Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TRÍ TÂN

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,
TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Cao Thị Oanh


HÀ NỘI, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
NGƯỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN TRÍ TÂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1................................................................................................................6
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI LỪA ĐẢO


CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN .........................................................................................6
1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản......................................................... 6
1.2. Khái quát lịch sử về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành BLHS năm 2015 ....................... 7
1.2.1. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của PLHS Việt
Nam trước khi ban hành BLHS năm 2015 ..................................................................7
1.2.2. Quy định của BLHS năm 2015 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ..................10
1.3. Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .................................................. 11
1.3.1. Khái niệm ........................................................................................................11
1.3.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.......................................12
1.3.3. Đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ...........16
1.4. Quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ......................... 17
1.4.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyết định hình phạt .................................17
1.4.2. Căn cứ và nguyên tắc của quyết định hình phạt .............................................18
1.4.3. Hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ............................................20
1.5. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác .............. 24
1.5.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản .................................................................................................................25
1.5.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách hàng...............27
1.5.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng chức vụ quyền
hạn chiếm đoạt tài sản ...............................................................................................27
1.5.4. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội sử dụng mạng máy tính,
mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ...........28


1.5.5. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội cướp tài sản, tội trộm cắp
tài sản.........................................................................................................................29
Tiểu kết Chương 1 .....................................................................................................31
CHƯƠNG 2..............................................................................................................32
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THÀNH PHỐ BIÊN
HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI ........................................................................................32
2.1. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố Biên
Hòa ........................................................................................................................... 32
2.1.1. Thực tiễn định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo cấu thành cơ
bản .............................................................................................................................33
2.1.2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những trường
hợp đặc biệt ...............................................................................................................38
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ
thành phố Biên Hịa ................................................................................................ 40
2.2.1. Quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1). .................41
2.2.2. Quyết định hình phạt cấu thành tội phạm tăng nặng ......................................43
2.2.3. Quyết định hình phạt cấu thành tội phạm tăng nặng, phạm nhiều tội, có
đồng phạm .................................................................................................................44
2.3. Những vi phạm, sai sót; những hạn chế, vướng mắc trong định tội danh
và quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố
Biên Hòa .................................................................................................................. 46
2.3.1.

Những vi phạm, sai sót về định tội danh và quyết định hình phạt đối với

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố Biên Hòa ..............................................46
2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của nó trong định tội danh và
quyết định hình phạt từ thành phố Biên Hịa ............................................................48
Tiểu kết Chương 2 .....................................................................................................53
CHƯƠNG 3..............................................................................................................54


YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG QUY
ĐỊNH VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN .........................................54

3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng và đảm bảo đúng quy định về định tội danh
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ................................................................................. 54
3.1.1. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền sở hữu về tài sản hợp pháp;
bảo đảm công lý, công bằng xã hội ...........................................................................54
3.1.2 Bảo đảm pháp chế XHCN trong thực tiễn định tội danh và quyết định hình
phạt. ...........................................................................................................................55
3.1.3. u cầu phịng, chống tội phạm đối với loại tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt. ................................................................................................................55
3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. ................................................................................ 56
3.2.1.

Hoàn thiện pháp luật Hình sự. .....................................................................56

3.2.2. Tăng cường và nâng cao chất lượng hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. ..............................................................................58
3.2.3. Nâng cao năng lực chủ thể tiến hành tố tụng, đặc biệt là thẩm phán. .............64
3.2.4. Các giải pháp khác. .........................................................................................65
Tiểu kết Chương 3 .....................................................................................................67
KẾT LUẬN ..............................................................................................................68


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:


Bộ luật tố tụng hình sự

ĐTD:

Định tội danh

LĐCĐTS:

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

PLHS:

Pháp luật hình sự

TAND:

Tồ án nhân dân

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

QĐHP:

Quyết định hình phạt


CTTP:

Cấu thành tội phạm

HĐXX:

Hội đồng xét xử


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1: Bảng thống kê tình hình tội phạm và số liệu số vụ án, bị cáo phạm tội
LĐCĐTS được giải quyết trên địa bàn thành phố Biên Hòa từ năm 2015-2019.
Bảng 2: Phân loại tội phạm tội LĐCĐTS theo mức hình phạt (CTTP cơ bản và
tăng nặng) tại thành phố Biên Hòa, từ năm 2015-2019.
Bảng 3: Hình phạt áp dụng đối với tội phạm LĐCĐTS tại thành phố Biên Hòa,
từ năm 2015-2019.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua diễn biến phức tạp và chưa có xu hướng giảm,
các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội với nhiều thủ đoạn khác nhau, rất tinh vi
xảo quyệt, đã gây ra hậu quả to lớn, có những vụ thiệt hại lên đến hàng trăm tỷ
đồng, có nhiều nạn nhân, … gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình an ninh trật tự tại
địa phương. Trong lĩnh vực thương mại, mặc dù tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội
phạm truyền thống, phổ biến, nhưng hiện nay với xu thế hội nhập quốc tế, xuất hiện
ngày càng nhiều những vụ việc phức tạp, các vấn đề liên quan đến xâm phạm sở
hữu về tài sản hợp pháp của người sở hữu, đã kéo theo nhũng hệ lụy cho sự ổn định

phát triển kinh tế. Tính chất phạm tội ngày càng có quy mơ, tinh vi và đa dạng, có
tổ chức-câu kết chặt chẽ dưới nhiều hình thức nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản: hoạt
động tổ chức tín dụng đen, cho vay vốn với lãi suất cao khơng có sự đảm bảo của
pháp luật, ngụy tạo các thơng tin thanh tốn qua hệ thống thanh toán trực tuyến
ngân hàng (internet Banking, thanh tốn online, …).
Trước tình hình trên, các lực lượng chức năng trên địa bàn thành phố Biên
Hòa đã tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện
xử lý kịp thời. Tuy nhiên, thực tiễn thì việc định tội danh và quyết định hình phạt
đối với tội này cịn có những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được các yêu cầu đặt
ra. Do đó, tác giả chọn đề tài “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn cao học với mong muốn góp phần
làm rõ cơ sở lý luận của Bộ luật Hình sự hiện hành về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, thực tiễn trong hoạt động định tội danh và áp dụng pháp luật trong hoạt động
xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hịa; từ đó đề xuất
những ý kiến cụ thể góp phần đảm bảo áp dụng đúng quy định pháp luật thời gian
tới.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về Tội lừa đảo chiến đoạt tài sản đã được rất nhiều các nhà
nghiên cứu đề cập và công bố như: Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định
tội danh, Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Hà Nội; Đinh Văn Quế (2006), Bình luận
khoa học BLHS (Phần các tội phạm, Tập II), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội; Mai Văn Bộ (2010), Bình luận khoa học BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm
2009 (phần các tội phạm), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Lê Văn Đệ
(2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, Nhà
xuất bản Cơng an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo
trình luật hình sự Việt Nam, Tập 2, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội…

Các luận án tiến sỹ, luận văn Thạc sĩ luật học của nhiều tác giả liên quan đến
vấn đề định tội danh nói chung và định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn của nhiều tỉnh, thành phố của
cả nước như: Lê Đăng Doanh, Đại học luật Hà Nội, luận án tiến sỹ “Tội LĐCĐTS
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hải Dương”; Lê Quang Ninh
(2019), Luận văn thạc sĩ “Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định
của pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước”, Học viện khoa học
xã hội; Đào Thị Tường (2019), Luận văn thạc sĩ “Tội LĐCĐTS theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Học viện Khoa học xã hội; ...

Các bài viết, tạp chí, đề tài khoa học khác như: “ Phân biệt tợi
LĐCĐTS với một số tội phạm xâm phạm sở hữu khác” của tác giả Triệu Thị
Tuyết, TAND tỉnh Bắc Kạn, tạp chí Tịa án; “ Tội LĐCĐTS theo pháp luật
hình sự Việt Nam, lý luận và thực tiễn” của tác giả Đoàn Ngọc Hải, đăng trên
tạp chí Tịa án; “ Bình luận tội LĐCĐTS trong Bộ luật hình sự năm 2015” của
tác giả Phạm Ngọc Minh, ; …những cơng trình nghiên
cứu, các bài viết, đề tài khoa học nêu trên đều có giá trị về mặt lý luận khoa học và
thực tiễn, các tác giả đã đề cập một cách khá toàn diện các dấu hiệu pháp lý tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, phân biệt tội này với một số tội phạm khác trong nhóm tội
2


xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào đề cập chuyên sâu pháp luật
hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai; các tài liệu trên cũng chính là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho
việc nghiên cứu luận văn của tác giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định pháp lý về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua việc nghiên cứu các bản án đã được định tội danh

và quyết định hình phạt của Tồ án nhân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đối
với tội phạm này, từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất hoàn thiện những quy
định về tội danh này trong Bộ luật Hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
Làm rõ những vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
hình sự Việt Nam như khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, phân biệt các tội phạm về
xâm phạm sở hữu.
Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật trong quá trình định tội danh và
quyết định hình phạt về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai trong khoảng 5 năm (2015 - 2019).
Luận văn đưa ra những vấn đề cịn hạn chế, bất cập, qua đó đưa ra một số
giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật hình sự cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
3


Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực
tiễn xét xử tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian từ năm 2015
đến năm 2019. Cụ thể:
- Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định pháp lý về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua việc nghiên cứu các bản án đã được định tội danh
và quyết định hình phạt của Tồ án nhân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đối

với tội phạm này. Từ xem xét các bản án hai cấp của Toà án là cấp sơ thẩm và
phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, để đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm
hoàn thiện những quy định về tội danh này trong Bộ luật Hình sự.
Việc áp dụng pháp luật khơng chỉ có định tội danh và quyết định hình
phạt, nhưng trong phạm vi của đề tài này, tác giả chỉ xem xét định tội danh và quyết
định hình phạt trong xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố
Biên Hịa, tỉnh Đồng Nai, để từ đó phát hiện những vấn đề còn tồn tại, đưa ra
các kiến nghị, giải pháp cụ thể cho việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của
pháp luật hình sự trong hoạt động định tội danh và áp dụng pháp luật đối với tội
LĐCĐTS trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai từ năm 2015-2019.
Cụ thể từ khi Luật Hình sự 1999, (sửa đổi 2009) có hiệu lực đến khi Luật Hình
sự 2015 (sửa đổi 2017) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về chính sách hình
sự, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp như phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, vụ việc điển hình trong giải quyết các vấn đề
của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn đã phân tích được những khái niệm, đặc điểm cũng như khái
quát lịch sử quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự
4


Việt Nam, phân biệt được tội lừa đảo với một số tội danh trong Bộ luật hình sự
Việt Nam.
- Tác giả đã nghiên cứu và phân tích thực tiễn áp dụng quy định của pháp
luật hình sự hiện hành về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục. Luận
văn được kết cấu thành 3 Chương, cụ thể :
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản từ thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI LỪA
ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Theo từ điển Lạc Việt, từ “lừa” được định nghĩa là “làm cho người khác mắc
sai lầm bằng mưu mẹo hoặc nói dối”, cịn “lừa đảo” là “dùng thủ đoạn để chiếm tài
sản, của cải”.
Trong khoa học pháp lý hình sự, lừa đảo là thuật ngữ đã được xuất hiện từ
nhiều thế kỷ qua và được mọi người sử dụng rộng rãi ở trong nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội, về khái niệm tội phạm LĐCĐTS cũng đã được đề cập rất nhiều trong
các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả với nhiều khái niệm khác nhau. Chẳng
hạn có quan điểm cho rằng: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi dùng thủ
đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác”.[37,tr185]
Bộ luật hình sự năm 2015, tuy khơng nêu cụ thể khái niệm về tội phạm
LĐCĐTS, nhưng có định nghĩa chung về tội phạm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm

hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp
của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. [K.1, Đ.8 BLHS
2015]
Đồng thời BLHS năm 2015 cũng quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian
dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm …”. [K.1, Đ.174 BLHS 2015].
6


Như vậy, về khái niệm tội LĐCĐTS không được định nghĩa cụ thể trong
BLHS năm 2015, nhưng căn cứ vào những quy định trên có thể đưa ra khái niệm về
tội LĐCĐTS như sau:
“Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là loại tội phạm xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý bằng các thủ
đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin nhầm nên trao tài
sản để người phạm tội chiếm đoạt”.
1.2. Khái quát lịch sử về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của PLHS
Việt Nam trước khi ban hành BLHS năm 2015
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 Nhà nước ta chưa ban hành Bộ luật
hình sự, nhưng đã ban hành và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau
để quy định và xử lý về tội LĐCĐTS: Sắc lệnh số 26, Sắc lệnh số 223 năm 1946 về
các tội phá hoại công sản, biển thủ công quỹ; Sắc lệnh số 267 năm 1956 về các âm

mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân
làm ảnh hưởng, cản trở các chính sách, kế hoạch Nhà nước.
Trong Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa do Ủy
ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành năm 1970,
quy định về tội LĐCĐTS XHCN như sau: “ Kẻ nào dùng giấy tờ giả mạo, gian lận
trong việc cân, đo, đong, đếm, tính hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác chiếm đoạt
tài sản XHCN thì phạt tù từ sáu tháng đến năm năm …”. (Điều 10); đồng thời Điều
9 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản công dân (cũng do Ủy ban Thường
vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành năm 1970), quy định về tội
LĐCĐTS riêng của công dân như sau: “ Kẻ nào dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt
tài sản riêng của cơng dân thì phạt tù từ ba tháng đến ba năm …”.
Từ sau ngày giải phóng miền Nam, để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh đất
nước, Nhà nước ta đã ban hành thêm nhiều văn bản pháp luật hình sự trong đó có
quy định về tội LĐCĐTS. Như vậy từ năm 1976 nước ta áp dụng đồng thời đến 03
7


văn bản quy phạm pháp luật khác nhau cùng xử lý về tội LĐCĐTS: Miền Bắc áp
dụng hai pháp lệnh do Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ban hành năm 1970, miền Nam áp dụng Sắc lệnh số 03-SL/76 ngày 15/03/1976
của Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời.
Bộ luật hình sự đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam ban hành ngày
09/07/1985, có hiệu lực từ ngày 01/01/1986 áp dụng thống nhất trên cả nước, thay
thế các văn bản quy phạp pháp luật hình sự trước đó. BLHS năm 1985 quy định về
tội LĐCĐTS như sau:
Điều 134. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa.
1- Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì
bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. …”
Điềi 157. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân.
1- Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác, thì

bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. …”
BLHS năm 1985 đã phát huy tối đa tính pháp chế và bảo vệ được quyền tài
sản của cơng dân, có sự bình đẳng hơn quyền sở hữu đối với tài sản xã hội chủ
nghĩa và tài sản của công dân, thể hiện ở chỗ bỏ mức hình phạt tử hình, chỉ áp dụng
mức hình phạt cao nhất là tù chung thân đối với tội LĐCĐTS xã hội chủ nghĩa; cịn
đối với tội LĐCĐTS cơng dân thì nâng mức hình phạt cao nhất là phạt tù đến 15
năm. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng BLHS năm 1985 nói chung và đối với tội
LĐCĐTS nói riêng cũng bộc lộ những hạn chế nhất định cần phải được sửa đổi, do
vậy riêng tội LĐCĐTS quy định tại các điều 134 và điều 157 cũng đã được sửa đổi,
bổ sung qua bốn lần vào các năm 1990, 1991, 1993 và 1997.
Mặc dù được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhưng nhìn chung BLHS năm 1985
vẫn chia ra hai nhóm tội về xâm phạm quyền sở hữu tài sản: tội xâm phạm quyền sở
hữu tài sản xã hội chủ nghĩa và tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân.
Do vậy BLHS năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2000 đã thay thế
BLHS năm 1985, được xây dựng dựa trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách tương

8


đối tồn diện, có kế thừa và phát huy tích cực những quy định tiến bộ của BLHS
năm 1985.
BLHS năm 1999 đã gộp các nhóm tội về xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa
và xâm phạm sở hữu của công dân thành một chương duy nhất, Chương “các tội
xâm phạm sở hữu”, áp dụng cho tất cả các hình thức sở hữu; trong đó tội LĐCĐTS
được quy định tại điều 139, tức nhập các điều 134 và 134a, điều 157 trong BLHS
năm 1985 và các lần sửa đổi bổ sung. Điểm mới của điều 139 trong BLHS năm
1999 là trong cấu thành tội phạm cơ bản, giá trị tài sản bị chiếm đoạt được áp dụng
làm ranh giới xác định hành vi lừa đảo phải truy cứu TNHS với hành vi lừa đảo chỉ
bị xử lý hành chính; hình phạt bổ sung và các tình tiết định khung hình phạt cũng
được quy định ngay trong điều luật và chi tiết, cụ thể hơn về tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có
giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm
nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xố án
tích mà cịn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm”. (K.1, Đ.139 BLHS 1999).
Phải thừa nhận rằng BLHS năm 1999 là một bước tiến quan trọng trong quá
trình xây dựng và áp dụng chính sách pháp luật hình sự hướng đến đề cao quyền
con người, tôn trọng quyền sở hữu của công dân. Tuy nhiên kinh tế-xã hội không
ngừng phát triển kéo theo sự gia tăng và phát sinh nhiều loại tội phạm mới kể cả về
thủ đoạn và quy mô như các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia, các tội phạm liên
quan đến công nghệ thông tin, lĩnh vực tài chính, …; bên cạnh đó xu thế hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng cần thiết đặt ra vấn đề phải sửa đổi, bổ sung các quy
định về pháp luật hình sự cho phù hợp với quan điểm, chủ trương mới của Đảng về
cải cách tư pháp như đã được nêu tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó chú trọng
đề cao quyền con người theo hướng hạn chế áp dụng hình phạt tử hình, tước đi
mạng sống của con người.
9


1.2.2. Quy định của BLHS năm 2015 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 ngày 27/11/2015 đã thông qua BLHS
năm 2015, tuy nhiên sau đó Quốc hội đã quyết định hỗn thời hiệu áp dụng do phát
hiện một số lỗi, để tiến hành nghiên cứu sửa đổi, bổ sung; tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội
khóa XIV chính thức thơng qua những sửa đổi, bổ sung và ban hành Luật số
12/2017/QH14 ngày 20/06/2017 về sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm
2015 và chính thức có hiệu lực ngày 01/01/2018 (sau đây gọi là BLHS năm 2015
được sửa đổi bổ sung năm 2017, gọt tắt là BLHS năm 2015), đã quy định về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản như sau:“Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài

sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới
2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo
khơng giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: …” (K.1, Đ.174
BLHS 2015).
Căn cứ quy định tại điều 174 BLHS 2015, tội LĐCĐTS được xây dựng theo
bốn CTTP tương ứng với bốn khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội, và
sắp xếp theo trình tự tăng dần về mức độ nghiêm khắc: CTTP cơ bản (khoản 1),
CTTP tăng nặng thứ nhất (khoản 2), CTTP tăng nặng thứ hai (khoản 3), CTTP tăng
nặng thứ ba (khoản 4).
Trong CTTP cơ bản (khoản 1 điều 174) của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có
các tình tiết là yếu tố định tội, làm ranh giới phân biệt giữa hành vi lừa đảo bị xử lý
TNHS và hành vi lừa đảo nhưng chỉ bị xử lý hành chính; đồng thời sửa đổi và bổ
sung thêm các dấu hiệu phạm tội mới thuộc trường hợp chiếm đoạt tài sản dưới
2.000.000 đồng nhằm cụ thể hóa hành vi phạm tội phải truy cứu TNHS.
CTTP tăng nặng thứ nhất (khoản 2 điều 174) ngồi các dấu hiệu định tội
cịn có các dấu hiệu định khung tăng nặng. Đối với các tình tiết định khung tăng
nặng theo quy định tại khoản 2, điều 174 BLHS 2015 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả
nghiêm trọng” (điểm g khoản 2 Điều 139 BLHS 1999), việc loại bỏ tình tiết này là
phù hợp, bởi căn cứ xác định “gây hậu quả nghiêm trọng” trong thực tế áp dụng rất
khó khăn.
10


Tương tự CTTP tăng nặng thứ nhất, CTTP tăng nặng thứ hai (khoản 3 điều
174), thì ngồi các dấu hiệu định tội cịn có các dấu hiệu định khung tăng nặng được
quy định cụ thể; khoản 3 cũng đã bỏ tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm
trọng” (điểm b khoản 3 Điều 139 BLHS 1999); và cũng quy định mới thêm một
tình tiết định khung khác là “Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”, đây là quy định hợp lý,
nhằm tránh các trường hợp phạm tội phát sinh trong những điều kiện khách quan
đặc biệt mà chưa có quy định dẫn đến bỏ lọt tội phạm.

Đối với CTTP tăng nặng thứ ba, khoản 4 điều 174 BLHS 2015 đã bỏ tình
tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” (điểm b khoản 4 Điều 139 BLHS 1999).
Đồng thời, BLHS năm 2015 quy định mới thêm một tình tiết định khung khác là c)
Lợi dụng hồn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp…”, đây là sự bổ sung hợp lý,
nhằm tránh bỏ lọt tội phạm trong một số trường hợp cụ thể, nhất là trong điều kiện
chiến tranh, tình trạng khẩn cấp thì sự manh nha hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt
tài sản gia tăng rất nhiều. [45]
Ngoài ra, tội LĐCĐTS là một trong những tội phạm phổ biến của nhóm tội
xâm phạm quyền sở hữu, gây thiệt hại về tài sản cho chủ sở hữu một cách trực tiếp,
nên ngồi hình phạt chính, người phạm tội cịn có thể bị áp dụng các hình phạt bổ
sung như: bị phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản như được quy định tại khoản
5 điều 174.
1.3. Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.3.1. Khái niệm
Theo tác giả Phan Thị Hồng Thắng thì: “Định tội danh là việc xác định và
ghi nhận về mặt pháp lí sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm
tội cụ thể đã thực hiện với dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong
Bộ luật hình sự”. [39,tr10]
Cịn theo GS.TSKH Lê Cảm thì định nghĩa về định tội danh như sau: “Định
tội danh được hiểu là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, là một trong
những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự;
11


đồng thời dựa trên các tài liệu chứng cứ thu thập được phản ánh các tình tiết thực
tế của vụ án đã xảy ra để so sánh, đối chiếu và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp
của chúng với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình
sự quy định”. [12]
Trong khoa học hình sự, một hành vi bị coi là tội phạm khi có đủ bốn dấu

hiệu, bao gồm: tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật và tính phải
bị xử lý hình sự. Tính phải bị xử lý hình sự đối với một hành vi được hiểu là hành vi
đó phải được qui định trong BLHS bằng một tội phạm cụ thể và kèm theo đó một
hình phạt cũng như các biện pháp xử lý hình sự khác tương ứng.
Hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chính là q trình các
cơ quan tiến hành tố tụng xem xét, đánh giá và áp dụng các quy định của PLHS và
TTHS để xác định hành vi của người phạm tội xem có thỏa mãn các yếu tố cấu
thành của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại điều 174 BLHS 2015 hay
khơng, và quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội.
Từ những khái niệm và phân tích trên có thể hiểu định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản như sau:
Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động thực tiễn của các
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng pháp luật hình sự theo trình tự, thủ
tục pháp luật tố tục hình sự quy định; trên cơ sở thu thập các tài liệu, chứng cứ
nhằm xác định có hay không sự phù hợp giữa hành vi chiếm đoạt đã xảy ra với
các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định
tại điều 174 BLHS 2015; làm căn cứ để giải quyết các vấn đề liên quan đến hình
phạt và các biện pháp cưỡng chế hình sự khác.
1.3.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Định tội danh là hoạt động thực tiễn, có tính logic nhằm xác định có hay
khơng sự tương đồng giữa hành vi chiếm đoạt tài sản đã được thực hiện và các dấu
hiệu của nó được quy định tại điều 174 BLHS 2015: “1. Người nào bằng thủ đoạn
gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
12


50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm:…”, để từ đó xác định hành vi đó có phải là tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản hay khơng. Trên cơ sở đó có thể nhận thức các dấu hiệu pháp lý của tội
LĐCĐTS như sau:
(i) Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Mặt khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quyền sở hữu tài sản. Đối
tượng tác động của tội phạm này là tài sản. Việc xâm phạm quyền sở hữu cũng thể
hiện ở hành vi chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người khác sau khi lừa lấy được
tài sản.
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ
nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, cụ thể là quyền sở hữu tài sản
được pháp luật bảo vệ. Trong cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luật khơng
quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt, đây là
điểm khác so với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp
giật tài sản.
(ii) Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
- Về hành vi khách quan của tội phạm LĐCĐTS: là sử dụng thủ đoạn gian
dối để chiếm đoạt tài sản, thể hiện ở chỗ:
+ Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác mà ngay lúc
đó người bị hại khơng biết được có hành vi gian dối;
+ Dùng thủ đoạn gian dối bằng hành vi đưa ra thông tin giả, không đúng với
sự thật (như bằng lời nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động, bằng hình
ảnh…hoặc kết hợp bằng nhiều cách thức khác nhau), làm cho người bị lừa dối tin
đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội.
Đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chiếm đoạt bằng thủ
đoạn gian dối, hai hành vi này có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó hành vi gian
dối có trước, là thủ đoạn để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; do vậy thủ đoạn

13


gian dối phải được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu

hoặc người quản lý tài sản để đạt mục đích chiếm đoạt.
Cũng chính vì thế mà khi phân tích các dấu hiệu khách quan cấu thành tội
LĐCĐTS, một số quan điểm cho rằng tội LĐCĐTS có hai hành vi khách quan là
hành vi “gian dối” và hành vi “chiếm đoạt”; tuy nhiên, BLHS năm 2015, điều 174
quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người
khác…” nên không thể coi thủ đoạn phạm tội là một hành vi khách quan được vì
thủ đoạn chính là phương thức để đạt mục đích, mà biểu hiện của thủ đoạn gian dối
lại bao gồm nhiều hành vi khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể khác mà
người phạm tội thực hiện hành vi đó nhằm đánh lừa người khác.
Ví dụ: A nói dối với B là mẹ của A ốm phải đưa vào bệnh viện cấp cứu; B
tin và đưa xe máy cho A để A đưa mẹ đi cấp cứu. A đem xe máy của B ra tiệm cầm
đồ cầm cố lấy 10.000.000 đồng, sử dụng vào mục đích đánh bạc và đã thua hết.
Hoặc ví dụ khác: vì muốn có tiền đánh bạc C đã nói dối với D là mượn xe 01 tiếng
đồng hồ để chở bạn gái về rồi sẽ trả lại xe, nhưng C lại đem cầm cố lấy tiền đánh
bạc….
Chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật
tài sản của người khác thành của mình, đây là đặc điểm nổi bật của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ
đoạn gian dối. Như vậy thủ đoạn gian dối của người phạm tội phải có trước hành vi
chiếm đoạt và là nguyên nhân trực tiếp khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản
cho người phạm tội. Trường hợp nếu thủ đoạn gian dối có sau khi người phạm tội
nhận được tài sản thì khơng phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà tùy trường hợp
cụ thể thủ đoạn gian dối đó sẽ cấu thành một tội khác, hoặc có thể là hành vi che
giấu tội phạm hoặc là hành vi phạm tội khác.
- Về hậu quả của tội LĐCĐTS: là thiệt hại về tài sản mà căn cứ xác định là
giá trị tài sản bị chiếm đoạt. BLHS 2015 quy định cụ thể giá trị tài sản bị chiếm đoạt
từ 2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm (K.1, Đ.174), trường hợp tài sản

14



bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện khác được nêu cụ
thể trong điều luật.
Tuy vậy trong một số trường hợp, mặc dù chưa có thiệt hại về tài sản (người
phạm tội chưa thực sự chiếm đoạt được tài sản), nhưng vẫn cấu thành tội phạm
LĐCĐTS, đó là phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm
tội tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Về mối quan hệ nhân quả: tội LĐCĐTS cũng như những tội có cấu thành vật
chất khác, hậu quả và hành vi khách quan của tội phạm có mối quan hệ nhân quả
với nhau, hậu quả thiệt hại về tài sản phải được xuất phát từ hành vi lừa dối. Nếu
việc thiệt hại về tài sản từ nguyên nhân khác thì sẽ dựa vào những dấu hiệu khách
quan để xác định xem có dấu hiệu của tội phạm không và được pháp luật điều chỉnh
như thế nào.
Ở đây cũng nên lưu ý là cần phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với
những tội phạm có dùng thủ đoạn gian dối khác, làm cho chủ sở hữu tài sản “tự
nguyện” giao tài sản của mình, cịn đối với những thủ đoạn gian dối nhưng không
phải do người bị hại tự động giao tài sản của mình thì phải căn cứ vào dấu hiệu
khách quan để xác định tội phạm tương ứng, chẳng hạn dùng thủ đoạn cân, đong,
đo, đếm, gian dối nhằm ăn gian, bớt của khách hàng, hoặc để bán hàng giả nhằm
thu lợi bất chính thì sẽ cấu thành tội lừa dối khách hàng hoặc tội buôn bán hàng giả.
(iii) Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Theo quy định tại điều 12 BLHS năm 2015 quy định về tuổi chịu TNHS, thì
đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm không phải là người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, tức là nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì khơng phải
chịu TNHS về tội LĐCĐTS, mà chỉ có người trên 16 tuổi mới phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội này.
(iv) Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với lỗi cố ý trực tiếp, nghĩa là
người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

15


Thật vậy, tội LĐCĐTS là tội có tính chất chiếm đoạt, do lỗi cố ý của chủ thể,
mục đích là mong muốn chiếm đoạt được tài sản thuộc sở hữu của người bị hại,
nghĩa là mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội ln có trước khi thực hiện
thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu sau khi đã có tài sản một cách
hợp pháp, ngay thẳng rồi mới có ý định chiếm đoạt tài sản thì khơng phải là hành vi
LĐCĐTS, mà tùy trường hợp cụ thể, người phạm tội có thể bị truy cứu TNHS về tội
phạm khác như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Ngồi ra, việc chứng minh ý thức chiếm đoạt của người phạm tội thường căn
cứ vào tình trạng tài chính, ngữ cảnh của người phạm tội như: tài sản thực có, tình
trạng tài chính, nhu cầu tài sản của người phạm tội kết hợp với lời khai nhận của
người phạm tội như thế nào; vì thường trước khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, người phạm tội bị rơi vào hoàn cảnh nợ nần do thua cờ, bạc, lô đề, kinh
doanh…, không có khả năng trả nợ cho chủ nợ nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài
sản.
1.3.3. Đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(i) Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có những đặc điểm như sau:
- Là hoạt động có tính logic nhằm xác định có hay khơng sự tương đồng giữa
hành vi chiếm đoạt tài sản đã được thực hiện và các dấu hiệu của nó được quy định
tại điều 174 BLHS 2015, để xác định hành vi đó có phải là tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản hay không.
- Hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải tuân thủ quy
định về trình tự, thủ tục của pháp luật tố tục hình sự; trên cơ sở thu thập các tài liệu,
chứng cứ để làm căn cứ áp dụng quyết định hình phạt hợp lí nhất đối với người
phạm tội.
- Với tư cách là một dạng của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, định tội
danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải đảm bảo tính chính xác, khách quan tuyệt
đối; mọi hành vi định tội danh sai sót dù là nhỏ nhất cũng có thể dẫn tới hậu quả lớn

cho cá nhân, gia đình và xã hội.

16


- Là hoạt động mang tính áp đặt một chiều đối với đối tượng bị áp dụng; hoạt
động định tội danh chỉ có thể được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng là cơ
quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tịa án mà khơng thể được tiến hành bởi bất kì chủ
thể nào khác, đối tượng bị áp dụng khơng được lựa chọn tội danh cho mình mà chỉ
có thể chấp nhận tội danh mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp đặt trên cơ sở áp
dụng theo quy định của pháp luật.
(ii) Ý nghĩa của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
- Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội: Định tội danh tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản góp phần thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng, các quy định của
Hiến pháp, các quy định của pháp luật, nhất là quy định của BLHS, BLTTHS. Mặt
khác, việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong BLHS (Điều 174 BLHS
2015) có mục đích bảo vệ quyền lợi về mặt kinh tế, cụ thể là quyền sở hữu tài sản
của công dân, đây là quyền con người được pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận.
Ý nghĩa về phương diện pháp lí: Hoạt động nhằm xác định hành vi của một
người là hành vi lừa đảo nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, thỏa mãn các dấu hiệu
quy định của BLHS thể hiện sự khách quan, công bằng của pháp luật; là tiền đề
quan trọng để định tội danh một cách chính xác, đồng thời là cơ sở để áp dụng đúng
các thủ tục tố tụng về thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử, áp dụng biện pháp tạm
giam,…; không làm oan, sai người vơ tội, khơng bỏ lọt tội phạm; tránh trình trạng
tội phạm bỏ trốn hay tẩu tán tang vật; đồng thời là căn cứ để Tồ án quyết định hình
phạt đúng, ban hành một bản án đúng, chính xác phù hợp với mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, thể hiện tính nghiêm minh, cơng bằng, khách quan
của pháp luật.
1.4. Quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.4.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyết định hình phạt

Hiện nay trong khoa học pháp lý hình sự có khá nhiều quan điểm đã được
nêu ra về khái niệm quyết định hình phạt. Tuy nhiên với quan điểm “Quyết định
hình phạt là một giai đoạn, nội dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc
Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản,
17


điều luật) theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện
trong bản án buộc tội” [37,tr386] đã cho rằng: quyết định hình phạt là hoạt động
nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự do Tồ án có thẩm quyền thực hiện sau khi
đã định tội danh, và tuỳ thuộc vào từng trường hợp để quyết định mức hình phạt
trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật quy định áp dụng đối với người
có hành vi phạm tội.
Quyết định hình phạt là kết quả cuối cùng của hoạt động xét xử do HĐXX
tiến hành căn cứ vào các quy định của BLHS để QĐHP, nên quyết định hình phạt
có những đặc trưng sau:
Một là: QĐHP là hoạt động thực tiễn của Tồ án có thẩm quyền do hoạt
động xét xử thực hiện dựa trên cơ sở áp dụng quy định của pháp luật hình sự và kết
quả định tội danh.
Hai là: Toà án căn cứ quy định trong BLHS, TTHS để quyết định miễn
TNHS, miễn hình phạt hoặc xác định khung hình phạt, loại hình phạt và mức hình
phạt hay biện pháp tư pháp đối với người phạm tội thể hiện trong bản án kết tội đối
với họ.
Mục đích của hình phạt là kết quả thực tế cuối cùng mà Nhà nước mong
muốn đạt được khi quy trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và áp dụng hình phạt
đối với người phạm tội; tuy nhiên mục đích của hình phạt có đạt được hay khơng lại
phụ thuộc vào sự đúng đắn và hợp lý của Tòa án khi quyết định hình phạt, vì chỉ khi
hình phạt trong bản án được tun đảm bảo tính cơng minh, hợp lý, đúng pháp luật
sẽ là điều kiện đảm bảo tính khả thi của hệ thống hình phạt; qua đó đạt được mục
đích trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội, góp phần hữu hiệu trong cơng tác

đấu tranh phịng chống tội phạm, bảo đảm pháp chế Nhà nước XHCN.
1.4.2. Căn cứ và nguyên tắc của quyết định hình phạt
Căn cứ quyết định hình phạt có ý nghĩa quyết định đến tính đúng đắn, hợp
pháp của toản bộ hoạt động áp dụng pháp luật, nên phải dựa trên các căn cứ sau:
- Một là, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nhân thân người phạm tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS
18


×