Tải bản đầy đủ (.docx) (255 trang)

Xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo hiện nay theo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (851.71 KB, 255 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Nguyễn Thị Thanh Huyền

XÂY DỰNG NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Nguyễn Thị Thanh Huyền

XÂY DỰNG NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỊ CHÍ MINH

Chun ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 62 31 02 04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1.

PGS.TS. BÙI ĐÌNH PHONG


2.

TS. VĂN THỊ THANH MAI

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Nguyễn Thị Thanh Huyền


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ 8
TÀI LUẬN ÁN

1

1.1. Nghiên cứu chung về nhân cách
1.2. Nghiên cứu về nhân cách Hồ Chí Minh
1.3. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách người cán bộ lãnh đạo
1.4. Nghiên cứu về xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo hiện nay theo 29

tư tưởng Hồ Chí Minh

8
15
26

1.5. Đánh giá kết quả tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cho 33
luận án
Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÂN CÁCH NGƯỜI 38
CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
2.1. Các khái niệm liên quan

38

2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo 48
2.3. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhân cách người cán bộ
75
lãnh đạo
Chương 3: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH 84
ĐẠO VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Thực trạng xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo Việt Nam hiện nay
3.2. Những vấn đề đặt ra

84


Chương 4: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC XÂY DỰNG 122
NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO HIỆN NAY
4.1. Những nhân tố tác động đến việc xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo 122
hiện nay

4.2. Những yêu cầu về nhân cách người cán bộ lãnh đạo hiện nay

128

4.3. Các nhóm giải pháp xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo hiện nay
139
KẾT LUẬN
160
DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN 164
LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

165

PHỤ LỤC

175


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; chính vì vậy, Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm đến cơng tác đào tạo,
giáo dục, hướng tới hoàn thiện nhân cách để họ thực sự trở thành những người
lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai
đoạn lịch sử.
Những thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay đã
khẳng định đường lối lãnh đạo của Đảng là đúng đắn, sáng tạo. Trong hành trình
đó, vấn đề xây dựng chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng và chống quan liêu, tham ô,

tham nhũng... nhằm làm trong sạch đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo luôn
được quan tâm.
Văn kiện các kỳ Đại hội của Đảng (nhất là Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI,
XII), các Nghị quyết chuyên đề về công tác xây dựng Đảng, cùng các Quy định: số
101-QĐ/TW ngày 7/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về '“Trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các
cấp”, Quy định 55-QĐ/TW ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về ““Một
số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”,
Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về ““Đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. đã nhấn mạnh yêu cầu mỗi cán
bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam phải tích cực học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; trong đó, cán bộ có chức vụ càng cao
càng phải gương mẫu.
Từ thực tế việc thực hiện những quy định này đã cho thấy, phần lớn cán bộ,
đảng viên giữ vững và phát huy vai trị tiền phong, là những người đứng đầu ln
gương mẫu trong cuộc sống, trong sinh hoạt, học tập, rèn luyện và cơng tác. góp
phần giữ vững vị thế, uy tín của Đảng. Tuy nhiên, vẫn cịn một bộ phận không nhỏ

1


cán bộ, đảng viên, kể cả các cán bộ lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo cấp
cao

biểu
hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, với các vấn nạn:
tham
nhũng, lãng phí, thực dụng, cửa quyền, gây phiền hà, sách nhiễu nhân
dân,v.v..


mắc căn bệnh chủ nghĩa cá nhân, chạy theo danh vọng, tiền tài, bộ phận
cán
bộ,
đảng viên đó đã tham ơ, hủ hố, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích
địa
vị,
quyền hành, tự cao tự đại, độc đoán, chuyên quyền, coi khinh nhân dân, xa
rời
thực tế, mệnh lệnh, đố kỵ, ngại gian khổ khó khăn, chỉ nghĩ đến lợi mà qn
nghĩa,
khơng dám hy sinh vì Tổ quốc, vì Đảng, vì dân..., gây bức xúc trong cả đội
ngũ
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Điều này đã được Đảng Cộng
sản
Việt
Nam cảnh báo nhiều lần. Đặc biệt, với phương châm nhìn thẳng vào sự
thật,
nói

sự thật, khơng nể nang, không né tránh, Đại hội XI của Đảng đã nghiêm túc
chỉ
ra:
"Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên,... làm giảm lòng tin của nhân dân đối với
Đảng

Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước" [21, tr.173]. Đại hội
đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng trên cơ sở nghiên cứu và tổng kết thực

tiễn,
một lần nữa thẳng thắn nêu ra những tồn tại: "Tình trạng suy thối về tư
tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên

tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi" [22, tr.15].

Tổng kết thực tế trong công cuộc đổi mới đất nước, chỉ tính riêng trong 5
năm (chủ yếu là 4 năm thực hiện NQTƯ 4, khóa XI, Đảng đã xử lý kỷ luật gần
1.400 tổ chức đảng và hơn 74.000 đảng viên ở các cấp. Trong số đảng viên
bị kỷ luật, có 82 tỉnh ủy viên và tương đương [130];cùng với đó, chỉ tính từ đầu
nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng (tháng 1/2016) đến nay, Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật đối với một tổ chức đảng, 13 đảng viên
thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, cả đương chức và đã nghỉ hưu; hơn
70 cán bộ, đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, bị thi hành kỷ
luật đảng và xử lý hình sự... “Những khuyết điểm, yếu kém của đội ngũ cán bộ đã
hạn chế đến khả năng phát huy các tiềm năng, thế mạnh khi thực hiện các mục tiêu
phát triển đất nước; xói mịn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; làm
2


suy giảm uy tín, vai trị lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự
tồn
vong
của Đảng và chế độ” [129].

Trước xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, công cuộc xây dựng đất nước
hiện nay, nhất là việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa không chỉ mang lại cơ hội, điều kiện thuận lợi cho việc phát triển mà cịn tạo

ra những thách thức vơ cùng to lớn trong việc tu dưỡng, rèn luyện nhân cách cho
người Việt Nam nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói riêng. Điều đó đang đặt ra
nhiều vấn đề bức xúc cả về lý luận và thực tiễn, địi hỏi phải có các giải pháp đúng
đắn và kịp thời. Chính vì thế, việc xây dựng nhân cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo là
yêu cầu vừa cơ bản vừa cấp bách, bởi hình mẫu nhân cách người cán bộ lãnh đạo
có tác dụng giáo dục, nêu gương cho quần chúng noi theo trong công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng và các tệ nạn xã
hội; là mục tiêu và động lực của quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
Với ý nghĩa đó, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhân cách
người cán bộ lãnh đạo trong giai đoạn hiện nay là việc làm vơ cùng cần thiết,
mang tính định hướng, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa
“chuyên”, thiết thực xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với vai trò
“vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” như
mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh; để họ xứng đáng với lòng tin, sự ủy thác
của Tổ quốc và nhân dân, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước
ngày càng phát triển.
Mong muốn phần nào làm sáng rõ thêm những nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo, từ việc phân tích thực trạng
nhân cách cán bộ lãnh đạo hiện nay để đưa ra một số giải pháp nhằm xây dựng
nhân cách người cán bộ lãnh đạo trong thời kỳ hội nhập quốc tế đạt hiệu quả tốt
hơn, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh ” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Hồ
Chí Minh học.

3


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.
Mục đích nghiên cứu

Luận án nghiên cứu làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhân
cách người cán bộ lãnh đạo và vận dụng vào việc xây dựng nhân cách người cán bộ
lãnh đạo hiện nay để góp phần hoàn thiện nhân cách đội ngũ này.
2.2.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến khái niệm nhân cách, nhân
cách Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách người cán bộ lãnh đạo và
xây dựng nhân cách người cán bộ hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo.
- Làm rõ thực trạng xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo qua hơn 30
năm đổi mới
- Đề ra nội dung cũng như các nhóm giải pháp trong việc xây dựng nhân cách
người cán bộ lãnh đạo hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.
Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo.
- Quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo thời
kỳ đổi mới và hội nhập.
- Thực trạng xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo Việt Nam hiện nay.
- Những yêu cầu về nhân cách, giải pháp xây dựng nhân cách người cán bộ
lãnh đạo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
3.2.
Phạm vi nghiên cứu
- Về tư liệu: Luận án nghiên cứu hành động, việc làm, bài viết, bài nói, chỉ đạo
thực tiễn của Hồ Chí Minh; các văn kiện, nghị quyết của Đảng liên quan đến cán bộ
lãnh đạo trong thời kỳ đổi mới (1986 đến nay);
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu việc xây dựng nhân cách người cán bộ
lãnh đạo ở tầm chỉ đạo vĩ mô (từ cấp thứ trưởng và tương đương trở lên), hoạt động


4


- trên một số lĩnh vực cơ bản như: tư tưởng, kinh tế - xã hội mà không
đi
vào
nghiên
cứu các lĩnh vực mang tính đặc thù như ngoại giao hay an ninh quốc phịng.

- Về khơng gian và thời gian: Nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây
dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo chủ yếu trong giai đoạn 1945 - 1969, khi
Người đảm nhiệm vị thế nguyên thủ quốc gia của Việt Nam; nghiên cứu về thực
trạng nhân cách người cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay, tác giả lấy mốc thời
gian sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ năm 1986 đến
năm 2018.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1.
Cơ sở lý luận
- Luận án được triển khai trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ
và công tác cán bộ; đồng thời, luận án cũng vận dụng phương pháp luận chính trị
học trong nghiên cứu đề tài luận án.
4.2.
Phương pháp nghiên cứu
- Luận án sử dụng phương pháp logic, phương pháp tổng hợp, phân tích, so
sánh, gắn lý luận với thực tiễn và kết hợp với phương pháp lịch sử ...Các phương
pháp được sử dụng phù hợp với yêu cầu trong từng nội dung cụ thể của luận án.
- Phương pháp logic được vận dụng để làm sáng tỏ nội hàm, bản chất các khái
niệm cơ bản của đề tài “Xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo hiện nay theo
tư tưởng Hồ Chí Minh”; từ đó, tác giả phân tích, luận giải nội dung tư tưởng Hồ Chí

Minh về xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo và các giá trị tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo.
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, gắn lý luận với thực tiễn
được vận dụng nhằm đánh giá thực trạng xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh
đạo hiện nay; các yếu tố tác động đến việc xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh
đạo và yêu cầu về xây dựng nhân cách đối với người cán bộ lãnh đạo hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.

5


- Phương pháp lịch sử được sử dụng để làm rõ quan điểm Hồ Chí Minh về xây
dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo (1945 - 1969); từ đó, vận dụng để đánh giá
thực trạng xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo ở nước ta theo tiến trình thời
gian từ năm 1986 đến năm 2018.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án hệ thống hoá những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo; các lý luận về xây dựng nhân cách
người cán bộ lãnh đạo hiện nay.
- Luận án đề ra các yêu cầu cũng như các nhóm giải pháp nhằm xây dựng
nhân cách người cán bộ lãnh đạo trong điều kiện hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
6.1.
Ý nghĩa lý luận
- Trình bày một cách có hệ thống và tương đối hồn chỉnh những quan điểm
cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo.
- Phân tích thực trạng xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo hiện nay, từ
đó đưa ra các nhóm giải pháp góp phần xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo
đáp ứng các tiêu chuẩn của thời kỳ hội nhập quốc tế.

- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án góp phần làm cơ sở khoa học định
hướng cho việc lựa chọn, xây dựng, rèn luyện, hướng tới hoàn thiện nhân cách
người cán bộ lãnh đạo hiện nay.
6.2.
Ý nghĩa thực tiễn
- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong quá trình hồn thiện các quy chuẩn lựa chọn, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo; trong nghiên cứu và giảng dạy các vấn đề lý luận liên quan thuộc
ngành Chính trị học, Hồ Chí Minh học hay Tâm lý học tại hệ thống các nhà trường,
học viện.

6


7. Bố cục của Luận án
- Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục cơng trình khoa học của tác giả liên
quan đến luận án, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án gồm 4 chương, 13 tiết.

7


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Nghiên cứu chung về nhân cách
- Với tư cách là khách thể trong nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và
nhân văn, nhân cách từ lâu đã trở thành đề tài được các nhà tư tưởng cả ở phương
Tây và phương Đông quan tâm, khảo sát trên nhiều bình diện. Nghiên cứu về nhân
cách đã được phân tích ở các mức độ, phạm vi, mục đích khác nhau và từ nhiều góc
độ như: đạo đức học, tâm lý học, xã hội học, luật học... Đặc biệt, vào thập niên 70,

80 của thế kỷ XX, trên thế giới, các trào lưu nghiên cứu về nhân cách trong tâm lý
học đã được hình thành và phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia. Việc chọn nghiên
cứu nhân cách theo xu hướng nào, lý luận hay thực nghiệm; nếu là xu hướng lý luận
thì lựa chọn lý luận mácxít hay ngồi mácxít để làm nền tảng cho lý thuyết cơ
bản... đã được thảo luận sôi nổi trên các diễn đàn học thuật.
- Câu hỏi: việc xây dựng và hồn thiện nhân cách con người có thực hiện được
khơng; hay bản thân mỗi con người sinh ra đã định hình nhân cách của chính mình
là nỗi băn khoăn của nhiều người. Việc lý giải quá trình hình thành nhân cách bắt
nguồn từ những yếu tố nào, từ cơ chế sinh học, tâm lý hay từ các yếu tố xã hội mà ở
đó cá nhân đóng vai trị vừa là chủ thể vừa là khách thể, đã hình thành nhiều khuynh
hướng khác nhau trong việc giải quyết vấn đề nhân cách. Chính vì thế, sự tranh luận
giữa các trường phái triết học bàn về nhân cách thường xoay quanh chủ đề này.
- Trong khuôn khổ đề tài, tác giả luận án khơng tham vọng trình bày mọi quan
điểm của các trường phái triết học trong lịch sử, mà chỉ tập trung vào quan điểm
mácxít về sự hình thành nhân cách và đồng quan điểm với các nhà khoa học cho
rằng: muốn lý giải được bản chất cũng như sự hình thành nhân cách, phải đặt nó
trong sự phát triển lịch sử của xã hội và trong hệ thống các quan hệ xã hội vốn tồn
tại trên cơ sở những tiền đề sinh học sẵn có. Tác giả luận án cũng lựa chọn hướng


- tiếp cận nhân cách dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và

tưởng
Chí Minh về vấn đề nhân cách, coi đó là khung cơ sở lý luận của luận án.

Hồ

- Nhà sư phạm Xô Viết A.X.Macaren trong cuốn Chủ nghĩa xã hội và nhân
cách do Nxb. Sách giáo khoa Mác - Lênin xuất bản năm 1983, viết: “Vấn đề nhân
cách có thể được giải quyết nếu người ta nhận thấy ở mỗi người là một nhân cách.

Nếu nhân cách dự kiến chỉ có ở một số người theo một sự lựa chọn đặc biệt nào đấy
thì khơng có vấn đề nhân cách” [3, tr.33]. Tác giả khẳng định: Con người được hình
thành như một nhân cách trong tiến trình sinh thành cá thể. Đối với sự phát triển của
nhân cách, những yếu tố xã hội và tự nhiên luôn xoắn xuýt với nhau. Nếu chỉ là một
cơ thể sinh vật, thì con người khơng thể là một nhân cách mà chính những yếu tố xã
hội, thực tiễn đã làm cho con người hình thành và hồn thiện nhân cách của mình.
Từ vai trị quan trọng của nhân cách, tác giả đưa ra quan điểm: “Nhân cách không
đơn giản là “một tế bào trong cộng đồng đa bào”. Nó được mệnh danh là cơ thể xã
hội” [3, tr.55]. Chính vì vậy, nhân cách có sự phát triển tương đồng với sự phát
triển của xã hội, xã hội nào thì quy định, định hướng phát triển của loại nhân cách
đó. Với tư cách là một cơ thể sống của xã hội, ông đã chỉ ra “nhu cầu của nhân cách
tạo thành cơ sở bản chất của nó” - có nghĩa là, bản chất của nhân cách được hình
thành do nhu cầu tự thân của nó cùng với điều kiện xã hội ở thời điểm đó.
- Sự phát triển của nhân cách cần được hiểu là sự hình thành những phẩm
chất xã hội nhất định mà cá nhân cần có để thực hiện quá trình tái sản
xuất xã hội. Cá nhân không thể kế thừa những phẩm chất này một cách
tự nhiên như khi kế thừa những đặc điểm di truyền sinh vật của mình, mà
phải tiếp thụ chúng bằng sự nỗ lực của bản thân, bằng hoạt động thực
tiễn tích cực và thơng qua tác động xã hội trong quá trình sinh hoạt cá
nhân. Trong quá trình này, mỗi cá nhân đều biểu hiện vừa là chủ thể, vừa
là khách thể của sự phát triển xã hội và lịch sử [3, tr.34].
- Trong số những tài liệu đã đựợc dịch ra tiếng Việt, cuốn Hoạt động, ý thức,
nhân cách, xuất bản năm 1989 của Leonchiep là tài liệu tham khảo có nhiều giá trị
đối với nghiên cứu về nhân cách trên phương diện lý luận. Đồng quan điểm với


- A.X.Macaren trong việc khẳng định mối quan hệ giữa nhân cách và xã
hội;
trong
chương 5 “Hoạt động và nhân cách”, tác giả đã xem xét, phân tích nhân

cách
trên
cơ sở là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học, phân biệt 2 khái niệm cá nhân

nhân cách. Theo tác giả, khái niệm cá nhân hay cá thể muốn nhấn mạnh
nhiều
đến
yếu tố di truyền, cịn “nhân cách khơng phải là một chỉnh thể được chế định
theo
kiểu di truyền, có nghĩa là: người ta sinh ra không phải đã là nhân cách mà
người
ta trở thành một nhân cách”[1, tr.201]. Từ luận điểm này, tác giả đưa đến
những
nhận định về ảnh hưởng của hoạt động thực tiễn, của động cơ, cảm xúc cá
nhân...
đến việc hình thành nhân cách và khẳng định: “Nhân cách được tạo ra bởi
các
hồn
cảnh khách quan, nhưng khơng phải bằng cách nào khác ngồi cách thơng
qua
tồn
bộ hoạt động của cá nhân thực hiện các quan hệ của nó với thế giới. Những
đặc
điểm của hoạt động này cũng tạo thành cái quy định kiểu loại của nhân
cách”
[1,
tr.256].

- Như vậy, bản thân con người khi sinh ra khơng phải đã định hình nhân cách
mà trong quá trình hoạt động, tương tác với xã hội, nhân cách mới được hình thành

và phát triển. Điều này mang ý nghĩa: ảnh hưởng của môi trường xã hội tới nhân
cách là rất lớn và ngược lại; hơn thế nữa, việc xây dựng, giáo dục nhân cách là yếu
tố tất yếu để góp phần hồn thiện nhân cách.
- Những luận điểm nêu trên cho thấy, xây dựng nhân cách, nghiên cứu để xây
dựng và hoàn thiện nhân cách là quá trình đã, đang và sẽ được tiến hành cùng với
sự phát triển của xã hội.
- Ở Việt Nam, hệ thống hóa các quan điểm mácxít về nhân cách đã được tác giả
Nguyễn Ngọc Bích trong cơng trình Tâm lý học nhân cách: Một số vấn đề lý luận
tiến hành. Cùng với việc khái quát các tư tưởng trong lịch sử phương Đông và tâm
lý học phương Tây về nhân cách, với lĩnh vực nghiên cứu này ở Việt Nam, ơng
khẳng định: “Tuy rằng chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách chính thống,
song cách hiểu của người Việt Nam về nhân cách có thể theo các mặt sau đây:
1. Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng
lực, hoặc là con người có các phẩm chất: đức, trí, thể, mỹ, lao (lao động).


2. Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người.
3. Nhân cách được hiểu như các phẩm chất của con người mới: làm chủ, yêu
nước, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động.
4. Nhân cách được hiểu như một đạo đức, giá trị làm người của con
người” [8, tr.195].
- Ngày nay, bên cạnh việc lấy tư tưởng Mác - Lênin làm nền tảng cho nghiên
cứu nhân cách, ông khẳng định rằng rất cần căn cứ vào những quan niệm của Hồ
Chí Minh về vấn đề này. Từ sự phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách, tác
giả đưa ra nhận định: Nhân cách hay “phẩm giá cá nhân gồm những phẩm chất mà
cá nhân thu nhận được trong quá trình hoạt động giao tiếp và những giá trị xã hội
của những phẩm chất đó. Điều đó nghĩa là những phẩm chất của cá nhân đều có ý
nghĩa xã hội, thơng qua sự đánh giá của xã hội thì hành động đó và việc làm đó mới
mang ý nghĩa nhân cách” [8, tr.171].
- Nhận định về tầm quan trọng của nghiên cứu nhân cách dưới góc độ tư tưởng

Hồ Chí Minh cũng một lần nữa được khẳng định trong cuốn Tâm lý học xã hội, một
nhân tố thắng lợi trong sự nghiệp Hồ Chí Minh, của Ủy ban khoa học xã hội Việt
Nam, xuất bản năm 1990. Các tác giả đều có quan điểm rằng: “Trong những năm
gần đây, vấn đề nhân cách được nhiều người, nhiều ngành khoa học quan tâm. Từ
các góc độ của mình, các nhà khoa học đã làm sáng tỏ mặt triết học, mặt tâm lý học,
mặt xã hội học của nhân cách. Nhưng điều đó hồn toàn chưa đủ” [118, tr.100].
Việc tiếp tục nghiên cứu về nhân cách là vô cùng cần thiết và ý kiến của các vĩ
nhân, trong đó có Hồ Chí Minh về vấn đề này là vô cùng quan trọng. Đứng ở góc
độ của bộ mơn Tâm lý học, các tác giả đã tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh để bàn về
khái niệm nhân cách:
- Nếu như chúng ta đã từng lấy ý kiến của Mác và Lênin làm cơ sở cho
việc tìm hiểu khái niệm nhân cách thì những ý kiến của Hồ Chí Minh
cũng khơng kém phần quan trọng trong cách nhìn nhận nhân cách người
Việt Nam. Chúng ta đều biết rằng Hồ Chí Minh khơng trực tiếp đề cập


- tới khái niệm nhân cách. Song trong những bài viết và nói của
Người
đều
tốt lên tinh thần và nội dung của khái niệm này [118, tr.100].

- Tác giả nêu ví dụ trong bài nói chuyện ngày 5/9/1954 của Hồ Chí Minh với bộ
đội, công an và cán bộ trước khi vào tiếp quản Thủ đô sau chiến thắng Điện Biên
Phủ: “Khi về xi thì đạo đức và nhân cách của mình phải như thế nào”[78, tr.46]
và “Ý muốn giữ vững nhân cách, tránh khỏi hủ hóa thì phải ln thực hành bốn
chữ: Cần, Kiệm, Liêm, Chính”[78, tr.47]. Có thể thấy, nội hàm nhân cách trong lời
dạy trên đồng nhất với khái niệm đạo đức cách mạng mà Người thường sử dụng
trong các bài nói, bài viết của mình. Từ việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề này, các tác giả đưa ra một quan điểm tương đối đồng nhất với các nghiên
cứu trong và ngoài nước đã nhắc đến trước đó: Nhân cách là hệ thống những phẩm

giá xã hội của cá nhân, thể hiện trong cá nhân, bên ngồi cá nhân, thơng qua hoạt
động và giao tiếp của cá nhân ấy. Sự thống nhất trong quan điểm vừa nêu là bước
đầu để chúng ta có thể tìm hiểu và áp dụng khái niệm nhân cách một cách cụ thể
trong tìm hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như vấn đề nhân cách hiện nay.
- Cuốn Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách do Phạm Minh Hạc và Lê Đức
Phúc chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, 2007 đã khẳng định nhân cách là một lĩnh
vực nghiên cứu khó, nhưng vơ cùng quan trọng, nhất là trong bối cảnh đất nước hội
nhập ngày nay. Qua việc điểm lại quá trình cũng như các khuynh hướng nghiên cứu
nhân cách, cơng trình đã cho thấy tính đa dạng của vấn đề. Các tác giả đi đến nhận
định chung: mặc dù có nhiều cách tiếp cận và lý giải khác nhau về nhân cách,
nhưng từ khi ra đời “tâm lý học mácxít đã khẳng định được những quan điểm cơ
bản, có ý nghĩa lý luận và phương pháp luận chỉ đạo chung cho việc nghiên cứu con
người và nhân cách” [32, tr.15] và riêng ở Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề này là rất thiết thực. Từ thực tế nghiên cứu nhân cách theo khuynh hướng
mácxit, một số nghiên cứu nhân cách ở Việt Nam và việc nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhân cách, các tác giả đưa ra khái niệm: “Nhân cách của con người là
hệ thống các thái độ của mỗi người thể hiện ở mức độ phù hợp giữa thang giá trị và
thước đo giá trị của người ấy với thang giá trị và thước đo giá trị của cộng đồng và


- xã hội; độ phù hợp càng cao nhân cách càng lớn” [32, tr.10]. Các tác
giả
cũng
khẳng định: “Nhân cách các danh nhân như nhân cách Nguyễn Trãi, nhân
cách
Hồ
Chí Minh,... là mẫu hình nhân cách lý tưởng của thời đại; khi độ phù hợp đó
phát
triển theo chiều âm, tức là ngược chiều với thang giá trị và thước đo giá trị
của

cộng
đồng và xã hội, thì khi ấy là tình trạng suy thoái nhân cách” [32, tr. 10], là cơ
sở
cho
việc xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo không chỉ dựa trên những
chỉ
dẫn
của Hồ Chí Minh mà cịn từ chính bản thân nhân cách mẫu mực của Người.

- Cuốn sách Vấn đề nhân cách trong tâm lý học ngày nay do Đào Thị Oanh chủ
biên năm 2007, đã tổng hợp khá cơ bản và đầy đủ những vấn đề lý luận nhân cách;
trong đó, tác giả phân tích lý luận về nhân cách trong tâm lý học Xô Viết với một số
quan điểm và khuynh hướng chủ yếu như: khuynh hướng sinh - tâm lý, khuynh
hướng tiếp cận triết học từ cái chung đến cái riêng, khuynh hướng nghiên cứu nhân
cách định hướng giáo dục con người mới. Ở Việt Nam, nội dung cuốn sách khẳng
định: nhân cách cũng có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng đa số các nhà khoa học
đều đi đến chung một xu hướng: coi giá trị xã hội là một thành phần quan trọng
nếu không muốn nói là trung tâm của nhân cách - có nghĩa là, nhân cách chỉ được
đánh giá đúng nếu đặt trong các mối quan hệ xã hội. Về cấu trúc của nhân cách, các
tác giả đưa ra các yếu tố theo quan niệm của tâm lý học nói chung, bao gồm xu
hướng của nhân cách, khả năng của nhân cách, phong cách hành vi và hệ thống điều
khiển nhân cách. Tuy nhiên, các tác giả cũng khẳng định, bốn yếu tố này đồng nhất
với nội hàm của khái niệm Đức và Tài trong quan niệm về nhân cách của người
Việt Nam: “Trong cách nói quen thuộc của người Việt Nam chúng ta, các bộ phận
trên trong cấu trúc nhân cách được sắp xếp thành hai mặt thống nhất với nhau là
đức và tài, hay phẩm chất và năng lực, dưới sự chỉ đạo của ý thức bản ngã (“cái
Tôi”)” [91, tr.150]. Điều này đã làm cho cách hiểu về nhân cách trở nên tường minh
hơn.
- Bài viết Về sự hình thành nhân cách của Cao Thu Hằng trên tạp chí Triết học
số 12 năm 2007 cho thấy, trên cơ sở phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố

sinh học và nhân tố xã hội trong con người, tác giả đã đồng quan điểm với nhiều


- nhà nghiên cứu trước đó khi lý giải sự hình thành nhân cách dưới tác
động
của
mơi
trường xã hội và từ tính tích cực của mỗi cá nhân. Sau khi phân tích các
khuynh
hướng nghiên cứu nhân cách, tác giả bày tỏ sự đồng tình với quan điểm
mácxít
khi
nhấn mạnh sự hình thành và phát triển nhân cách là do hai nhân tố quyết
định:
nhân
tố bên ngồi - những yếu tố xã hội, tính quyết định xã hội và nhân tố bên
trong
tính tích cực của chính cá nhân. Chính điều đó đã tạo ra xu hướng phát triển
của
nhân
cách và quyết định sự hình thành nhân cách của mỗi người.

- Luận án tiến sỹ triết học Quan điểm mácxít về nhân cách và ý nghĩa của nó
trong nghiên cứu nhân cách con người Việt Nam của Phạm Thu Trang, năm 2017,
đã hệ thống tương đối đầy đủ các khuynh hướng nghiên cứu, tiếp cận và lý giải
nhân cách, đặc biệt các nghiên cứu nhân cách con người Việt Nam. Tác giả đi sâu
phân tích, luận giải quan điểm Mác - Lênin về con người, coi đó là nền tảng lý luận
và phương pháp luận cho nghiên cứu nhân cách. Phạm Thu Trang cùng đồng quan
điểm với đa số các nhà nghiên cứu ở trên khi nhấn mạnh đến yếu tố xã hội trong
việc hình thành nhân cách khi đưa ra định nghĩa: “Nhân cách là tổng hịa tồn bộ

những phẩm chất xã hội của cá nhân, thể hiện trình độ Người của mỗi cá nhân
trước hết về mặt đạo đức, văn hóa, xã hội... Nhân cách biểu hiện gián tiếp hoặc
trực tiếp trong và thông qua các mối quan hệ xã hội của mỗi cá nhân. Nhân cách
được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động và giao tiếp của con người
với những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể” [113, tr.72-73].
- Ngồi ra, có thể kể đến các bài viết: “Phác thảo mơ hình cấu trúc nhân cách ”
của Nguyễn Ngọc Bích; “Nhân cách và giáo dục văn hóa nhân cách” của Hồng
Chí Bảo, “Yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội và nhân cách” của Trần Hiệp; “Văn hóa
và nhân cách” của Trần Tuấn Lộ... cũng có cách tiếp cận và lý giải tương tự về
nhân cách, chỉ ra các đặc trưng cũng như các yếu tố quyết định đến việc hình thành
và phát triển nhân cách của con người.
- Như vậy, có thể thấy nghiên cứu về nhân cách là một địa hạt khó và có nhiều
cách tiếp cận khác nhau. Quan điểm Mác - Lênin khẳng định nhân cách là sản phẩm
của xã hội và khơng mang tính di truyền sinh học. Điều này cho thấy, mối quan hệ


- giữa nhân cách và môi trường xã hội. Riêng ở Việt Nam, trên cơ sở của
quan
điểm
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm nhân cách cũng đã từng bước
được nghiên cứu và áp dụng; đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, các nhà
khoa
học
đang hướng tới nghiên cứu nhân cách con người như là một trong những giải
pháp
cơ bản của quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

1.2. Nghiên cứu về nhân cách Hồ Chí Minh
Các cơng trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh có rất nhiều, từ các đề tài cấp
nhà

nước, các sách chuyên khảo cho đến các bài báo...; trong đó, các tác giả thường
tập trung nghiên cứu về tư tưởng đạo đức, cuộc sống giản dị, những đóng góp của
Người trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam,v.v. Vấn đề nhân cách tuy là đề tài
khơng mới, nhưng những cơng trình nghiên cứu trực tiếp về nhân cách Hồ Chí
Minh lại chưa thực sự nhiều và được tiếp cận ở các góc độ khác nhau, dẫn đến
những lý giải tưởng chừng như thống nhất, nhưng lại mang nhiều nét khác biệt về
vấn đề này. Có thể đề cập tới các cơng trình sau:
Trong cuốn Tâm lý học xã hội, một nhân tố thắng lợi trong sự nghiệp Hồ
Chí
Minh, có hai bài viết tập trung nghiên cứu về nhân cách Hồ Chí Minh. Bài viết thứ
nhất của tác giả Bùi Đăng Duy có tiêu đề: Hồ Chí Minh - phác thảo về một nhân
cách, với phần dẫn giải nghiên cứu về nhân cách Hồ Chí Minh một cách tồn diện
khơng chỉ dưới góc độ một vĩ nhân mà cịn thơng qua những hoạt động đời thường
để “lý giải một cách khoa học” [118, tr.26] về nhân cách của Người. Mặc dù, nằm
trong khuôn khổ một cơng trình nghiên cứu về tâm lý học, nhưng tác giả lựa chọn
góc độ tiếp cận mới để khái quát về nhân cách Hồ Chí Minh gồm ba nội dung: Thứ
nhất, dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, và coi
đó là quá trình hình thành nhân cách, khả năng, năng lực đặc biệt để đưa Hồ Chí
Minh trở thành “người đi tiên phong, người lãnh đạo phong trào cách mạng mới”
[118, tr.28]. Thứ hai, nhà lãnh đạo kiểu mới, trong đó khẳng định “nét nổi bật và
khác biệt ở Hồ Chí Minh, lãnh tụ của giai cấp cơng nhân Việt Nam là ở chỗ hoạt
động về tổ chức và sáng tạo về lý luận của Người đã gắn bó chặt chẽ với đảng tiền
phong, với giai cấp và quần chúng lao động” [118, tr.30]. Thứ ba, bí quyết của sự


-

sảng khối mà theo tác giả thì đó chính là sự gần gũi, tự nhiên,
hóm
hỉnh,

trung
thực của Người thể hiện ra từ lời nói đến hành động. Như vậy có thể thấy,
những
phác thảo về nhân cách Hồ Chí Minh mà tác giả đưa ra đã đáp ứng đúng
tiêu
chí
ơng đặt ra bước đầu. Tuy nhiên, tác giả luận án lại không kế thừa được
nhiều
từ
nghiên cứu này.

- Bài viết thứ hai có tiêu đề: Hồ Chí Minh - một nhân cách của Đỗ Anh Thái đã
xác định rõ ràng hướng tiếp cận: “Nghiên cứu nhân cách Hồ Chí Minh có thể đi sâu
từ nhiều khía cạnh triết học, chính trị học, đạo đức học, giáo dục học, mỹ học.. .Từ
phương diện tâm lý học, chúng tơi muốn tìm hiểu quan hệ chính trị - tâm lý ở
Người trên một cái nền chung với những phẩm chất của người anh hùng và một
danh nhân văn hóa” [118, tr.39]. Theo tác giả, nội hàm của nhân cách bao gồm các
yếu tố: tư tưởng, trí tuệ, tình cảm, ý chí, đạo đức và nếp sống; trong đó, có những
yếu tố tác giả luận án có thể kế thừa và phát triển trong đề tài của mình.
- Cùng hướng tiếp cận dưới góc độ tâm lý học, tác giả Đỗ Long trong cuốn Hồ
Chí Minh, những vấn đề tâm lý học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 đã
nghiên cứu nhân cách Hồ Chí Minh theo các yếu tố hình thành nhân cách của tâm
lý: từ q trình tự ý thức, tính cách, cái tâm, quan điểm đạo đức cách mạng để đi
đến phần nội dung quan trọng: “Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn”. Ở đây, nhân
cách của Hồ Chí Minh được tập trung nghiên cứu dưới góc độ Người là một nhà
chính trị. Theo tác giả, nét riêng biệt trong nhân cách Hồ Chí Minh khác với các vị
anh hùng trước đó và với những người yêu nước cùng thời chính là tính nhất quán:
nhất quán về tư tưởng, nhất quán về trí tuệ, nhất qn về tình cảm, nhất qn về ý
chí, nhất quán về đạo đức, nhất quán về nếp sống. Từ đó, tác giả khẳng định: “Ở Hồ
Chí Minh đã xuất hiện một nhân cách nhất quán - một nhân cách phong phú và đa

dạng, thống nhất và nhiều chiều, thể hiện ở một cá tính đặc biệt: cao xa mà gần gũi,
vĩ đại mà khiêm tốn, lý trí mà tình cảm.. .tất cả đều hài hịa trong một thực thể hồn
chỉnh - Hồ Chí Minh” [66, tr.52].
- Những yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách Hồ Chí Minh chính là
sự tác động của điều kiện xã hội, sự ảnh hưởng, chi phối bởi yếu tố gia đình và đặc


- biệt là sự tự ý thức của bản thân Người. Hơn nữa, mặc dù đứng trên
đỉnh
cao
quyền
lực 24 năm, nhưng “hoàn toàn khác biệt với các nhân vật khác, Hồ Chí Minh
khơng
dùng quyền uy, khơng áp đặt ý chí cá nhân và nguyện vọng của riêng mình
để
buộc
quần chúng phải chấp nhận, phải phục tùng một cách mù quáng” [66, tr.56]

“Người thực hiện bằng chính tấm gương của mình” [66, tr.56]. Đây chính là
điều
khẳng định cho tính nêu gương của nhân cách Hồ Chí Minh; từ đó, chỉ ra
được
tầm
ảnh hưởng nhân cách của Người đối với nhân dân Việt Nam nói chung, với
đội
ngũ
cán bộ lãnh đạo nói riêng.

- Cuốn Vĩ đại một con người của các tác giả Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng,
Nxb. Trẻ, Hà Nội, xuất bản năm 2007; trong đó, Trần Văn Giàu khơng tiếp cận Hồ

Chí Minh dưới góc độ của một vĩ nhân, khơng bàn về Hồ Chí Minh với tư cách là
“nhà lãnh đạo giải phóng dân tộc, nhà sáng tạo tư tưởng, nhà văn hóa” [30, tr.35]
mà dụng ý bàn “ở một phạm vi hẹp hơn, bàn về nhân cách Cụ Hồ ” để “góp phần
nghiên cứu cụ Hồ như một con người”[30, tr.5] để nhìn nhận Hồ Chí Minh ở góc độ
đời thường nhất. Trần Văn Giàu đã chỉ ra bảy điểm cơ bản về nhân cách Hồ Chí
Minh gồm: ưu tiên đạo đức; tận tụy quên mình; kiên trì bất khuất; khiêm tốn giản
dị; hài hòa kết hợp; thương người - quý người, nâng đỡ con người, lý và tình và yêu
thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Qua bảy yếu tố về nhân cách Trần Văn Giàu
đưa ra, mặc dù nghiên cứu Hồ Chí Minh ở góc độ khác nhưng lại có nhiều điểm
đồng nhất với nhận định mà Đỗ Long đưa ra trước đó; đặc biệt, ở mục tiêu phấn đấu
vì độc lập dân tộc và hạnh phúc nhân dân. Tuy nhiên, việc phân tách tình yêu thiên
nhiên là một phẩm chất riêng biệt làm nên nhân cách Hồ Chí Minh là một quan
niệm mang tính riêng biệt và tương đối mới mẻ của Trần Văn Giàu. Đây cũng là
một gợi ý độc đáo, làm tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo về nhân cách Hồ Chí
Minh biểu hiện qua tình yêu với thiên nhiên.
- Bài viết Nhân cách, sự đóng góp của tư tưởng Hồ Chí Minh của tác giả Phan
Ngọc có cùng hướng tiếp cận với Đỗ Long khi phân tích Hồ Chí Minh với vai trị là
một vĩ nhân. Ông khẳng định, ở nhân cách Hồ Chí Minh là sự chấp nhận hy sinh để
làm nên những giá trị khác biệt và chính bản thân Người cũng là một tấm gương


- nhân cách mẫu mực, với mục đích lơn lao là đấu tranh cho độc lập dân
tộc
phúc nhân dân.



hạnh

- Với Hồ Chí Minh, Phan Ngọc nhận thấy sự kế thừa trong tư tưởng của Người

về nhiều vấn đề, nhưng quan niệm về nhân cách lại chủ yếu ảnh hưởng từ truyền
thống của dân tộc chứ không phải từ Khổng Tử hay Mác - Lênin. Đây cũng là một
nét riêng biệt của tác giả khi nhận định về nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhân cách. Đóng góp của Phan Ngọc trong bài viết này chính là thuật ngữ
“vượt gộp” khi nói về nhân cách Hồ Chí Minh. “Vượt gộp”, theo lý giải của ông là
vượt qua, vượt lên và gộp lại những giá trị đích thực từ các vị tiền bối đi trước. Tuy
nhiên, để có được sự vượt gộp ấy là cả một quá trình thử thách đầy gian nan, phải
trả bằng máu và nước mắt. Vượt gộp nhưng không hề rời xa thực tiễn hay mơ hồ.
Phan Ngọc viết: “Tơi khơng có điều kiện ở gần Bác, sống cạnh Bác. Trước mắt tơi
chỉ có những tài liệu in. Tơi vẫn có thể viết một cái gì chung chung về nguyên lý.
Nhưng Bác là con người cụ thể, mà điều cần học ở Bác chính là tính cụ thể ấy” [87,
tr.2]. Tính cụ thể mà ơng đề cập đến ở đây chính là giá trị làm gương của một người
lãnh đạo tối cao mà lời nói luôn đi đôi với hành động. Một trong những biểu hiện
của nhân cách lãnh đạo Hồ Chí Minh chính là: khiêm tốn, giản dị, không bao giờ từ
chối trách nhiệm trước mỗi một sai sót.
- Giá trị nhân cách Hồ Chí Minh theo Phan Ngọc, khơng chỉ dừng lại trong
phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà trên toàn thế giới, nhất là khi mà các vấn đề về
nhân cách đang trở nên đáng báo động: “Con người không chỉ biết tiến lên mà còn
biết dừng lại, ở cái mức độ vừa phải, tìm thấy vui sướng thản nhiên ở sự khiêm tốn
giản dị của mình. Bài học của minh triết phương Đơng, bài học rất có ích cho văn
hóa phương Tây ngày nay để chống lại sự phá sản về nhân cách có quy mơ thế
giới. Đây cũng là vượt gộp. Trong sự vượt gộp ấy, Hồ Chí Minh khơng chỉ là anh
hùng giải phóng dân tộc mà cịn là danh nhân văn hóa thế giới” [87, tr.3].
- Cuốn Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách, với mục đích nghiên cứu sự phát
triển nhân cách của con người Việt Nam đáp ứng những yêu cầu của thời đại mới;
trong đó, các tác giả đặc biệt nhấn mạnh việc xây dựng, rèn luyện theo nhân cách


- Hồ Chí Minh. Từ việc khẳng định: “Nhân cách Hồ Chí Minh là nhân cách
Việt

Nam tiêu biểu, được hun đúc trong hệ thống giá trị truyền thống của mấy
nghìn
năm lịch sử hùng tráng, quật cường, bất khuất, hy sinh và chịu đựng của
dân
tộc
Việt Nam và xu thế tự giải phóng của lồi người. Nhân cách ấy đã có ảnh
hưởng
to lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách ngày nay ở nước ta” [32,
tr.1213], tác giả đã đi sâu phân tích các mặt biểu hiện của nhân cách Hồ Chí
Minh,
được thể hiện qua cụm từ “hệ thống thái độ”, bao gồm: 1)Thái độ với đất
nước:
tận trung với nước, tận hiếu với dân; 2)Thái độ đối với giá trị con người: phải
giữ
được đạo đức; 3)Thái độ đối với lao động: coi lao động là nghĩa vụ và nguồn
hạnh
phúc; 4)Thái độ đối với bản thân: ln có tinh thần phê bình và tự phê bình,
ham
học, ham làm, ham tiến bộ... Vì thế, những biểu hiện nhân cách đó của
Người
trong vai trò người đứng đầu quốc gia và trong cuộc sống hàng ngày đã trở
thành
thước đo về nhân cách: “Nhân cách Hồ Chí Minh - nhân cách tiêu biểu của
Việt
Nam và tư tưởng tâm lý học nhân cách và giáo dục nhân cách của Người trở
thành
hạt nhân trong thang giá trị của xã hội ta, định hướng giá trị cho mọi người
phát
huy các giá trị truyền thống dân tộc, tạo thành một sức mạnh mới, ý chí
mới”

[32,
tr.15-16].

- Trong cuốn Hồ Chí Minh, đỉnh cao truyền thống nhân trí dũng Việt Nam Nxb.
Chính trị quốc gia năm 2009 của Nguyễn Khắc Nho, tác giả đã đi từ những hoạt
động, ứng xử hàng ngày của Hồ Chí Minh để rút ra những đặc điểm trong nhân
cách của Người, gồm các biểu hiện: 1) Bác sống giản dị, gương mẫu và lạc quan;
2)Luôn quan tâm tới mọi người, sống sâu nghĩa nặng tình, khơng qn khơng sót
một ai; 3) Nhìn xa trơng rộng, coi trọng các công việc nhỏ hằng ngày; 4)Phương
pháp hành động: dĩ bất biến, ứng vạn biến. Theo đó, mỗi nội dung được tác giả cụ
thể hóa bằng những câu chuyện kể trong cuộc đời hoạt động của Người, góp phần
định hình rõ hơn về nhân cách Hồ Chí Minh cũng như khẳng định việc cần thiết
phải xây dựng và rèn luyện theo nhân cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
- Cuốn Nhân cách Hồ Chí Minh do Mạch Quang Thắng chủ biên, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2010, đã đi sâu vào nghiên cứu các nhân tố tác động đến con


- đường hình thành, phát triển, hồn thiện nhân cách Hồ Chí Minh; đặc
trưng

bản
của nhân cách Hồ Chí Minh và giá trị nhân cách Hồ Chí Minh trong thời đại
ngày
nay. Trong đó, tác giả nêu rõ: “Nhân cách của mỗi con người khơng tự nhiên

sẵn
khi sinh ra mà được hình thành, phát triển, hoàn thiện qua cuộc sống” [110,
tr.21].

- Về đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh, tác giả chia ra làm 2 vấn đề: nhân cách

đạo đức và nhân cách trí tuệ, cho thấy rõ sự ảnh hưởng bởi hai yếu tố Đức và Tài
trong quan niệm Hồ Chí Minh về nhân cách mà tác giả đã dẫn ra trước đó. Tuy
nhiên, khi đi sâu vào từng vấn đề, có thể thấy sự khơng nhất qn trong tiêu chí khi
phân chia nhân cách đạo đức thành bốn yếu tố; trong đó, có 3 yếu tố thuộc về đặc
trưng nhân cách gồm:1) Lòng nhân ái cao cả; 2)Tâm trong sáng; 3)Trung với nước,
hiếu với dân, vì nước, vì dân, cần, kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư và một yếu tố
thuộc về mục đích của những tư tưởng, yếu tố mà nhân cách hướng tới: đấu tranh
giải phóng con người. Về vấn đề nhân cách trí tuệ, tác giả phân chia thành các yếu
tố: Tìm đường và Sớm cảnh báo về căn bệnh của Đảng, nhấn mạnh đến trí tuệ đặc
biệt của Hồ Chí Minh trong q trình vạch ra đường đi cho dân tộc và nhãn quan
đặc biệt của Người khi chỉ ra các căn bệnh dễ mắc phải của cán bộ, đảng viên, làm
suy thoái đạo đức, lối sống; làm giảm niềm tin của quần chúng nhân dân với Đảng,
với chế độ; ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước. Tác giả khẳng định:
- Hồ Chí Minh là một con người nổi tiếng. Một trong những điểm nổi bật
nhất ở con người Hồ Chí Minh là nhân cách. Nhân cách Hồ Chí Minh
thể hiện ở đức dày; ở cái tâm lành, trong sáng, không chút bụi mờ; ở tầm
cao và sáng của trí tuệ; ở ý chí dời non lấp biển, vươn lên chân, thiện,
mỹ; ở sự nghiệp suốt đời “lĩnh ấn tiên phong” trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội - giai cấp, giải phóng con người khơng
những trong phạm vi dân tộc Việt Nam mà còn ở phạm vi quốc tế [110,
tr.261].
- Trong bài viết Đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh - giá trị và sức lan tỏa,
Phạm Ngọc Anh khẳng định: “Hồ Chí Minh sinh ra là một con người như bao nhiêu
con người khác. Cuộc sống và hoạt động của Người là cả một quá trình để hình


×