Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận môn CNXHKH "Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ XHCN và dân chủ tư sản. Ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.44 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU
Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ điều
kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, trong di sản lý luận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội, tư tưởng về dân chủ và thực hành dân chủ là một trong
những nội dung quan trọng và có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc, to lớn. Có thể nói,
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta đạt được trong công cuộc
đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa bắt
nguồn từ nhiều ngun nhân, trong đó khơng thể khơng nói đến nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, cho dù vẫn đang trong q trình từng bước hồn thiện, cụ thể hố,
thực thi và đã có nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, như Đại hội XII của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã chỉ rõ, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên
và nhân dân cịn hạn chế; tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ
cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi; quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi,
nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm; có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ cịn hạn chế
hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất
đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội…
Đã xuất hiện khơng ít những hoài nghi về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng
ta đang xây dựng, rằng: Liệu dân chủ xã hội chủ nghĩa có "dân chủ hơn" dân chủ
tư sản hay không? Bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là gì? Và có gì giống,
khác với dân chủ tư sản mà các nước phương Tây đang xây dựng? Tại sao có
những nước thực hiện dân chủ thành công, trong khi các nước khác lại thất bại?
Tại sao việc đánh giá thế nào là dân chủ và không dân chủ lại không giống nhau
giữa các nước? Đâu là mơ hình dân chủ chung cho các quốc gia khi mà các nước
trên thế giới đang ngày càng xích lại gần nhau và Việt Nam học hỏi được kinh
nghiệm gì về xây dựng dân chủ ở các quốc gia đó?
Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề "Những điểm tương đồng và
khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản. Ý nghĩa đối với Việt
Nam hiện nay" làm bài thu hoạch môn Chủ nghĩa xã hội khoa học.

1




NỘI DUNG
1.1. QUAN NIỆM VỀ DÂN CHỦ VÀ CÁC CÁCH TIẾP CẬN DÂN CHỦ

1.1.1. Quan niệm chung về dân chủ
Dân chủ với tính cách là một phạm trù khoa học, một khái niệm chính trị
được nảy sinh và hình thành trong quan hệ với áp bức, chuyên chế, với những hiện
tượng độc tài, độc đoán, chuyên quyền. Là khái niệm mang tính lịch sử, nên dân
chủ khơng xuất hiện tức khắc và cũng khơng tồn tại bất biến. Nó được phát triển
trong tiến trình lịch sử nhân loại và trong quá trình đấu tranh giai cấp, đấu tranh
giữa các mặt đối lập: giữa tư tưởng tự do và nô lệ, giữa dân chủ và chuyên chế,
độc tài.
Xét về mặt lịch sử, thuật ngữ "dân chủ" xuất hiện rất sớm, từ thực tiễn "dân
chủ nguyên thủy" - khi chưa có chế độ tư hữu và chưa xuất hiện giai cấp. Dân chủ
theo nguyên nghĩa từ tiếng Hy Lạp cổ là do hai từ hợp thành: demos - nhân dân và
kratos - để phản ánh thực tế đã có là quyền lực thuộc về nhân dân. Sau đó, khi chế
độ chiếm hữu nô lệ ra đời, trong cuộc đấu tranh của phái "chủ nô dân chủ" chống
phái "chủ nô quý tộc" trong chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ xã hội đầu tiên có sự
phân chia thành giai cấp, về thực chất, quyền lực của nhân dân đã bị giai cấp chủ
nô "tiếm quyền" (theo cách viết của Ph.Ăngghen).
Cũng như các khái niệm khoa học khác, khái niệm dân chủ cũng ngày càng
bổ sung và phát triển theo cả bề rộng lẫn chiều sâu. Khái niệm "dân chủ" hiện nay
được hiểu rất rộng và theo nhiều chiều cạnh phong phú, đa dạng: dân chủ với tư
cách là một giá trị xã hội (tự do, bình đẳng, quan hệ giữa người với người trong
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như: gia đình, bạn bè, thầy trị...); dân chủ
với tư cách là một hình thức nhà nước. Như vậy, dân chủ hiểu theo nghĩa hiện đại
có hàm nghĩa rất rộng. Dân chủ, khơng chỉ là phạm trù chính trị, mà cịn là phạm
trù xã hội, khơng chỉ là phạm trù lịch sử, mà còn phạm trù vĩnh viễn.
Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp gắn liền với sự tồn tại và phát

triển của đời sống con người. Từ hàng ngàn năm trước Công nguyên, con người đã
biết hợp lực để sản xuất, chống thiên tai, thú dữ và đã tổ chức ra những hoạt động
chung mang tính xã hội, trong đó có việc cử ra những người đứng đầu để thực thi
những quy định, điều hành hoạt động chung. Đồng thời, cộng đồng sẽ phế bỏ
những người đó, nếu họ khơng thực hiện những quy định chung theo lợi ích và ý
nguyện của mọi người. Đây là một trong những quyền vốn có đương nhiên của
mọi thành viên trong cộng đồng. Quyền lực ấy là ngang nhau đối với mọi thành
viên trong thị tộc, bộ lạc.
2


Những nội dung cốt lõi của khái niệm dân chủ được hình thành từ thời cổ
đại Hy Lạp về cơ bản vẫn được các nhà lý luận ngày nay kế thừa và phát triển.
Điều khác biệt cơ bản giữa cách hiểu về dân chủ thời cổ đại và hiện nay là ở nội
hàm của khái niệm nhân dân và tính trực tiếp của mối quan hệ sở hữu quyền lực
công cộng. Ngày nay, mặc dù hầu hết các nhà lý luận, các nhà chính trị khi bàn
đến vấn đề dân chủ thường lấy thuật ngữ "Demokratos" làm điểm tựa xuất phát,
nhưng cuộc tranh luận về dân chủ vẫn diễn ra hết sức gay gắt, những lập luận, lý
giải về dân chủ rất đa dạng, phong phú và kết quả là vẫn chưa đưa ra được một
định nghĩa thống nhất.
1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ ra đời trên cơ sở kế thừa
các thành tựu của văn minh nhân loại; một mặt, các ông phát triển những tư tưởng
dân chủ đã có, mặt khác bổ sung, phát triển quan điểm mới phù hợp với điều kiện
lịch sử đương thời.
Quan điểm cơ bản của các nhà kinh điển về dân chủ được biểu hiện ở một
số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, trên cơ sở từ "nội hàm gốc" của "dân chủ nguyên thủy" - với
nghĩa thật sự là "quyền lực của nhân dân" trong điều kiện chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, các ông đã tập trung nghiên cứu "vấn đề dân chủ" từ khi xã hội lồi

người có chế độ tư hữu và phân chia thành giai cấp và xuất hiện các loại nhà nước,
dân chủ (chế độ dân chủ hoặc nền dân chủ). Đó là hình thức tổ chức nhà nước dựa
trên nguyên tắc nhân dân là chủ thể của quyền lực. Trong tác phẩm Phê phán
Cương lĩnh Gôta, C.Mác chỉ rõ: "từ "dân chủ" nếu chuyển sang tiếng Đức thì có
nghĩa là "nhân dân làm chủ". Điều đó có nghĩa trong chế độ dân chủ, nhân dân là
chủ thể quyền lực nhà nước, nhân dân tạo nên nhà nước, chứ không phải nhà nước
tạo nên nhân dân. C.Mác viết: "Chế độ dân chủ xuất phát từ con người và biến nhà
nước thành con người được khách thể hóa. Cũng giống như tôn giáo không tạo ra
con người mà con người tạo ra tôn giáo, ở đây cũng vậy: không phải chế độ nhà
nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra nhà nước".
Thứ hai, chủ nghĩa Mác-Lênin sử dụng khái niệm dân chủ trên phương diện
quyền lợi của nhân dân, là vấn đề quyền lợi dân chủ được hiểu theo nghĩa rộng.
C.Mác cho rằng, nhân dân nên là chủ nhân của nhà nước. Quyền lợi căn bản nhất
của nhân dân chính là quyền lực nhà nước phải thuộc sở hữu của nhân dân, sở hữu
của xã hội; đồng thời, bộ máy nhà nước phải phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội.
Chỉ khi mọi quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mới có thể căn bản đảm

3


bảo việc nhân dân được hưởng quyền làm chủ, hưởng quyền lợi dân chủ khắp mọi
nơi.
Thứ ba, trên phương diện chế độ chính trị, chủ nghĩa Mác đã lý giải khái
niệm dân chủ như một hình thức nhà nước hay một hình thái nhà nước, như là chế
độ dân chủ hay chính thể dân chủ. C.Mác, trong tác phẩm Góp phần phê phán triết
học pháp quyền của Hegel, đã gọi chế độ quân chủ và chế độ dân chủ là chế độ
nhà nước.
Chủ nghĩa Mác chỉ ra rằng, chế độ dân chủ làm nên một hình thức nhà
nước, hình thái nhà nước, trong lịch sử nhân loại nó xuất hiện cùng với sự xuất
hiện của chế độ tư hữu, của giai cấp và của nhà nước; tính chất của nó căn bản

khơng giống kiểu "chế độ dân chủ hình thành tự nhiên thời kỳ nguyên thủy " trong
xã hội nguyên thủy. Trong xã hội của giai cấp bóc lột, chính thể dân chủ giống với
chính thể quân chủ và chính thể quý tộc, về thực chất, đều chỉ là công cụ giúp giai
cấp chiếm địa vị thống trị về chính trị và kinh tế thống trị đối với giai cấp khác.
Khơng những thế, C.Mác cịn chỉ ra sự khác biệt cơ bản giữa chế độ dân
chủ với chế độ chuyên chế, chế độ dân chủ có đặc trưng cơ bản là luật pháp tồn tại
vì con người: "Dưới chế độ dân chủ, khơng phải con người tồn tại vì pháp luật, mà
pháp luật tồn tại vì con người… Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ là
như vậy".
Tuy nhiên, các nhà kinh điển cũng chỉ ra rằng, do xuất hiện trong điều kiện
xã hội có giai cấp nên cũng giống như nhà nước, dân chủ trước hết và chủ yếu là
một phạm trù chính trị, mang tính giai cấp và phục vụ giai cấp thống trị, không có
dân chủ "thuần túy", dân chủ nói chung.
Tựu trung lại, quan niệm về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin được biểu
hiện ở hai góc độ:
Một là, dân chủ được xem xét với tư cách là hình thức tổ chức nhà nước,
một chế độ xã hội trong đó quyền lực thuộc về nhân dân. Nói cách khác, dân chủ
là phương thức quản lý điều hành xã hội được xây dựng thành các thiết chế, quy
chế, chế độ được đảm bảo về mặt pháp lý và được biểu hiện thành trật tự của tổ
chức bộ máy nhà nước, thông qua tổ chức và quản lý để thực hiện quyền lực đối
với xã hội;
Hai là, dân chủ là giá trị tiến bộ xã hội. Kết tinh của giá trị tiến bộ xã hội
của dân chủ là ở chỗ, các cuộc đấu tranh để giành lấy dân chủ đều dẫn đến những
khả năng giải phóng, nâng cao vị trí của con người trong lịch sử, hình thành và
phát triển ở con người ý thức và năng lực làm chủ xã hội. V.I. Lênin đã chỉ rõ,
4


chính chủ nghĩa tư bản trong tiến trình phát triển của nó đã dẫn tới các tiền đề cho
sự chín muồi đầy đủ của dân chủ và một khi dân chủ đã phát triển đầy đủ thì nó

khơng thể dung nạp được trật tự tư sản. Do vậy, chủ nghĩa xã hội thắng lợi nhất
thiết phải thực hiện chế độ dân chủ hoàn toàn.
1.1.3. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa
Về nền dân chủ tư sản, nghiên cứu vấn đề dân chủ được đặt ra trong điều
kiện phải đấu tranh trực tiếp với những quan điểm tư sản về dân chủ; sự tuyệt đối
hóa những giá trị dân chủ đạt được trong chủ nghĩa tư bản đương thời cũng như
nhu cầu thực tiễn phải vượt qua dân chủ tư sản, C.Mác và Ph.Ăngghen trước hết
vạch trần bản chất giả dối của dân chủ tư sản. Ph.Ăngghen viết về chế độ dân chủ
tư sản như sau:
Chế độ dân chủ, giống như bất kỳ chính thể nào khác, cũng là sự dối trá,
chẳng qua cũng chỉ là sự giả dối... Tự do chính trị là tự do giả, là chế độ nơ lệ tồi
nhất; nó chỉ là cái vẻ bề ngồi của tự do, và vì thế, trên thực tế, nó là chế độ nơ lệ.
Bình đẳng chính trị cũng như vậy, vì thế chế độ dân chủ (tức là dân chủ trong chủ
nghĩa tư bản - người trích), giống như bất kỳ mọi hình thức quản lý nào khác, cuối
cùng phải tan rã; sự giả dối không thể tồn tại lâu dài, mâu thuẫn che đậy ở trong
đó tất yếu sẽ bộc lộ ra; hoặc là chế độ nô lệ thực sự, tức là chế độ chuyên chế
không che đậy, hoặc là tự do thực sự và bình đẳng thực sự, tức là chủ nghĩa cộng
sản.
Khi nghiên cứu tư tưởng trên đây của Ph.Ăngghen, cần lưu ý rằng: một là,
chế độ dân chủ mà ông viết ở đây là chế độ dân chủ tư sản; hai là, dân chủ tư sản
chỉ là giả dối, là bức màn che của bản chất nô lệ trong chủ nghĩa tư bản; ba là, nền
dân chủ đó chứa đầy mâu thuẫn mà sự vận động nội tại của những mâu thuẫn ấy
nhất định sẽ dẫn chế độ dân chủ tư sản đến chỗ tiêu vong; bốn là, tự do, bình đẳng
thực sự chỉ đạt được trong chủ nghĩa cộng sản. Như vậy, việc phân tích tính chất
tạm thời, tính chất nhất định sẽ bị vượt qua của dân chủ tư sản đã đưa các nhà kinh
điển mácxít đến tư tưởng về cách mạng xã hội chủ nghĩa như là bước đi tất yếu để
tiến tới một xã hội dân chủ chân chính mà đỉnh cao nhất trong sự phát triển của nó,
dân chủ sẽ tiêu vong.
Về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo các nhà kinh điển của

chủ nghĩa Mác - Lênin, thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền lực chính
trị thuộc về giai cấp cơng nhân: "Trước hết nó tạo ra một chế độ dân chủ mà nhờ
đó trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị của giai cấp vơ sản".

5


Với tư cách đó, dân chủ là bản chất của chủ nghĩa cộng sản: "đối với giai
cấp công nhân, dân chủ và chủ nghĩa cộng sản là những danh từ hồn tồn đồng
nghĩa". Xã hội cịn giai cấp và nhà nước thì tất yếu nền dân chủ cũng mang tính
giai cấp. Tuy nhiên, trong chủ nghĩa xã hội, lợi ích của giai cấp cơng nhân thống
nhất với lợi ích của đa số nhân dân lao động nên đây là nền dân chủ giành cho số
đơng, nó khác về chất so với các kiểu dân chủ đã có trong lịch sử.
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng cho rằng, việc thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa gắn với bảo đảm các quyền tự do, bình đẳng của cơng dân. Theo các ơng:
"… những quyền tự do như tự do báo chí, tự do lập hội và tự do hội họp, quyền
đầu phiếu phổ thông, quyền tự trị của địa phương - những quyền mà nếu khơng
có… thì cơng nhân sẽ khơng bao giờ có thể giải phóng được mình". Trong bối
cảnh giữa thế kỷ XIX, khi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới ở giai đoạn phôi thai
về mặt lý luận, các ông đã nhận ra cơ sở nền tảng để thực hiện nó: "Mặc dầu quần
chúng khơng phải bao giờ cũng hiểu được rõ ràng cái ý nghĩa duy nhất chính xác
đó của dân chủ nhưng đối với họ, cái khái niệm dân chủ đã bao hàm khát vọng,
tuy còn mơ hồ, về bình đẳng xã hội" Rất nhiều cơng trình nghiên cứu sau này đều
có nhận định, quyền bình đẳng xã hội của các công dân là tiền đề quan trọng nhất
trong thực hiện dân chủ.
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, từ thực tiễn của cách mạng vô
sản Nga, V.I.Lênin đã tiếp tục hoàn thiện, phát triển quan niệm về dân chủ. Trước
hết, V.I.Lênin đã đưa ra những đánh giá khách quan, khoa học về nền dân chủ tư
sản. Theo ông, tư tưởng dân chủ tư sản là một nấc thang trong tiến trình phát triển
của tư tưởng dân chủ của nhân loại. Sự vận hành của chế độ dân chủ tư sản trên

thực tế đã tạo ra những thành tựu dân chủ quan trọng. Tuy nhiên, hạn chế lịch sử
của nó là "tính ước lệ, hạn hẹp". Xã hội tư bản chủ nghĩa, xét trong những điều
kiện phát triển thuận lợi nhất của nó, đem lại một chế độ dân chủ ít nhiều đầy đủ
trong chế độ cộng hoà dân chủ. Những chế độ dân chủ ấy ln bị bó buộc trong
khn khổ chật hẹp của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa. Nó ln là chế độ dân chủ đối
với thiểu số, là chế độ dân chủ của giai cấp có của, giàu có. So sánh nền dân chủ
tư sản và nền dân chủ vô sản, trong tác phẩm Cách mạng vô sản và tên phản bội
Cauxky, V.I.Lênin đã có một luận điểm nổi tiếng khi khẳng định "nền dân chủ vô
sản hơn gấp triệu lần nền dân chủ tư sản".
Có thể thấy tư tưởng nổi bật của ông về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền
dân chủ dựa trên và gắn liền với các quyền tự do cơ bản của con người - điều mà
nhà triết học Anh John Locke đã đưa ra từ thế kỷ XVII. Các quyền ấy được thực
hiện trong thực tế cho hầu hết nhân dân lao động chứ không phải chỉ là những lời
6


tun bố sng. Liên hệ với tình hình thực tế cuộc sống của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động trong những năm đầu thế kỷ XX khi mà đại bộ phận nhân dân
lao động tại các nước Á, Phi, Mỹ Latinh đang chịu cảnh nô lệ; giai cấp công nhân
và nhân dân lao động tại các nước tư bản đang bị bóc lột sức lao động một cách
nặng nề sẽ thấy rõ, V.I.Lênin đã từ những ví dụ thực tế và sinh động đó mà đi đến
kết luận: "Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng
dân chủ hơn gấp triệu lần, chính quyền xơ viết, so với các cộng hòa tư sản dân chủ
nhất, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần".
1.2. NHỮNG NỘI DUNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ
SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.2.1. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị
Thứ nhất, trên phương diện là một phạm trù chính trị, cả dân chủ tư sản và

dân chủ xã hội chủ nghĩa đều đề cao nguyên lý "quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân". Tuy nhiên, bản chất giai cấp của hai chế độ dân chủ này lại khác
nhau.
Trong quan điểm của C.Mác và Ph.Ănghen, dân chủ tư sản và dân chủ xã
hội chủ nghĩa được xem xét với tư cách là hình thức tổ chức nhà nước, một chế độ
xã hội trong đó quyền lực thuộc về nhân dân. Nói cách khác, dù là dân chủ tư sản
hay dân chủ xã hội chủ nghĩa thì đó đều là phương thức quản lý, điều hành xã hội
được xây dựng thành các thiết chế, quy chế, chế độ được bảo đảm về mặt pháp lý
và được biểu hiện thành trật tự của tổ chức bộ máy nhà nước, thông qua tổ chức và
quản lý để thực hiện quyền lực đối với xã hội.
C.Mác cho rằng, không phải mọi nhà nước đều mang hình thức dân chủ,
nhưng cơ sở hình thành và tồn tại của bất kỳ nhà nước nào cũng không thể nào
khác, là phải nhờ vào sự đóng góp chủ quyền của các cơng dân. C.Mác cũng đã
chỉ ra rằng, dân chủ hóa nhà nước là một tính quy luật trong lịch sử, q trình ấy
chỉ kết thúc khi dân chủ đạt đến trạng thái hoàn bị của nó, tức là trở thành sự tự
quy định của nhân dân một cách trực tiếp mà không cần bất cứ hình thức nhà nước
nào và do đó, dân chủ theo nghĩa "quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" cũng sẽ
khơng cịn nữa.
Kế thừa tư tưởng và quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cũng
đã nhiều lần khẳng định, dân chủ tức là quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân
dân, nhân dân sử dụng quyền lực của mình để quản lý cơng việc nhà nước, quyền
lực nhà nước do nhân dân mà có và nó thuộc về nhân dân. Nhân dân có quyền làm
7


chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế đến chính trị, văn hóa,
xã hội.
Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm "nhân dân" trong chế độ dân chủ tư sản
và dân chủ xã hội chủ nghĩa hồn tồn khơng giống nhau và về thực chất, nhà
nước tư sản vẫn là nhà nước của thiểu số giai cấp bóc lột. Nhân dân là chủ thể

quyền lực chỉ được biểu hiện qua hình thức phổ thơng đầu phiếu, qua quốc hội lập
hiến hoặc nghị viện. Để bảo đảm trước hết lợi ích của giai cấp mình, giai cấp tư
sản bao giờ cũng thiết kế những nguyên tắc bầu cử mà trong thực tế người dân lao
động khơng bao giờ có cơ hội tham gia cơng việc của nhà nước. Đó chính là sự
khác nhau căn bản giữa chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, cả dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều phải thực hành
dân chủ thơng qua hình thức nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, vai trò, cơ cấu và
mối quan hệ giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở hai kiểu nhà nước khác
nhau.
Bất kỳ nhà nước hiện đại nào cũng quản lý xã hội bằng pháp luật, điều
chỉnh công việc theo luật và xử lý các vụ vi phạm luật. Hệ thống các cơ quan
quyền lực nhà nước được phân định theo ba chức năng: lập pháp, hành pháp, tư
pháp, vừa có nhiệm vụ riêng biệt, vừa có quan hệ ràng buộc trên cơ sở của luật
pháp, nhà nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa cũng được thiết kế chặt chẽ như vậy.
Thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản được đánh dấu bằng việc thiết lập
chính quyền nhà nước tư sản sau khi đã đánh đổ quyền lực của các vương triều
phong kiến. Chế độ cộng hòa tư sản đã thay thế chế độ quân chủ chuyên chế. Nhà
nước tư sản trở thành thiết chế quyền lực của giai cấp tư sản, bảo đảm cho giai cấp
này ở địa vị thống trị xã hội với sức mạnh thao túng xã hội cả về kinh tế và chính
trị. Chính trị theo ý nghĩa trực tiếp nhất của nó là quyền lực và bộ máy quyền lực
của giai cấp thống trị, được biểu hiện tập trung ở chính quyền nhà nước, có vai trị
chi phối các giai cấp, các lực lượng xã hội khác và điều khiển xã hội, chế ước và
điều chỉnh các quan hệ giai cấp, quan hệ xã hội khác. Thành quả của cuộc cách
mạng tư sản thông qua sức mạnh của bộ máy nhà nước đã thành vật sở hữu của
giai cấp tư sản.
Sự khác nhau căn bản giữa chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa về phương diện này lại nằm ở chỗ: dân chủ tư sản thực hành dân chủ thơng
qua hình thức nhà nước pháp quyền tư sản, trong khi đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa
thực hành dân chủ thơng qua hình thức nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.


8


Mặc dù nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản
đều phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do
pháp luật quy định. Nhưng bản chất và nội dung pháp luật về tổ chức, xây dựng và
vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác nhau rất cơ bản. Đó là sự
khác nhau trong các quy phạm của hiến pháp và pháp luật về tổ chức, cơ cấu nhân sự
và việc xây dựng, vận hành của bộ máy quyền lực như: quốc hội và nghị viện; tổng
thống và chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ, tịa án, tịa án hiến pháp, v.v.. Pháp luật
trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực (quốc hội, chính
phủ...) và chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thơng qua các đại biểu của mình là chủ
thể duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của quốc hội, chính phủ hoặc
tổ chức ra quốc hội và chính phủ nhiệm kỳ mới (như Việt Nam, Trung Quốc).
Trong khi đó, hiến pháp và pháp luật tư sản lại thừa nhận quyền lực của cá nhân
tổng thống hoặc cá nhân thủ tướng có quyền giải tán nghị viện (quốc hội) hoặc
giải tán chính phủ... (điển hình là Mỹ). Đây là nội dung khác biệt cơ bản nhất giữa
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản.

Trong khi nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết "tam quyền phân lập" là
học thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp; thì nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thừa
nhận việc phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc
về nhân dân; trong đó có sự phân công, phối hợp, để thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà nước thống nhất, được
thực hiện với hiệu quả cao nhất.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân,

do nhân dân và vì nhân dân. Đây là đặc điểm rất quan trọng mà nhà nước pháp quyền
tư sản khơng thể có được. Đây cịn là sự thể hiện về tính ưu việt của chế độ dân chủ
xã hội chủ nghĩa so với chế độ dân chủ tư sản. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng về kỹ thuật và tổ chức
hoạt động của nó có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà
nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là phương thức tổ
chức và thực hiện quyền lực nhà nước rất mới mẻ, chúng ta phải lấy hiệu quả thực
tiễn để kiểm nghiệm. Theo đó, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân được phân công thực hiện quyền lập hiến, lập
pháp, giám sát tối cao, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước. Chính phủ là
cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, thống nhất quản
lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, an ninh qc phịng
9


và đối ngoại của Nhà nước. Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, việc xác định các hình thức và cơ chế kiểm sốt quyền
lực nhà nước là một đòi hỏi tất yếu để phịng chống sự tha hố của quyền lực nhà
nước, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước bao gồm kiểm soát bên trong giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, và kiểm sốt bên ngồi do nhân
dân (là các cá nhân hoặc tổ chức) tiến hành.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Một trong số những nội dung cơ bản nhất của nguyên
tắc tập trung dân chủ là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên. Tập
trung dân chủ được thể hiện trong quá trình tổ chức và xây dựng bộ máy quyền lực
nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có trách nhiệm bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, cơng dân phải làm trịn nghĩa vụ của mình
đối với Nhà nước và xã hội. Mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước với công dân, giữa

dân chủ với kỷ cương trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do
pháp luật quy định và điều chỉnh. Đây là một đặc điểm quan trọng, xun suốt trong
tồn bộ q trình xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay và phải được thực hiện
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật, không ngừng tăng cường và đổi mới
công tác lập pháp, hành pháp và tư pháp; đồng thời, thường xuyên quan tâm đến việc
tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.

Thứ ba, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa biểu hiện ra những
quan hệ giữa các tổ chức và quan hệ xã hội mang những tính chất khác nhau
Theo đó, dân chủ tư sản là nền dân chủ có tính giả dối về quyền lực chính
trị và về quyền làm chủ của đa số nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân
chủ thực chất và triệt để.
Dân chủ tư sản là nền dân chủ phục vụ giai cấp tư sản, nên nó tìm cách hạn
chế, lừa gạt, trấn áp, tước đoạt dân chủ đối với số đông nhân dân lao động. Bằng
nhiều hình thức khác nhau, từ những quy định trong hiến pháp, luật pháp, những thủ
đoạn chính trị thường ngày, giai cấp tư sản tìm cách hạn chế, cắt xén và tước đoạt
dân chủ của số đông người lao động. Về điểm này, V.I.Lênin đã từng viết: Khơng
có một nhà nước nào, dù là dân chủ nhất, mà lại khơng có trong hiến pháp của nó
những chỗ ngoắt ngoéo hay hạn chế, khiến giai cấp tư sản có thể đem qn đội
chống lại cơng nhân, có thể tuyên bố luật giới nghiêm…trong trường hợp "vi
phạm trật tự", nhưng thực ra là trong trường hợp mà giai cấp bị bóc lột "vi phạm"
tình trạng nơ lệ của mình và có mảy may ý gì khơng muốn sống đời nô lệ nữa.
10


Trong khi đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ thuộc về số đông, là
một nền dân chủ thực sự rộng rãi.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những điều kiện trên thực tế để giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình. Khác với dân

chủ tư sản là nền dân chủ phục vụ cho giai cấp tư sản, một bộ phận nhỏ trong xã
hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ thuộc về giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, là nền dân chủ cho số đông. Dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời, trước
hết là vì lợi ích của nhân dân lao động. "Chế độ dân chủ vô sản mà một trong
những hình thức của nó là chính quyền Xơviết, - đã phát triển và mở rộng chế độ
dân chủ một cách chưa hề thấy ở một nơi nào trên thế giới, chính là vì lợi ích của
tuyệt đại đa số dân cư, vì lợi ích của những người bị bóc lột và lao động".
Khi so sánh dân chủ tư sản với dân chủ xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin từng
khẳng định: Sự khác nhau giữa chế độ dân chủ tư sản, đại nghị, và chế độ dân chủ
xôviết hay vô sản, chung quy là ở chỗ trọng tâm của chế độ dân chủ tư sản là
tuyên bố một cách trịnh trọng và huênh hoang đủ mọi thứ tự do và quyền lợi,
nhưng trên thực tế lại khơng để cho chính đại đa số dân cư, tức là công nhân và
nông dân, được hưởng dù là chút ít những thứ tự do và quyền lợi ấy. Trái lại, trọng
tâm của chế độ dân chủ vô sản hay xôviết không phải là ở chỗ tuyên bố những
quyền lợi và tự do cho toàn thể nhân dân, mà là ở chỗ thực sự đảm bảo cho chính
quần chúng lao động trước kia bị tư bản áp bức và bóc lột được thực sự tham gia
quản lý nhà nước.
Để chứng minh dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ thuộc về số đông,
là một nền dân chủ thực sự rộng rãi, V.I.Lênin cho rằng, chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa được thực thi ở Nga, là một chế độ dân chủ cao hơn chế độ dân chủ tư sản.
Những biện pháp dân chủ cách mạng mà Cách mạng Tháng Mười thực hiện, đã
mở rộng một cách đáng kể nền dân chủ, quyền bình đẳng của phụ nữ và dân tộc
thiểu số được thực hiện đã làm tăng thêm số người được hưởng các quyền dân
chủ. Việc tiêu diệt đẳng cấp đã thủ tiêu được tầng lớp trung gian có đặc quyền, đặc
lợi; việc tách nhà thờ ra khỏi nhà nước và trường học đã thiết lập nguyên tắc dân
chủ của quyền tự do tín ngưỡng, v.v.. Tất cả những biện pháp này đã phát triển và
mở rộng chế độ dân chủ một cách chưa hề thấy ở một nơi nào trên thế giới, chính
là vì lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân lao động.
1.2.2. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế

Chế độ dân chủ tư sản và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đều bị quy định
bởi trình độ phát triển của kinh tế. Theo đó, chế độ dân chủ tư sản lấy sự nảy sinh,
11


tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa làm cơ sở cho sự tồn tại
của mình. Trong khi đó, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa lại lấy sự nảy sinh, tồn
tại và phát triển của sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất làm cơ sở cho sự tồn tại
của mình. Chính vì vậy sau khi ra đời, chế độ dân chủ tư sản phải được xây dựng
sao cho bảo đảm sự tồn tại, phát triển của chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và sự
thống trị của giai cấp tư sản. Ngược lại, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa phải
được xây dựng sao cho người lao động thực sự là người chủ xã hội, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Cơ sở kinh tế của chế độ dân chủ tư sản là chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất chủ yếu. V.I.Lênin đã chỉ ra cơ sở của dân chủ tư sản là chế độ
tư hữu và văn hóa tư sản: "chủ nghĩa dân chủ nguyên thủy", dựa trên cơ sở chủ
nghĩa tư bản và văn hóa tư bản chủ nghĩa, khơng phải là chủ nghĩa dân chủ nguyên
thủy của những thời nguyên thủy hoặc tiền tư bản chủ nghĩa. Văn hóa tư bản chủ
nghĩa đã tạo ra nền sản xuất lớn, những cơng xưởng, những đường sắt, bưu chính,
điện thoại, v.v.." và: Chế độ cộng hòa tư sản mà tư bản dùng để đàn áp những người
lao động, một công cụ cho quyền lực chính trị của tư bản, tức là chuyên chính tư sản.
Chế độ cộng hịa dân chủ tư sản đã hứa hẹn và đã tuyên bố chính quyền của đại đa số,
nhưng chừng nào mà chế độ tư hữu về ruộng đất và về những tư liệu sản xuất khác
vẫn cịn tồn tại, thì khơng bao giờ nó có thể thực hiện được điều đó.
Do nhìn rõ mối quan hệ giữa kinh tế và chế độ dân chủ, V.I.Lênin đã chỉ ra
rằng, muốn xóa bỏ chế độ dân chủ tư sản, một chế độ dân chủ chỉ dành cho số ít
những người hữu sản "chỉ có thể dùng cách mạng kinh tế mà thơi".
Trong khi đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu các tư liệu
sản xuất chủ yếu. C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng nêu quan niệm sự đồng nhất giữa
dân chủ và chủ nghĩa cộng sản: "đối với giai cấp công nhân, dân chủ và chủ nghĩa

cộng sản là những danh từ hoàn toàn đồng nghĩa". Chủ nghĩa cộng sản bản chất
đặc trưng là sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất.
Cả dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều dựa trên nền kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, dân chủ tư sản dựa trên nền tảng kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa, còn dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển
nhất định của văn minh nhân loại. Là một kiểu tổ chức kinh tế, kinh tế thị trường
vừa là vấn đề của lực lượng sản xuất, vừa là vấn đề của quan hệ sản xuất. Phải đạt
đến một trình độ phát triển nhất định, nền sản xuất xã hội mới thốt khỏi tình trạng
tự cung tự cấp, mới có sản phẩm dư thừa để trao đổi. Kinh tế thị trường thuộc
12


phạm trù quan hệ sản xuất, nhưng nó khơng bao giờ tự sản sinh ra một hệ thống
quan hệ sản xuất đầy đủ độc lập với các phương thức sản xuất mà trong đó nó vận
động. Nó bao giờ cũng gắn bó hữu cơ với hệ thống các quan hệ sản xuất và trao
đổi của từng thời đại kinh tế, với các quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối
của từng phương thức sản xuất trong lịch sử. Đến chủ nghĩa tư bản, kinh tế hàng
hóa giản đơn trở thành kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa, trở thành kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa.
Cả hai kiểu kinh tế thị trường này đều chịu sự tác động của cơ chế thị trường
với hệ thống các quy luật: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy
luật lưu thông tiền tệ… Đồng thời, dù là nền kinh tế thị trường ở các nước theo chế
độ dân chủ tư sản hay nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đều là các nền kinh tế
hỗn hợp, tức là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết (quản lý) của nhà nước. Tuy
nhiên, sự can thiệp của nhà nước ở các nền kinh tế là khác nhau. Khơng có nền
kinh tế thị trường thuần tuý (hoàn hảo) chỉ vận hành theo cơ chế thị trường.

Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị

trường tư bản chủ nghĩa là ở mục tiêu, phương thức, mức độ can thiệp của nhà
nước và sự can thiệp này là do bản chất của nhà nước quyết định. Nó thể hiện qua
những điểm chính là:
Về chế độ sở hữu, cơ chế thị trường trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa luôn
hoạt động trên nền tảng của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, trong đó các
cơng ty tư bản độc quyền giữ vai trị chi phối sự phát triển của tồn bộ nền kinh tế.
Còn cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa lại hoạt động
trong môi trường của sự đa dạng các quan hệ sở hữu. Trong đó chế độ cơng hữu
giữ vai trị nền tảng của nền kinh tế quốc dân, với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi trong khi phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết. Kinh tế nhà nước
phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an
ninh quốc phòng... mà các thành phần kinh tế khác khơng có điều kiện thực hiện.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, sự quản lý của nhà
nước ln mang tính chất tư sản và trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục
đích nhẳm bảo đảm mơi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai
cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Cịn trong nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, thì sự can thiệp của nhà nước xã hội chủ nghĩa
vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của tồn thể nhân dân lao
13


động, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn
minh.
Bên cạnh đó, về mối quan hệ tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng
xã hội: Vấn đề công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa chỉ
được đặt ra khi mặt trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo
ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe doạ sự tồn tại của chủ nghĩa xã hội. Trong kinh tế

thị trường xã hội chủ nghĩa, nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội không
chỉ là phương tiện phát triển nền kinh tế hàng hố mà cịn là mục tiêu của chế độ
xã hội mới.
Đặc biệt, về phân phối thu nhập, sự thành công của nền kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa không chỉ dừng lại ở mức độ tăng trưởng kinh tế mà cịn phải khơng
ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng
bình đẳng trong xã hội. Tình hình đó đặt ra cho kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
là luôn phải kết hợp hài hoà ba vấn đề sau: Một là, kết hợp vấn đề lợi nhuận và
vấn đề xã hội, đảm bảo cho các chủ thể kinh tế có được lợi nhuận cao, tạo điều
kiện kinh tế chính trị - xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. Hai là, kết
hợp chặt chẽ nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc kinh tế
hàng hoá: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng... trong đó nguyên tắc
phân phối theo lao động là chính. Ba là, điều tiết phân phối thu nhập: nhà nước
ln phải lưu ý để có chính sách giảm khoảng cách chênh lệch giữa lớp giàu và
lớp nghèo. Mặt khác, có biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng của tồn xã hội.
Trong khi đó, nhà nước tư bản chủ nghĩa dù ln ý thức tự điều chỉnh, dung
hồ lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau nhằm mục đích giảm bớt
mâu thuẫn, ổn định chính trị, ổn định xã hội, vì mục tiêu phát triển kinh tế. Song,
do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là do sự chi phối điều tiết của các quy luật
kinh tế của chủ nghĩa tư bản, lợi ích giai cấp nên sự điều tiết lợi ích vẫn cịn nhiều
bất cập. Biểu hiện rõ nhất là ở sự phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa không công bằng; phản ánh không đúng sức lao động, người lao
động hưởng ít mà các nhà tư bản hưởng nhiều.
1.2.3. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
Thứ nhất, ở phương diện xã hội, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa đều được thể hiện với tính cách là phương thức tổ chức, quản lý và hoạt
động của tổ chức và xã hội. Tuy nhiên, cách thức thực hiện, tổ chức, quản lý và
hoạt động của tổ chức và xã hội lại có sự khác nhau mang tính bản chất.

14


Khi giai cấp tư sản ra đời, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất, do các cuộc cách mạng công nghiệp đem lại, xu hướng dân chủ, tự do nảy nở
và phát triển mạnh mẽ. Tự do cá nhân, duy trì tư hữu tư sản, chạy theo lợi nhuận là
nhu cầu thiết yếu để giai cấp tư sản tự do kinh doanh, tự do mua bán sức lao động,
tự do thông thương mở rộng thị trường. Đây là cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội của
dân chủ tư sản.
Bên cạnh đó, giai cấp tư sản, trong nền dân chủ tư sản còn sử dụng phương
thức cưỡng chế, chuyên chính. Đây là một phương thức cơ bản của nhà nước tư sản
để quản lý xã hội, nhất là trong xã hội tư sản có khủng hoảng chính trị và những biến
động xã hội nghiêm trọng. Hoặc nhà nước tư sản thường kết hợp hai phương thức cơ
bản trong quản lý xã hội theo kiểu "vừa đấm vừa xoa", "cây gậy và củ cà rốt", giai
cấp tư sản, có thể sử dụng bất kỳ theo kiểu phương thức gì, miễn là đem lại hiệu quả
quản lý xã hội cho chế độ tư bản.

Trong nền dân chủ tư sản, dân chủ không phải là mục tiêu mà giai cấp tư
sản theo đuổi với ý nghĩa là đem lại tự do, bình đẳng, cơng bằng, quyền làm chủ
thật sự cho nhân dân lao động, mà chủ yếu là một phương thức, phương tiện để
duy trì, quản lý xã hội tư sản, bảo vệ quyền lợi, quyền lực thống trị của giai cấp tư
sản.
Bởi thế, các thể chế và phương thức dân chủ có những hạn chế khơng tránh
khỏi, có tính hình thức, đặc biệt là đối với giai cấp cơng nhân và nhân dân lao
động. Thí dụ, quyền bình đẳng giữa các cơng dân trong tham gia quản lý xã hội,
quản lý nhà nước, được pháp luật ghi nhận, nhưng chừng nào, người dân còn
nghèo khổ, thất nghiệp, khơng được tiếp cận thơng tin…thì thực tế họ cũng khơng
thiết gì đến dân chủ, đến tham gia quản lý xã hội. Được hưởng những phúc lợi của
tự do cá nhân trước hết là những người giàu có, khá giả, còn những người đầu tắt
mặt tối, do chạy việc làm, kiếm sống thì đó là điều xa vời, trống rỗng. Tự do báo

chí hay các thứ tự do về mặt xã hội khác được sử dụng chủ yếu bởi các tập đồn
truyền thơng khổng lồ, bởi các thế lực nắm quyền sở hữu, nắm quyền kiểm soát
các phương tiện truyền thông, và sử dụng chúng để uốn nắn, định hướng dư luận
theo ý đồ nào đó của các thế lực ấy, chứ khơng thể là của những người dân bình
thường.
Trong khi đó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa coi dân chủ là thuộc tính bản chất
của chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng xã
hội, đem lại tự do, bình đẳng thật sự, tạo mọi điều kiện để con người phát triển toàn
diện, trở thành người làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ chính bản thân
mình, là mục đích tự thân của chủ nghĩa xã hội. Do đó, đương nhiên, dân chủ là mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Mặt khác, dân chủ lại là con đường,
15


thiết chế, phương thức quan trọng đặc biệt để xây dựng, bảo vệ và phát triển xã hội xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Chỉ có thực hiện và phát huy dân chủ mới có
thể xây dựng, bảo vệ và phát triển thắng lợi chủ nghĩa xã hội. Người xưa thường nói
"dân là thứ nhất", "chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân". Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: "Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong";
đồng thời khẳng định rằng: "dân chủ là của quý bậc nhất của nhân dân"; "dân chủ là
chìa khóa vạn năng để giải quyết cơng việc". Thực hiện và phát huy dân chủ bằng
việc vận dụng đúng đắn, có hiệu quả phương thức dân chủ sẽ phát huy tốt nhất sức
mạnh sáng tạo, tích cực, chủ động của nhân dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa khơng chỉ
là bản chất, là mục tiêu mà cịn là công cụ, phương thức, động lực quan trọng để đạt
được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều là giá trị tiến bộ
xã hội, đều thừa nhận những quyền tự do, bình đẳng của cơng dân.
Các cuộc đấu tranh để giành lấy dân chủ đều dẫn đến những khả năng giải
phóng, nâng cao vị trí của con người trong lịch sử hình thành và phát triển con người

ý thức và năng lực làm chủ xã hội. Mặc dù có những khuyết tật, những hạn chế
nhưng những thành tựu của dân chủ tư sản, xét về ý nghĩa khách quan, đều mang
những tiến bộ xã hội, vì nó từng bước chuẩn bị tiến tới nền dân chủ đầy đủ, triệt để và
hoàn thiện nhất trong chủ nghĩa xã hội. Mặc dù chưa đem lại quyền lực cho đa số
người lao động, nhưng nền dân chủ tư sản vẫn cần thiết đối với tiến bộ xã hội. Nó
tích lũy và làm chín muồi ý thức dân chủ, tinh thần phản kháng mọi hiện tượng bất
công, mất dân chủ, tạo nên sự trưởng thành về chính trị, ý thức giai cấp của quần
chúng, cung cấp cho họ kinh nghiệm thực tiễn cần thiết để chuyển từ đấu tranh đòi
cải thiện dân sinh dân chủ sang đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội, tức là vì dân chủ thực
sự, triệt để nhất.

Khi phân tích dân chủ dưới góc độ là đảm bảo các quyền tự do, bình đẳng,
C.Mác đã chỉ ra rằng: Cách mạng Pháp đã đặt cơ sở cho chế độ dân chủ ở châu Âu.
Theo quan điểm của tơi chế độ dân chủ, giống như bất kể chính thể nào khác, rốt
cuộc cũng là sự mâu thuẫn ở ngay trong bản thân, cũng là sự dối trá. Tự do chính trị
là tự do giả, là chế độ nơ lệ tồi nhất; nó chỉ là cái vẻ bề ngồi của tự do, và vì thế trên
thực tế, nó là chế độ nơ lệ. Bình đẳng chính trị cũng vậy; vì thế chế độ dân chủ, giống
như tất cả mọi quản lý nào khác, cuối cùng phải tan rã; sự giả dối không thể tồn tại
lâu dài, mâu thuẫn che đậy ở trong nó tất yếu sẽ phải bộc lộ ra; hoặc là chế độ nô
lệ thực sự, tức là chế độ chuyên chế không che đậy, hoặc là tự do thực sự và bình
đẳng thực sự tức là chủ nghĩa cộng sản. Ở đây, C.Mác chỉ ra rằng, dân chủ dưới
chủ nghĩa tư bản là giả dối vì nhân dân khơng có tự do chính trị, khơng có bình

16


đẳng thật sự, chỉ khi đến chủ nghĩa cộng sản, con người mới có dân chủ đích thực,
khi các quyền tự do, bình đẳng của con người là thực sự.
Trong quá trình phát triển lý luận và chỉ đạo hoạt động thực tiễn cách mạng
ở nước Nga, V.I.Lênin cũng đã tiếp cận dân chủ từ góc độ giá trị. Theo V.I.Lênin,

dân chủ chỉ tồn tại trong hình thái nhà nước thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của
nhân dân và thừa nhận sự thống trị của đa số.
Dân chủ nói một cách cụ thể, là: 1) Bình đẳng của mọi cơng dân trước pháp
luật; 2) Tự do chính trị cho mọi công dân; 3) Quyết định theo đa số của mọi cơng
dân; 4) Quyết định bằng cách biểu quyết, đó là thực chất của dân chủ hịa bình
hoặc dân chủ thuần túy, v.v..
Một trong những nội dung hết sức quan trọng mà V.I.Lênin quan tâm chính là
dân chủ giữa các dân tộc, tơn trọng quyền tự quyết, quyền bình đẳng của các dân tộc.
Theo Người, những người mácxít coi trọng việc thừa nhận quyền bình đẳng của các
dân tộc và các ngơn ngữ khơng những vì họ là những người dân chủ triệt để mà cịn
vì lợi ích của tính đồn kết vơ sản, của sự nhất trí thân ái của cuộc đấu tranh giai cấp
của giai cấp công nhân cũng địi hỏi quyền dân tộc bình đẳng hồn tồn nhất để
loại trừ mọi sự hiềm nghi, mọi xu hướng biệt lập, mọi sự nghi kỵ, mọi sự thù hằn
nhỏ nhặt giữa các dân tộc. Với ý nghĩa là giá trị về tự do, bình đẳng, dân chủ
khơng chỉ mang bản chất giai cấp mà cịn có tính nhân loại, gắn liền với khát vọng
về tự do, bình đẳng và phản ảnh trình độ giải phóng của con người trong cuộc đấu
tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột, chống sự tha hóa.
2.1. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC
BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG XÂY
DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1.1. Thành tựu của sự vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
- Về nhận thức, qua hơn 30 năm đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã
nhận thức về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ
và sâu sắc hơn. Đó cũng là thành tựu của sự vận dụng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn
những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
Một trong những thành tựu rõ nhất của sự vận dụng này về mặt nhận thức là

Đảng ta đã cho rằng: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải vừa thể hiện
các giá trị dân chủ phổ quát của nhân loại, vừa thể hiện những giá trị đặc trưng
phản ánh bản sắc, đặc điểm văn hóa, truyền thống của Việt Nam; có nội dung cốt
17


lõi là tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của
nhân dân, gắn với trách nhiệm và nghĩa vụ công dân nhằm tạo ra ngày càng đầy đủ
những điều kiện cho sự giải phóng mọi năng lực sáng tạo của con người, gắn liền
với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó nhân dân là
chủ thể của các thiết chế chính trị và Nhà nước theo đúng nguyên lý chủ quyền
nhân dân (được quy định trong Hiến pháp năm 2013).
Đảng ta cũng nhận thức và vận dụng ngày càng đầy đủ hơn về tất yếu khách
quan phải đẩy mạnh phát triển các hình thức và phương thức thực hiện dân chủ, nhất
là các hình thức dân chủ trực tiếp. Để các quyền dân chủ được thực hiện trong cuộc
sống, các quyền đó phải được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật và được thực
hành bằng những chế định tương ứng của Nhà nước và các giá trị xã hội. Trong đó,
dân chủ và pháp luật, dân chủ và kỷ cương không loại trừ, phủ định nhau, mà trái lại,
chúng nằm trong sự thống nhất biện chứng, là điều kiện, tiền đề phát triển của nhau.
Khơng thể có dân chủ mà thiếu pháp luật, kỷ luật, kỷ cương. Nhận thức rõ hơn dân
chủ trong Đảng có ý nghĩa quyết định đối với phát triển dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của cả hệ thống chính trị, gắn với dân chủ hóa tồn bộ đời sống xã hội.
Đại hội VI của Đảng (1986) đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử trong việc phát
huy dân chủ để tạo ra một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước. Đây là
những nội dung rất quan trọng trong nhận thức về bản chất, phương thức thực hiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Từ đây, quan niệm về
dân chủ đã gắn liền với tư tưởng "dân là chủ", "dân làm chủ", nội dung cốt lõi của
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác định là xây dựng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân lao động. Đã có bước phát triển khá rõ trong nhận thức lý luận
về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Dân chủ được đặt trong tương

quan với Nhà nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa; đồng thời dân chủ phải gắn với
những điều kiện để thực hiện như kinh tế, văn hóa, xã hội. Từ Đại hội VI, thuật
ngữ "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" được sử dụng rộng rãi với việc cụ
thể hóa nội dung, mở rộng quyền dân chủ của công dân, thu hút, khuyến khích
nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước, xã hội.

- Về thực tiễn, thành tựu vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa được xem xét trên một số lĩnh
vực cơ bản là chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội.
Trên lĩnh vực chính trị: Trong quá trình vận dụng đúng đắn những điểm
tương đồng giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, học hỏi kinh nghiệm
và những ưu điểm của dân chủ tư sản trong lĩnh vực chính trị, qua hơn 30 năm đổi
mới ở nước ta, dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức nhà nước, đoàn thể và xã

18


hội, trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan dân cử được mở rộng và có những
bước tiến mới.
Hệ thống chính trị đã có đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động theo
hướng dân chủ hóa. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được
khẳng định và thúc đẩy mạnh mẽ. Hơn 30 năm qua, nước ta đã hai lần lập hiến (ban
hành Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013), ba lần sửa đổi Hiến pháp (năm
1988, 1989 sửa đổi Hiến pháp năm 1980, năm 2001 sửa đổi Hiến pháp năm 1992); số
luật, pháp lệnh được ban hành tăng gấp gần 8 lần so với số luật, pháp lệnh được ban
hành trong 41 năm trước đổi mới. Quốc hội đã ban hành các luật về tổ chức nhà
nước, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Tiếp
cận thông tin... là những luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân trên
lĩnh vực chính trị.
Quyền bầu cử, ứng cử với nguyên tắc phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ

phiếu kín được bảo đảm. Trong bầu cử đã có ứng cử tự do và số dư đã tăng lên đáng
kể để cử tri có điều kiện lựa chọn. Vai trị của Quốc hội được khẳng định, hoạt động
đã đi vào thực chất và thực quyền hơn; phương pháp làm việc, hình thức sinh hoạt
của Quốc hội đã dân chủ hơn. Việc phân công, phân cấp nhiệm vụ, thẩm quyền, trách
nhiệm giữa các bộ, ngành, giữa Chính phủ và chính quyền các cấp đã được đẩy mạnh
theo hướng cụ thể hoá nhiệm vụ, chức năng, tăng quyền chủ động, tự chủ cho địa
phương, cơ sở, tăng trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đồng thời bảo đảm
sự quản lý tập trung, thống nhất, thông suốt, hiệu quả và phục vụ ngày càng tốt
hơn nhu cầu, lợi ích của nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Các cơ
quan Toà án, Viện kiểm sát được củng cố và kiện toàn một bước, cơng tác xét xử
có tiến bộ; những oan, sai được sửa chữa, bồi thường theo quy định của pháp luật.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đẩy mạnh việc đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng dân chủ. Việc giám sát, phản
biện đã được xây dựng thành các cơ chế cụ thể.
Trên lĩnh vực kinh tế: Điểm nổi bật thể hiện sự vận dụng điểm tương đồng và
khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta qua hơn 30 năm
đổi mới là đường lối xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức
kinh doanh, hình thức phân phối, bình đẳng trước pháp luật, hoạt động theo pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, tạo nên điều kiện nền tảng
cho việc thực hành và phát huy dân chủ.

Trong hơn 30 năm kể từ khi đổi mới đất nước đến nay, Nhà nước đã ban
hành Hiến pháp và nhiều đạo luật về kinh tế để tạo hành lang pháp lý cho sự vận
hành của nền kinh tế nhiều thành phần và cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Thể
19


chế kinh tế thị trường được hình thành và từng bước hoàn thiện đã tạo điều kiện
huy động các nguồn lực trong nhân dân, nhất là phát huy tính tích cực của các chủ

thể kinh tế, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế. Một trong những bước tiến quan trọng là thay chế định
các thành phần kinh tế, các đơn vị kinh tế và mọi người dân chỉ "được quyền kinh
doanh những gì pháp luật cho phép" bằng chế định "có quyền được tự do kinh
doanh những gì mà pháp luật khơng cấm"... Đó thực chất là việc trao quyền và tạo
điều kiện cho nhân dân làm chủ về kinh tế. Tính chủ động, sáng tạo trong sản xuất
kinh doanh của người dân ngày càng được phát huy. Tinh thần dân chủ, công khai,
minh bạch trong hoạt động kinh tế ngày càng được thể hiện rõ hơn.
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Qua hơn 30 năm đổi mới, dân chủ trong lĩnh
vực văn hóa - xã hội đã được mở rộng và nâng lên một bước. Nhiều văn bản pháp
luật đã cụ thể hóa các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp hơn với điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên tắc mọi cơng dân đều bình đẳng trước
pháp luật được luật hóa và từng bước đi vào cuộc sống. Quyền tự do tín ngưỡng,
tơn giáo và tự do khơng tín ngưỡng, tơn giáo, sự bình đẳng của các tơn giáo trước
pháp luật được cụ thể hóa. Cơng bằng, bình đẳng xã hội có những bước tiến rõ rệt.
Nước ta đã có nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm các quyền con người, quyền
cơng dân. Việc hồn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân
được triển khai đồng bộ và xuyên suốt trong chương trình xây dựng Luật, pháp
lệnh của Quốc hội và các chính sách, cơ chế nhằm triển khai các Luật và văn bản
luật này trên thực tế. Nhà nước sử dụng Hiến pháp như là một trong những công
cụ quan trọng hàng đầu để bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Hiến pháp năm 2013 đã dành một vị trí trang trọng ở chương II quy định về quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơng dân.
2.1.2. Hạn chế trong q trình vận dụng những điểm tương đồng và
khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
- Về nhận thức: Trong quá trình vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhận thức và nghiên cứu lý luận về
bản chất của dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
vẫn chưa đầy đủ và hệ thống, chưa lý giải và làm sáng tỏ nhiều vấn đề do thực tiễn

đặt ra; chưa đạt được nhiều kết quả có giá trị định hướng, mang tính đột phá cho
q trình đổi mới, xây dựng và phát huy dân chủ. Trên thực tế, cịn có những nhận
thức phiến diện, khơng đầy đủ, không đúng về dân chủ, coi dân chủ là những giá
trị tuyệt đối phi lịch sử, phi thực tiễn... hoặc có những nhận thức sai lệch cho rằng
20


dân chủ là những giá trị "tự do" khơng có giới hạn, khơng bị hạn chế bởi luật
pháp, bởi trình độ phát triển cụ thể....
Mặt khác, quan điểm về dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa được nghiên cứu và
nhận thức sâu sắc, đầy đủ. Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên và nhân dân còn hạn chế, nhất là về mối quan hệ giữa quyền, quyền lợi, nghĩa
vụ và trách nhiệm của mỗi tổ chức, mỗi cá nhân trong xã hội. Đồng thời, nhận
thức chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, chưa toàn diện về nguyên tắc cơ bản nhất, cốt lõi
nhất để xây dựng và phát huy dân chủ: "Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân
dân làm chủ" là nhằm thực hiện ý nguyện, quyền và lợi ích chính đáng của nhân
dân.
- Về thực tiễn: Trong vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực tiễn xây dựng và phát huy nền
dân chủ ở Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu kém, bất cập.
Trên lĩnh vực chính trị: Dân chủ trong Đảng đóng vai trị quyết định chi
phối và lan tỏa dân chủ trong hệ thống chính trị và trong tồn xã hội, song có nơi,
có lúc dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện đầy đủ, vẫn còn tình trạng dân chủ
hình thức. Nguyên tắc "tập trung dân chủ", "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách"
trên thực tế ở khơng ít nơi rơi vào hình thức, bị lợi dụng dẫn tới hiện tượng hoặc
dân chủ quá trớn, hoặc chuyên quyền độc đoán, thiếu hoặc đùn đẩy trách nhiệm...
Ngun tắc phân cơng, phối hợp, kiểm sốt của ba nhánh quyền lực (lập pháp,
hành pháp, tư pháp) chưa rõ ràng, chưa có cơ chế để giám sát, kiểm tra hiệu quả dẫn
tới nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn nhiều khiếm khuyết; nội dung, mức độ, phương
thức của việc phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa ba cơ quan nhà nước là gì, vẫn cịn

lúng túng. Do vậy, tình trạng đùn đẩy trách nhiệm trong hoạt động của bộ máy nhà
nước vẫn diễn ra. Do không xác định được ai là chủ thể nên không quy được trách
nhiệm chính thuộc về ai khi có vấn đề xảy ra tổn hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích của
nhân dân. Đây cũng là nguyên nhân dẫn tới tình trạng cán bộ làm liều, không sợ
trách nhiệm, "nhờn" với cơ chế phân cơng, phối hợp, kiểm sốt.

Mặt khác, quy trình làm luật, chính sách ở Việt Nam vẫn cịn tình trạng
thiếu sự tham gia của các chủ thể hưởng lợi từ chính sách. Dự thảo luật, chính
sách chủ yếu do các bộ, ngành xây dựng, sự tham gia của các nhà khoa học, tổ
chức đồn thể, của Nhân dân cịn chưa nhiều. Khi Quốc hội đưa dự thảo luật ra lấy
ý kiến đóng góp của các đối tượng nêu trên thì sự tham gia, khả năng tham gia của
họ, nhất là của nhân dân cịn nhiều hạn chế. Từ đó dẫn đến hệ quả, một số luật,
chính sách được ban hành nhưng không phản ánh đúng ý nguyện của nhân dân,
khơng được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
21


Trên lĩnh vực kinh tế: Một là, sự bình đẳng (dân chủ) giữa các thành phần
kinh tế trong tiếp cận các nguồn lực như: tín dụng, thị trường, đất đai, khoa học
cơng nghệ, sự hỗ trợ của Chính phủ… vẫn chưa được coi trọng đúng mức. Kinh tế
tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi thường gặp khó khăn hơn so với kinh tế
nhà nước trong tiếp cận các nguồn lực trên. Mặt khác, thể chế kinh tế thị trường
cịn thiếu đồng bộ. Cơng tác quản lý nhà nước về kinh tế còn nhiều khuyết điểm.
Việc đổi mới, phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể còn nhiều hạn chế.
Nhiều nguồn lực, tiềm năng về vật chất và tinh thần để phát triển kinh tế trong các
tầng lớp nhân dân chưa được khai thác, phát huy một cách hiệu quả. Tăng trưởng
của nền kinh tế vẫn ở mức dưới tiềm năng, hiệu quả và chất lượng tăng trưởng
thấp, sức cạnh tranh của nền kinh tế cịn kém. Tính tự phát, tuỳ tiện trong sản xuất,
kinh doanh vẫn còn phổ biến. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, cơ cấu đầu tư
chưa hợp lý, còn phân tán và lãng phí. Doanh nghiệp nhà nước, trong đó có nhiều

tập đồn kinh tế và tổng cơng ty nhà nước chưa thể hiện được đầy đủ vai trò là lực
lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước; hoạt động sản xuất, kinh doanh kém hiệu
quả, gây nhiều lãng phí, thất thốt. Kinh tế tập thể cịn nhiều mặt yếu kém kéo dài.
Doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là quy mơ nhỏ. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi chưa đáp ứng mục tiêu, yêu cầu chuyển giao công nghệ, nhất là cơng nghệ
cao, cơng nghệ nguồn và trình độ quản lý tiên tiến...
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Văn hóa chưa đủ sức tác động, chi phối, điều
chỉnh hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội theo hướng dân chủ, công bằng, văn minh,
hiện đại. Một số giá trị văn hố đạo đức suy giảm; mê tín, hủ tục phát triển. Việc bảo
tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được
ngăn chặn. Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các
cấp cịn nhiều hạn chế, bất cập. Một số cơ quan báo chí, xuất bản, văn học, nghệ thuật
chưa thực hiện đúng tơn chỉ, mục đích. Trong sáng tác, biểu diễn, truyền bá văn học,
nghệ thuật còn nhiều sai sót, lệch lạc cả về hình thức và nội dung tư tưởng. Đời sống
văn hóa tinh thần ở nhiều nơi cịn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn
hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và giữa các tầng lớp nhân dân chậm
được rút ngắn. Lối sống thực dụng, coi thường kỷ cương phép nước, bất chấp pháp
luật, đạo đức xã hội, sống xa hoa, buông thả, hời hợt, vô cảm, vô trách nhiệm của một
bộ phận cán bộ, nhân dân, nhất là lớp trẻ đang là vấn đề nhức nhối xã hội.

Những hạn chế trong sự vận dụng điểm tương đồng và khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong q trình xây dựng và hồn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay có thể được lý giải từ những
nguyên nhân cơ bản sau:

22


Một là, Việt Nam thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từ một xã hội tiền tư
bản. Nước ta thực hiện quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng từng bước nền dân

chủ xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ xuất phát điểm là một xã hội
thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất còn rất thấp lại bị chiến tranh tàn phá
kéo dài. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới những hạn chế trong vận dụng
sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa vào xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Hai là, thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà nước chưa đạt hiệu quả
cao nên ảnh hưởng đến thực hành dân chủ trong xã hội.
Ba là, trình độ dân trí chưa cao, các điều kiện để thực hành dân chủ cịn rất
thiếu và yếu, chưa có ý thức pháp luật cũng có ảnh hưởng quan trọng đến thực
hành dân chủ.
3.1. GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC VẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG
VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.1. Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm rõ những nội dung
cần vận dụng từ những kinh nghiệm xây dựng nền dân chủ của các quốc gia
trên thế giới
Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa; kinh nghiệm xây dựng nền dân chủ của các
quốc gia trên thế giới nhằm vận dụng đúng đắn, đầy đủ hơn vào công cuộc xây
dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đánh giá khách quan thành tựu dân chủ tư sản, tính chất, trình độ dân chủ
xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là cơ sở
khoa học để tiếp thu có chọn lọc các giá trị dân chủ của nhân loại được biểu hiện ở
chủ nghĩa tư bản. Việt Nam không tiếp thu bản chất giai cấp của dân chủ tư sản,
nhưng tiếp thu, học tập các hình thức thực hiện để đảm bảo quyền lực nhà nước
thực sự thuộc về nhân dân.
Trong quá trình xây dựng đất nước, chúng ta đã và đang vận dụng những
kinh nghiệm thực hành dân chủ ở các nước trên thế giới. Có thể nói, dù dân chủ ở

đâu và thời gian nào thì vẫn nổi lên những kinh nghiệm quý báu mà Việt Nam cần
vận dụng: Một là, dân là người chủ thực sự của quyền lực nhà nước. Hai là, người
cầm quyền phải có trí tuệ cao. Ba là, dân ủy quyền (có giới hạn) cho các cán bộ
chứ khơng mất quyền. Dân có quyền chọn lọc và bãi miễn cán bộ nếu không đáp
ứng được yêu cầu, cán bộ nhà nước là công bộc phục vụ dân chứ không phải kẻ
đứng trên cai trị, chăn dắt dân. Cơ quan quyền lực nhà nước phải phục vụ dân, vì
23


dân và do dân. Bốn là, chế độ dân chủ hướng vào bảo vệ các quyền tự nhiên của
cả cộng đồng cũng như của từng cá nhân, như quyền được sống, quyền được lao
động, được học hành, được sống trong công bằng, được luật pháp bảo vệ… Năm
là, quyền lực nhà nước phải bị kiểm soát chặt chẽ theo hai loại thể chế: Quyền lực
nhà nước kiểm soát quyền lực nhà nước và nhân dân kiểm soát quyền lực nhà
nước. Sáu là, lợi ích và quyền lực của dân là cái chi phối đời sống xã hội, dần dần
phải được luật hóa. Cơ quan và cán bộ nhà nước chỉ được làm những gì theo luật
định, cịn dân có thể làm tất cả những gì mà luật khơng cấm.
Trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, cần phân biệt dân chủ xã hội
chủ nghĩa với tư cách là chế độ dân chủ đầy đủ của chế độ xã hội chủ nghĩa đã
phát triển tương đối toàn diện với dân chủ trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Đây là hai trình độ phát triển khác nhau của xã hội, với các đặc điểm kinh tế,
chính trị, văn hóa xã hội khác nhau. Do đó, đặc điểm, tính chất, hình thức thực
hiện cũng khác nhau. Trong thời kỳ quá độ, nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu
khác nhau, cơ cấu xã hội, quan hệ giai cấp đa dạng, phức tạp; từ đó cũng dẫn đến
sự đa dạng về nhu cầu dân chủ.
3.1.2. Xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa tạo ra cơ sở kinh tế vững chắc cho xây dựng dân chủ xã hội chủ
nghĩa
Kinh tế thị trường là sản phẩm trí tuệ của nhân loại trong quá trình tìm kiếm
mơ hình phát triển kinh tế nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất, kinh

doanh. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong ba trụ cột cơ
bản của thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay (cùng với nhà nước
pháp quyền và các tổ chức xã hội tự nguyện, hợp pháp của nhân dân). Để tiếp tục
xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, Việt Nam cần phải thực hiện một
số giải pháp:
Một là, thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức
sở hữu, thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, loại hình doanh
nghiệp trong nền kinh tế. Xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các tài
sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu… quy định rõ, quyền trách nhiệm
của các chủ sở hữu đối với xã hội.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, thực hiện nhất quán chính sách
phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu
thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị

24


trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sử hữu, nhiều
thành phần kinh tế.
Thể chế môi trường kinh doanh cũng như thể chế kinh tế nói chung chỉ phát
huy tác dụng có hiệu quả khi tạo được sự đổi mới triệt để nhận thức đúng đắn của
xã hội về vai trò quan trọng của thể chế. Đồng thời, xây dựng và hoàn thiện thể
chế phải được tiến hành đồng bộ cả ba khâu: thứ nhất, ban hành văn bản, quy định
của thể chế; thứ hai, xây dựng cơ chế vận hành, thực thi thể chế trong hoạt động
kinh doanh cụ thể; thứ ba, hoàn thiện tổ chức bộ máy theo dõi, giám sát việc thi
hành thể chế, xử lý vi phạm và tranh chấp trong thực thi thể chế. Trong khi triển
khai đồng bộ thể chế môi trường kinh doanh, phải tập trung cải cách hành chính,
từ bộ máy hành chính đến thủ tục hành chính. Thắng lợi của cải cách hành chính
sẽ nhanh chóng thúc đẩy cải thiện nhiều về môi trường kinh doanh.

Ba là, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Sớm
hình thành việc rà sốt, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh doanh
phù hợp với Việt Nam. Trong điều kiện hiện nay, để hồn thiện thể chế mơi trường
kinh doanh dân chủ, cần tập trung khắc phục thực trạng yếu kém của một số văn
bản luật pháp. Đổi mới, hoàn thiện các quy định về giá, cạnh tranh, kiểm soát độc
quyền, về ký kết, thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp. Thực hiện nhất
quán cơ chế giá trị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
3.1.3. Xây dựng, hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân được xem là bước ngoặt quan trọng cả trên phương diện nhận thức và
thực tiễn xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong
thời gian tới, việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân, trong sạch, vững mạnh sẽ là một trong những giải pháp vừa có
tính cấp bách vừa có tính chiến lược để tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển nhận
thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần chú ý
nhận thức và giải quyết có hiệu quả một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc
hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện tốt chức
năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao
đối với hoạt động của Nhà nước.
25


×