủ chứng cứ chứng minh có hành vi
phạm tội thì khởi tố vụ án. Sau khi có quyết định khởi tố vụ án, KSV được phân
công phải tiến hành hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi
tố nhằm đảm bảo cho quyết định khởi tố VAHS của CQĐT có căn cứ, hợp
pháp, khơng để oan sai và bỏ lọt tội phạm.
- Tính có căn cứ được quy định tại Điều 143 Bộ luật TTHS năm 2015,
theo đó chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Những
căn cứ xác định dấu hiệu tội phạm bao gồm: Tố giác, in báo của cá nhân, cơ
quan, tổ chức được gửi đến hoặc đăng trên phương tiện thông tin đại chúng;
Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; Người phạm tội tự thú. Để xác định
dấu hiệu tội phạm, cần làm rõ các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội Lừa đảo
CĐTS là: có hành vi Lừa đảo CĐTS xảy ra, thiệt hại về tài sản; hành vi chiếm
đoạt tài sản phải thực hiện bằng thủ đoạn gian dối; hành vi này có tính gây nguy
hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình
phạt; Lỗi của người thực hiện hành vi
Khi thực hành quyền công tố trong việc khởi tố VAHS, VKS phải nghiên
cứu kỹ các tài liệu dùng làm căn cứ để khởi tố vụ án, đối chiếu với dấu hiệu
đặc trưng của tội Lừa đảo CĐTS để xác định hành vi đã khởi tố có đúng không
17



hay chỉ là dấu hiệu vi phạm quan hệ dân sự, kinh tế. Điểm khác biệt cơ bản nhất
phân biệt có hành vi phạm tội phạm Lừa đảo CĐTS là có dấu hiệu CĐTS, cịn
vi phạm quan hệ dân sự, kinh tế khơng có dấu hiệu này.
- Kiểm tra tính hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án, tức là phải kiểm
tra việc chấp hành các trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để thẩm tra, xác
minh; thẩm quyền của người ra quyết định khởi tố vụ án, nội dung và hình thức
của quyết định khởi tố vụ án có đúng quy định của pháp luật TTHS; tài liệu,
chứng cứ đã thu thập để xác định có hay khơng có sự việc phạm tội Lừa đảo
CĐTS; nếu có thì các tài liệu, chứng cứ chứng minh sự việc xảy ra có dấu hiệu
tội phạm hay khơng? Thuộc khoản nào của điều 174 BLHS 2015?
Sau khi kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố vụ
án Lừa đảo CĐTS, nếu thấy quyết định khởi tố vụ án có căn cứ và hợp pháp thì
thơng báo bằng văn bản cho CQĐT biết; nếu thấy căn cứ để khởi tố chưa đầy
đủ thì yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ làm rõ căn cứ khởi tố; Nếu thấy quyết
định khởi tố vụ án không có căn cứ, thì VKS ban hành văn bản u cầu CQĐT
ra quyết định huỷ bỏ; nếu CQĐT không nhất trí thì VKS ra quyết định huỷ bỏ
quyết định khởi tố vụ án theo điểm b khoản 1 Điều 161 Bộ luật TTHS năm
2015; Nếu thấy tội danh đã khởi tố khơng đúng với hành vi phạm tội hoặc cịn
có tội phạm khác chưa được khởi tố, thì VKS yêu cầu cơ quan đã khởi tố ra
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố VAHS; nếu Cơ quan đã
khởi tố khơng nhất trí, thì VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố VAHS. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi thay đổi hoặc bổ sung, VKS
phải gửi ngay các quyết định này cho CQĐT theo quy định tại khoản 2 Điều
156 Bộ luật TTHS năm 2015 để tiến hành điều tra. Đối với quyết định khởi tố
vụ án của HĐXX, VKS phải kiểm tra tính có căn cứ của quyết định khởi tố đó,
nếu thấy quyết định khởi tố VAHS có căn cứ thì chuyển quyết định khởi tố
VAHS kèm theo các tài liệu có liên quan đến CQĐT có thẩm quyền để tiến
18



hành điều tra; nếu thấy quyết định khởi tố VAHS khơng có căn cứ thì kháng
nghị lên Tồ án cấp trên.
Thực hành quyền công tố trong việc khởi tố bị can phạm tội “Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản”
Khởi tố bị can: Sau khi khởi tố vụ án và xác định được người thực hiện
hành vi phạm tội, các cơ quan có thẩm quyền khởi tố bị can để truy cứu trách
nhiệm hình sự của người tực hiện hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật.
Các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ Quyết định khởi tố bị can để tiến hành
việc điều tra theo pháp luật quy định và từ đó thu thập chứng cứ chứng minh
tội phạm và người phạm tội, giải quyết vụ án và các vấn đề pháp lý khác.
Thực hành quyền công tố trong việc khởi tố bị can là quyền năng pháp
lý, đồng thời là biện pháp nghiệp vụ của VKS nhằm đảm bảo cho quyết định
khởi tố bị can có căn cứ, hợp pháp. VKS kiểm tra tính có căn cứ của quyết định
khởi tố bị can về tội Lừa đảo CĐTS nhằm đảm bảo việc truy cứu TNHS đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt người phạm tội, khơng làm oan
người vơ tội. Vì vậy khi kiểm tra, xem xét các tài liệu chứng cứ như đã nêu ở
trên, VKS cần phải làm rõ tính khách quan, tồn diện và đầy đủ của các tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn xem có đủ căn cứ để chứng
minh người bị khởi tố chính là người đã thực hiện hành vi Lừa đảo CĐTS hay
không? Hành vi phạm tội diễn ra như thế nào? Có đồng phạm hay khơng? Vai
trị của từng đồng phạm? Các yếu tố về năng lực TNHS và các tình tiết loại trừ
TNHS. Kiểm tra tính hợp pháp trong việc ra quyết định khởi tố bị can về tội
Lừa đảo CĐTS nhằm đảm bảo cho việc ra quyết định đó là đúng pháp luật. Bên
cạnh đó, VKS có trách nhiệm kiểm tra về thủ tục, trình tự khi ban hành quyết
định; hình thức, nội dung của quyết định có đảm bảo đúng với quy định của
BLTTHS hay không và đặc biệt là cơ quan và người ra quyết định khởi tố bị
can có đúng thẩm quyền hay khơng; phải xem xét nội dung quyết định khởi tố
19



×