Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại ngân hàng TMCP Sài Gòn - Chi nhánh An Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 49 trang )

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 26 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà

CHƯƠNG 4
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI NGÂN
HÀNG TMCP SÀI GÒN CHI NHÁNH AN GIANG

4.1. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH VỐN HUY ĐỘNG (C)
4.1.1. Phân tích khái quát cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng Thương
mại cổ phần chi nhánh An Giang
Cơ cấu nguồn vốn của các NHTM thường gồm: vốn huy động, vốn điều
chuyển, vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, và vốn khác. Tuy nhiên, SCB An Giang là
chi nhánh của một NHTMCP nên không có vốn điều lệ, nguồn vốn hoạt động
chủ yếu là vốn huy động, vốn điều chuyển và một phần nhỏ vốn và các quỹ. Bất
cứ một Ngân hàng nào muốn phát triển bền vững cũng cần phải có một cơ cấu
vốn hợp lý và thật sự phù hợp với với phương châm, định hướng phát triển của
chính ngân hàng đó. Tất nhiên là, Ngân hàng nào cũng mong muốn nguồn vốn
chủ yếu của mình là vốn huy động và SCB An Giang cũng không ngoại lệ.


Qua bảng 01, ta thấy nguồn vốn tại SCB An Giang tăng rất cao qua 3 năm
2006-2008. Bắt đầu hoạt động từ tháng 06 năm 2006 nên nguồn vốn của SCB tại
thời điểm này khá thấp, chỉ 31.500 triệu đồng. Tuy nhiên, nguồn vốn này đã tăng
trưởng mạnh mẽ vào năm 2007, đạt 350.236,6 triệu đồng tăng 318.736,6 triệu
Bảng 01: CƠ CẤU NGUỒN VỐN CỦA SCB AN GIANG QUA 3 NĂM 2006-2008
Đvt: Triệu đồng
2007/2006 2008/2007
Chỉ tiêu 2006 2007 2008
Số tiền % Số tiền %
1.Nguồn VHĐ 21.791,1 104.807,2 148.186 83.016,1 381 43.378,8 41
2.Vốn điều chuyển 9.681,6 243.193,4 173.584,6 233.511,8 2.412 -69.608,8 -29


3.Vốn và các quỹ 27,3 2.236 5.629,7 2.208,7 8.090 3.393,7 152
Tổng nguồn vốn 31.500 350.236,6 327.400,3 318.736,6 1.012 -22.836,3 -7
(Nguồn: Phòng kế toán SCB An Giang)
www.kinhtehoc.net

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 27 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
đồng so với năm 2006 về tuyệt đối còn về mặt tương đối tăng 1.012%. Điều này
đã đánh dấu sự trưởng thành của SCB An Giang sau hơn một năm hoạt động,
SCB An Giang đã có vị trí vững chắc trong lòng khách hàng tại An Giang nói
chung và tại thành phố Long Xuyên nói riêng. Đánh dấu một năm 2008 đầy biến
động, SCB An Giang vẫn phát triển khá ổn định, trong đó nguồn vốn chỉ giảm
nhẹ khoảng 7% so với năm 2007. Điều này đã nói lên, hiệu quả trong hoạt động
cũng như điều hành tại ngân hàng.
Nguồn vốn huy động
Nguồn vốn huy động tại NHTMCP Sài Gòn – Chi nhánh An Giang có
tăng trưởng mạnh qua các năm. Năm 2006, vốn huy động đạt khá thấp khoảng
21.791,1 triệu đồng. Nguyên nhân là do Ngân hàng mới thành lập khách hàng
chưa biết nhiều đến SCB. Do vây, họ chưa tin tưởng và gởi tiền vào SCB An
Giang. Thêm vào đó, An Giang là thị trường hoạt động lâu năm của nhiều Ngân
hàng lớn như Agribank, Á Châu, Sacombank, Công Thương,…Các Ngân hàng
này có nhiều kinh nghiệm trên thị trường này, mặc khác họ có một khối lượng
lớn khách hàng thân thiết và rất khó chia sẻ. Nhận thức được khó khăn này, SCB
An Giang đã đưa ra nhiều chính sách nhằm tập trung tìm hiểu rõ nhu cầu của
từng loại khách hàng khác nhau để từ đó có những chương trình, chính sách
giành riêng cho từng đối tượng khách hàng. Ngoài ra, SCB An Giang nhận thấy
chất lượng phục vụ chiếm vai trò rất quan trọng trong viêc giữ khách hàng cũ và
thu hút nhiều khách hàng mới. Chính vì thế, mục tiêu hàng đầu và phải thực hiện
ngay là nâng cao chất lượng phục vụ. SCB An Giang đã cử nhiều cán bộ tham
gia các khóa học nâng cao trình độ nghiệp vụ, tìm hiểu tâm lý khách hàng để

từng bước nâng cao chất lượng phục vụ góp phần thỏa mãn tối đa nhu cầu của
khách hàng. Chính vì thế, vốn huy động trong năm 2007 đã tăng lên đáng kể đạt
104.807,2 triệu đồng, tăng 83.016,1 triệu đồng so với năm 2006, tức là tăng
381% về tương đối. Mặc dù, có những biến động mạnh mẽ của nền kinh tế trong
nước và cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ trong năm 2008 nhưng tình hình huy
động vốn của SCB An Giang vẫn tăng ổn định, tăng hơn 43.378,8 triệu đồng so
với năm 2007 về tuyệt đối, tức là tăng 41% về tương đối. Nguyên nhân là do,
SCB đã có những chính sách hợp lý trong việc huy động vốn. Ngoài việc, duy trì
lãi suất cạnh tranh SCB còn luôn có những sản phẩm và chương trình khuyến
www.kinhtehoc.net

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 28 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
mãi nhằm mang lại lợi nhuận cao nhất cho khách hàng. Đặc biệt là sản phẩm tiền
gửi “Lạm phát vẫn có lãi” chưa từng có tại Việt Nam, với cam kết đảm bảo
Khách hàng có mức lãi suất tiết kiệm luôn cao hơn mức lạm phát trong mọi tình
huống. Chính vì thế, SCB An Giang đã thu hút rất nhiều đối tượng khách hàng
đến gửi tiền.
Vốn điều chuyển
Nguồn vốn điều chuyển của SCB An Giang tăng giảm không ổn định qua
các năm. Năm 2006, vốn điều chuyển đạt 9.681,6 triệu đồng và trong năm 2007
vốn điều chuyển tăng lên với số lượng rất lớn tăng hơn 233.511,8 triệu đồng so
với năm 2006, tức tăng khoảng 2.412%. Điều này cho thấy, nguồn vốn huy động
tại Ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu đi vay của khách hàng. Nguyên nhân là
do chi nhánh mới thành lập, thị phần trên địa bàn chiếm số lượng nhỏ, nguồn vốn
huy động chưa nhiều nên Hội Sở phải chuyển xuống để phục vụ cho hoạt động
của chi nhánh. Tuy nhiên, điều này cũng nói lên khả năng huy động vốn tại chỗ
của chi nhánh còn nhiều hạn chế, mặc dù nó đã tăng đáng kể so với 2006, 381%.
Vốn điều chuyển trong năm 2008 đạt 173.584,6 triệu đồng, giảm 29% so với năm
2007. Điều này cho thấy nguồn vốn huy động sẵn có đáp ứng cho nhu cầu đi vay

tăng lên. Ta thấy, trong năm 2008 tình hình kinh tế rất biến động và rất trì trệ,
ảnh hưởng khá lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cũng
như nguời dân. Do đó, nhu cầu đi vay của các doanh nghiệp giảm rất nhiều đặc
biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Ngoài ra, những tháng đầu năm 2008,
do ảnh hưởng của tình hình lạm phát nên lãi suất cho vay tăng rất cao. Điều này
cũng dẫn đến nhu cầu đi vay giảm khá nhiều trong năm 2008.
Vốn và các quỹ
Vốn và các quỹ tại SCB An Giang chủ yếu hình thành từ lợi nhuận trước
thuế. Ta thấy, vốn và quỹ của SCB An Giang tăng mạnh qua các năm. vốn và các
quỹ trong năm 2006 chiếm rất thấp 27.3 triệu đồng. Nguyên nhân là do chi nhánh
mới thành lập thị phần ít, doanh số cho vay thấp trong khi đó chi phí cho các hoạt
động tại chi nhánh lại rất cao. Từ đó mà dẫn đến lợi nhuận đạt được rất thấp. Vốn
và các quỹ trong năm 2007 tăng lên 8.090% so với năm 2006, tức tăng 2.208,7
triệu đồng về tuyệt đối. Điều này đã nói lên hoạt động của Chi nhánh đã đi vào
ổn định, vốn huy động cũng như doanh số cho vay đều tăng cao so với năm
www.kinhtehoc.net

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 29 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
trước. Nguồn vốn này tiếp tục tăng mạnh trong năm 2008, đạt hơn 5.629,7 triệu
đồng, tăng 152% so với năm 2007. Nguyên nhân là do SCB An Giang đang từng
bước phát triển và dần hoàn thiện mình trên thị trường. SCB An Giang đã chiếm
được lòng tin của khách hàng nhờ hiệu quả hoạt động quả trị, chất lượng phục vụ
và luôn là người bạn đồng hành của khách hàng ngay cả những hoàn cảnh khó
khăn nhất.

21,791.10
9,681.60
27.30
104,807.20

243,193.40
2,236.00
148,186.00
173,584.60
5,629.70
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
%
2006 2007 2008
Năm
1.Nguồn VHĐ 2. Vốn điều chuyển 3.Vốn và các quỹ

Hình 01: CƠ CẤU NGUỒN VỐN QUA 3 NĂM 2006-2008

Dựa vào hình 01, ta thấy trong năm 2006 nguồn vốn huy động tại SCB An
Giang chiếm hơn 69%, trong khi đó vốn điều chuyển khoảng 30,7%, còn vốn và
các quỹ chỉ chiếm tỷ trọng khá thấp, 0.09% so với tổng nguồn vốn. Tỷ số này là
khá hợp lý vì bất cứ một ngân hàng nào cũng điều mong muốn vốn huy động
chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn. Tuy nhiên, xét về mặt giá trị thì, vốn
huy động trong năm 2006 chỉ gần 21,8 tỷ, rất thấp. Ngoài ra, vốn và các quỹ của
ngân hàng chiếm tỷ trọng rất thấp, Ngân hàng cần có những biện pháp tích cực

nhằm nâng cao cả về mặt giá trị lẫn tỷ trọng của vốn và các quỹ bởi vì nguồn vốn
này chủ yếu hình thành từ lợi nhuận trước thuế. Tuy nhiên, đây là năm đầu tiên
Ngân hàng hoạt động trên địa bàn An Giang nên hoạt động có lãi là một điều rất
đáng khích lệ. Nhận thức được điều này, Ngân hàng đã nhiều chương trình
khuyến mãi, và sử dụng các chính sách Marketing hữu hiệu để khách hàng biết
đến SCB An Giang và tin tưởng vào SCB An Giang. Kết quả là, trong năm 2007
xét về mặt giá trị thì vốn huy động, vốn điều chuyển, vốn và các quỹ tăng lên rất
www.kinhtehoc.net

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 30 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
đáng kể. Tuy nhiên, cơ cấu nguồn vốn không được hợp lý lắm trong đó vốn huy
động, vốn và các quỹ chỉ chiếm tỷ trọng khá thấp 29,9% và 0,6%, còn vốn điều
chuyển chiếm tỷ trọng 69,4%, rất cao. Nguyên nhân là do trong năm 2007 tốc độ
phát triển kinh tế của Việt Nam khá cao, Long xuyên lại là một thanh phố trẻ,
năng động và đang từng bước phát triển mạnh mẽ đặc biệt là trong lĩnh vực công
nghiệp. Do vậy, nhu cầu vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, tiêu dùng của
người dân tăng cao. Trong khi đó, vốn huy động tại chỗ lại không đáp ứng đủ vì
vậy mà cần sự điều chuyển vốn từ Hội sở để đảm bảo hiệu quả kinh doanh tại chi
nhánh. Tuy nhiên,vốn huy động chiếm tỷ trọng thấp so với tổng nguồn vốn thể
hiện rủi ro của ngân hàng tăng cao, đặc biệt là rủi ro thanh khoản tại ngân hàng.
Năm 2008, tỷ lệ vốn huy động trên tổng nguồn vốn tăng lên, chiếm hơn 45,2%.
Điều này đã thể hiện hiệu quả trong việc huy động vốn và cân đối giữa vốn huy
động và cho vay tại Ngân hàng. Vốn điều chuyển cũng vẫn chiếm khá cao
khoảng 53% so với tổng nguồn vốn. Vốn và các quỹ chiếm tỷ trọng ngày càng
tăng so với tổng nguồn vốn, chiếm hơn 1.7% năm 2008. Điều này đã thể hiện,
hiệu quả hoạt động tại ngân hàng ngày càng tăng, lợi nhuận tăng liên tục sau 3
năm hoạt động.
Nhìn chung, qua cơ cấu nguồn vốn của NHTM cổ phần Sài Gòn, ta có thể
đưa ra nhận xét sơ bộ là Chi nhánh đang trên đà phát triển và ổn định. Chi nhánh

đã có những chính sách huy động vốn tích cực góp phần làm cho tổng nguồn vốn
của ngân hàng tăng rất cao so với năm đầu tiên hoạt động, giúp cho hoạt động tín
dụng đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên, SCB An Giang cần thúc đẩy công tác huy
động vốn trong các năm tới để góp phần nâng cao tỷ trọng của vốn huy động trên
tổng nguồn vốn. Có như vậy hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng mới bền vững.
4.1.2. Phân tích tình hình huy động vốn qua 3 năm 2006-2008 tại SCB
An Giang.
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu để các ngân hàng hoạt động. Nó
được hình thành bằng nhiều nguồn khác nhau như huy động từ tiền nhàn rỗi
trong dân chúng và các doanh nghiệp, từ các tổ chức kinh tế, hoặc phát hành giấy
tờ có giá. Vì thế, nghiệp vụ huy động vốn có vai trò quan trọng trong việc tạo
vốn đầu tư và phát triển kinh tế, đây là nhiệm vụ không thể thiếu trong hoạt động
của ngân hàng. Hiện nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình cạnh
www.kinhtehoc.net

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 31 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
tranh của các ngân hàng ngày càng gay gắt, công tác huy động vốn tại ngân hàng
gặp nhiều khó khăn hơn vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Lãi suất huy
động, thu nhập của các tầng lớp dân cư, uy tín của ngân hàng, tốc độ phát triển
kinh tế địa phương,… Chính vì vậy, NHTM cổ phần Sài Gòn - Chi nhánh An
Giang đánh giá cao vai trò của hoạt động huy động vốn, bởi sự tăng trưởng của
nguồn vốn luôn là thước đo tầm vốc và uy tín của ngân hàng.
Hình 02: TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN TẠI SCB AN GIANG QUA 3
NĂM 2006-2008

Từ hình 02 ta thấy, tình hình huy động vốn tại SCB An Giang tăng đều
qua các năm từ hơn 21,7 tỷ đồng trong năm 2006 tăng lên 148.185,9 triệu đồng
trong năm 2008. Với phương châm “SCB luôn hướng đến sự hoàn thiện vì Khách
hàng”, SCB An Giang đã ra sức tăng cường công tác huy động vốn bằng cách

đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau, tăng cường tiền gửi có kỳ hạn và
không kỳ hạn từ các tổ chức kinh tế, cá nhân để đáp ứng tối đa nhu cầu của
khách hàng. Ngoài ra, SCB An Giang cũng ra sức tăng cường công tác tiếp thị,
áp dụng chính sách khách hàng, chú trọng tăng cường theo xu hướng lãi suất hấp
dẫn, đa dạng, phục vụ khách hàng nhanh gọn, văn minh, lịch sự nhằm tìm kiếm
thêm những khách hàng mới.
21,791.20
104,807.20
148,185.90
0.00
20,000.00
40,000.00
60,000.00
80,000.00
100,000.00
120,000.00
140,000.00
160,000.00
Triệu đồng
2006 2007 2008
Năm
www.kinhtehoc.net





Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 32 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà


















(Nguồn: Phòng kế toán SCB An Giang)
Bảng 02 : TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN QUA 3 NĂM 2006-2008
Đvt: Triệu đồng
2007/2006 2008/2007
Chỉ tiêu 2006 2007 2008
Số tiền % Số tiền %
I. Tiền gửi của TCTD
0 10.594,4 2.519,8 10.594,4 - -8.074,6 -76,2
II. Tiền gửi của khách hàng
21.791,2 94.212,8 135.663,2 72.421,6 332,3 51.453,4 54,6
1. TG thanh toán
8.928,7 15.809,4 12.680,1 6.880,7 77,1 -3.129,3 -19,8
- Không kỳ hạn 8.368,7 11.209,4 10.801,4 2.840,7 33,9 -408,0 -3,6
- Có kỳ hạn 560,0 4.600,0 1.878,7 4.040,0 721,4 -2,721.3 -59,2

2. TG tiết kiệm
12.772 74.750,6 122.878,3 61.978,6 485,3 48.127,7 64,4
- Không kỳ hạn 284,9 289,0 22,1 4,1 1,4 -266,9 -92,3
- Có kỳ hạn 12.487,1 74.461,6 122.856,2 61.974,5 496,3 48.394,6 65,0
3. Tiền ký quỹ
90,5 3.652,8 104,8 3.562,3 3.936,2 -3.548,0 -97,1
III. Phát hành GTCG
0 0 10.003,0 0 - 10.003,0 -
Tổng vốn huy động 21.791,2 104.807,2 148.186,0 83.016,0 381,0 43.378,8 41,0
www.kinhtehoc.net

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 33 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
Tổng nguồn vốn huy động tại NHTM cổ phần Sài Gòn tăng mạnh qua các
năm. Năm 2007, vốn huy động đạt 104.807,2 triệu đồng, tăng khoảng 381% so
với năm 2006. Năm 2008 cũng đánh dấu sự tăng mạnh của vốn huy động, tăng
43.378,8 triệu đồng so với 2007, tức tăng 41% về tương đối. Nguyên nhân là do:
Tiền gửi của các tổ chức tín dụng trong nước
Đánh dấu một năm 2006 hoạt động tương đối ổn định và khá hiệu quả tại
địa bàn tỉnh An Giang, SCB An Giang đã tạo được sự tin cậy của các TCTD
trong khu vưc nhờ vậy mà trong năm 2007 nguồn vốn huy động từ các TCTD
trong nước đạt gần 10.594,4 triệu đồng. Tuy nhiên, do năm 2008 là một năm đầy
biến động trong hoạt động của các TCTD nên nguồn huy động này đã giảm
xuống 8.074,6 triệu đồng, tức là giảm 76,2% so với năm 2007.
Tiền gửi của khách hàng
Tiền gửi của khách hàng tại SCB An Giang bao gồm tiền gửi của các tổ
chức kinh tế, cá nhân trong tỉnh An Giang và một vài tỉnh lân cận như Cần Thơ,
Kiên Giang,… Từ bảng 02 ta thấy tiền gửi của khách hàng trong năm 2006 đạt
21.791,2 triệu đồng và có xu hướng tăng mạnh trong năm 2007. Năm 2007, loại
tiền gửi này tăng 72.421,6 triệu đồng so với năm 2006, xét về mặt tuyệt đối, tức

tăng 332,3% về mặt tương đối. Năm 2008 cũng đánh dấu sự tăng mạnh của tiền
gửi khách hàng, tăng 54,6%, tức là nó tăng 61.453,4 tỷ đồng so với năm 2007.
Nguyên nhân là do:
- Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán là loại tiền gửi dùng để đáp ứng cho nhu cầu thanh
toán của các tổ chức kinh tế, đặc biệt là thanh toán qua Ngân hàng. Ngoài ra, nó
còn đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng tức thời của người dân. Loại tiền gửi này tăng
giảm không điều qua các năm. Đầu tiên, đạt 8.928,7 triệu đồng trong năm 2006,
rất thấp. Nguyên nhân là do, chi nhánh mới thành lập chưa được sự tin tưởng của
người dân và doanh nghiệp. Nhưng nhờ những chính sách đúng đắn của ban
Giám đốc, đặc biệt là tập trung vào đối tượng là các tổ chức kinh tế đang hoạt
động tại thành phố Long Xuyên và các vùng lân cận với lãi suất khá hấp dẫn,
cộng với cung cách phục vụ nhanh gọn, lịch sự đã tạo được lòng tin nơi khách
hàng. Kết quả là năm 2007, tiền gửi thanh toán tăng lên 77,1% trong đó tiền gửi
không kỳ hạn tăng lên 33,9% và tiền gửi có kỳ hạn tăng lên đáng kể 721.4% so
www.kinhtehoc.net

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 34 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
với năm 2006, mặc dù tiền gửi có kỳ hạn tăng lên rất nhiều tuy nhiên nó chiếm
tỷ trọng rất nhỏ trong tiền gửi thanh toán. Nên nhìn chung không ảnh hưởng lớn
đến tiền gửi thanh toán.
Năm 2008, tiền gửi thanh toán giảm 3,129,3 triệu đồng, tức là giảm 19,8%
so với năm 2007, trong đó, tiền gửi không kỳ hạn giảm với số lượng rất thấp
3,6%, còn tiền gửi có kỳ hạn giảm với lượng lớn hơn 59% so với năm 2007.
Nguyên nhân là do trong năm 2008, tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam có
nhiều biến động, do đó nó ảnh hưởng rất lớn đối với các doanh nghiệp. Ta thấy,
khủng hoảng tài chính Mỹ đã lây lan tới hầu hết các nước trong năm 2008, điều
này đã ảnh hưởng khá lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, sản
xuất bị trì trệ, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Kết quả là nhu cầu

thanh toán qua ngân hàng của các tổ chức kinh tế giảm xuống.
- Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm tại NHTM cổ phần Sài Gòn chi nhánh An Giang tăng
lên đáng kể qua 3 năm 2006-2008. Năm 2006 tiền gửi tiết kiệm đạt 12.772 triệu
đồng. Năm 2007 đánh dấu một sự tăng mạnh của tiền gửi tiết kiện tại SCB An
Giang. Loại tiền gửi này về mặt tuyệt đối tăng 61.978,6 triệu đồng so với năm
2006, tức là tăng lên 485% về mặt tương đối. Và nó lại tiếp tực tăng trong năm
2008, đến cuối năm 2008 tiền gửi tiết kiệm đạt 122,.878,3 triệu đồng tăng hơn
64% so với năm 2007. Nguyên nhân là do:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
Tiền gửi tiết kiện không kỳ hạn tại SCB An Giang có xu hướng giảm qua
3 năm 2006-2008. Trong năm 2007 loại tiền gửi này có xu hướng tăng nhẹ, đạt
289 triệu đồng tăng hơn 1,4% so với năm 2006. Mặc dù, nền kinh tế Việt Nam
tăng rất mạnh trong năm 2007 nhưng loại tiền gửi này tăng rất nhẹ nguyên nhân
là do SCB không có nhiều chính sách thu hút loại tiền gửi này, SCB An Giang
tập trung thu hút tiền gửi có kỳ hạn nên khách hàng gửi tiền tiết kiệm có kỳ hạn
vẫn có thể rút vốn trước hạn chỉ trừ những chương trình khuyến mãi quy định rõ
không rút vốn trước hạn. Đôi khi có nhiều chương trình khách hàng được rút vốn
trước hạn và lãi suất nhận được cao hơn lãi suất không kỳ hạn. Chẳng hạn như,
khách hàng gửi tiết kiệm kỳ hạn linh hoạt ba tháng nhưng mới có một tháng
khách hàng rút ra thì khi đó lãi suất khách hàng nhận được là lãi suất tiền gửi tiết
www.kinhtehoc.net

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 35 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
kiệm kỳ hạn một tháng. Điều này đã tạo thuận lợi rất lớn cho đối tượng khách
hàng có món tiền lớn nhưng không xác định rõ được nhu cầu sử dụng trong thời
gian sắp tới. Kết quả là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn năm 2008 tại SCB An
Giang giảm mạnh, giảm 266,9 triệu đồng, tức giảm hơn 92,3% so với năm 2007.
Tuy nhiên, do loại tiền gửi này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số tiền gửi tiết

kiệm nên nó ảnh hưởng không đáng kể.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn

Đây là loại tiền gửi chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tiền gửi tiết
kiệm tại SCB An Giang. Loại tiền gửi này có xu hướng tăng mạnh qua 3 năm
2006-2008. Năm 2006 tổng số tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn đạt 12.487,1 triệu
đồng và bắt đầu tăng mạnh trong năm 2007. Năm 2007, tiền gửi tiết kiệm có kỳ
hạn tăng 61.974,5 triệu đồng so với năm 2006 về tuyệt đối, tức là nó tăng 496,3%
về tương đối. Điều này đã thể hiện hiệu quả trong huy động vốn tài SCB An
Giang. Nguyên nhân là do Ngân hàng đã chủ động nâng lãi suất lên cao để thu
hút được nhiều tiền gửi. Ngân hàng còn áp dụng tiền gửi đa dạng với nhiều kỳ
hạn khác nhau như 1 tuần, 2 tuần, 3 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9
tháng, 12 tháng và trên 12 tháng với lãi suất linh hoạt cho từng kỳ hạn. Ngoài ra,
SCB cò có các sản phẩm dành cho các đối tượng khách nhau và có những chính
sách ưu đãi đặc biệt như sản phẩm tiền gửi tiết kiệm “Tích lũy hưu trí” dành cho
người trên 50 tuổi với lãi suất cộng thêm là 0,6%/năm, “Tiền gửi tiết kiệm tích
lũy học” đối tượng tham gia chủ yếu là học sinh, sinh viên với nhiều quà tặng
hấp dẫn cho những ngày đặc biệt như 01/06, tốt nghiệp các cấp, trúng tuyển đại
học,…cùng với phong cách phục vụ văn minh, lịch sự chu đáo, thuận tiện, tạo
được tâm lý an toàn cho khách hàng.
Năm 2008 cả thế giới phải đối diện với rất nhiều thăng trầm về kinh tế và
Việt Nam cũng bị ảnh hưởng rất nhiều. Tất cả các Ngân hàng cũng như Doanh
nghiệp Việt Nam phải đối diện và vượt qua những khó khăn để tồn tại và đứng
vững trên thị trường. Được sự chỉ thị của Hội sở, SCB An Giang luôn đồng hành
cùng khách hàng để vượt qua giai đọan khó khăn chung của đất nước bằng
những chính sách ưu đãi vượt trội. Ngoài việc duy trì lãi suất cạnh tranh SCB còn
luôn có những sản phẩm và chương trình khuyến mãi nhằm mang lại lợi ích cao
nhất cho Khách hàng như: Sản phẩm tiền gửi “Lạm phát vẫn có lãi”, với cam kết
www.kinhtehoc.net


Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 36 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
đảm bảo Khách hàng có mức lãi suất tiết kiệm luôn cao hơn mức lạm phát trong
mọi tình huống; sản phẩm “Tiết kiệm đảm bảo bằng Vàng”, “Gửi tiền ngay – quà
trao tay”, “Hoán đổi lãi suất – Kéo dài kỳ hạn”. Đặc biệt, SCB luôn có chính
sách tri ân đối với Khách hàng cao tuổi. Theo đó, từ tháng 7/2008, hàng tháng
SCB (Hội sở) chi thêm 30 đến 50 tỷ đồng để bù đắp lãi suất trước biến động lạm
phát cho khách hàng từ 50 tuổi tham gia gửi tiền. Khi đó, khách hàng từ 50 tuổi
trở gửi tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn tại SCB An Giang sẽ được cộng thêm lãi suất
là 0,6%/năm. Kết quả là, tiền gửi tiết kiệm tại SCB An Giang tăng 65% so với
năm 2007, tức là tăng gần 48.394,7 triệu đồng về mặt tuyệt đối.
- Tiền ký quỹ
Tiền ký quỹ chiếm tỷ trọng rất thấp trong tiền gửi của khách hàng và nó
có xu hướng tăng giảm không ổn định qua 3 năm 2006-2008. Năm 2006, tiền ký
quỹ tại SCB An Giang rất thấp khoảng 90,5 triệu đồng. Nguyên nhân là do Chi
nhánh mới bắt đầu hoạt động nên một số khách hàng chưa biết đến Ngân hàng
TMCP Sài Gòn –Chi nhánh cũng như là chưa nắm rõ đầy đủ các nghiệp vụ tại
Ngân hàng. Ngoài ra, trên địa bàn An Giang có rất nhiều ngân hàng có nhiều
kinh nghiệm về các nghiệp vụ có tiền ký quỹ như ký quỹ mở L/C, ký quỹ thanh
toán,…… Năm 2007, tiền ký quỹ của SCB tăng lên khá cao, tăng 3.562,3 triệu
đồng so với năm 2006 tức tăng khoảng 3.936,2% về mặt tương đối. Nguyên nhân
là do tình hình phát triển kinh tế khá ổn định nên nhu cầu thanh toán của các
doanh nghiệp tăng cao. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của tình hình kinh tế trong
nước và thế giới năm 2008 tiền ký quỹ đã giảm xuống một cách đáng kể chỉ còn
104,8 triệu đồng, giảm 97,1% so với 2007.
Bên cạnh tiền gửi của các tổ chức tổ tín dụng, tổ chức kinh tế và dân cư là
nguồn huy động chính, thì ngân hàng cũng tìm cách tăng vốn huy động bằng
cách phát hành giấy tờ có giá. Trong năm 2008, SCB An Giang đã huy động hơn
10 tỷ đồng nhờ phát hành giấy tờ có giá.
4.1.2.1. Phân loại vốn huy động theo thời gian

Nếu phân loại tình hình huy động vốn theo thời gian thì có thể chia vốn
huy động thành hai loại tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn. Trong đó,
tiền gửi có kỳ hạn bao gồm các khoản tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế,
www.kinhtehoc.net

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 37 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn của cá nhân,… Tiền gửi này đóng vai trò quan trọng.
Nó quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Tiền gửi không kỳ hạn bao gồm: tiền gửi thanh toán các tổ chức kinh tế,
cá nhân,… Đây loại tiền gửi không ổn định. Nó thường được các tổ chức kinh tế
sử dụng để thuận tiện cho việc thanh toán. Nó chiếm tỷ trọng không cao trong
nguồn vốn huy động của Ngân hàng.


Hình 03: HUY ĐỘNG VỐN THEO THỜI GIAN QUA 3 NĂM 2006-2008

Nhìn chung ba năm qua 2006-2008, mặc dù vốn huy động không ngừng
tăng lên nhưng nguồn vốn huy động còn rất thấp so với nhu cầu sử dụng vốn.
Tuy nhiên dựa vào hình 03 ta, tiền gửi có kỳ hạn luôn chiếm tỷ trọng rất cao
trong tổng vốn huy động và không ngừng tăng lên qua các năm. Cụ thể, trong
năm 2006, tiền gửi có kỳ hạn chiếm 60% so với tổng vốn huy động, đến năm
2007 tỷ trọng này tăng lên 79% và đạt tỷ trọng cao trong năm 2008, 91%.
Nguyên nhân là do Ngân hàng đã chủ động nâng lãi suất lên cao để thu hút được
nhiều tiền gửi và khách hàng mới. Ngân hàng còn áp dụng tiền gửi đa dạng với
nhiều kỳ hạn khác nhau. Ngoài ra, SCB còn có các sản phẩm độc đáo dành cho
các đối tượng riêng biệt và có những chính sách ưu đãi đặc biệt. Điều này đã nói
lên hiệu quả trong huy động vốn của SCB An Giang. Tiền gửi có kỳ hạn là loại
tiền gửi rất ổn định, nó sẽ giúp cho Ngân hàng thuận tiện trong việc sử dụng.


2006
60%
40%
2007
79%
21%
2008
91%
9%
Có kỳ hạn Không kỳ hạn
www.kinhtehoc.net

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 38 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
4.1.2.2. Phân loại vốn huy động theo đối tượng
Như các NHTM khác, hoạt động kinh doanh chủ yếu của SCB An Giang
là dựa vào nguồn vốn huy động. Trong điều kiện tăng trưởng kinh tế, nhu cầu về
vốn của các cá nhân cũng như các tổ chức kinh tế ngày càng tăng cao và trở nên
bức thiết thì việc ngân hàng phát huy tốt công tác huy động vốn không những
góp phần mở rộng kinh doanh, tăng cường vốn cho nền kinh tế mà còn gia tăng
lợi nhuận cho ngân hàng, góp phần ổn định nguồn vốn, giảm tối đa việc sử dụng
vốn từ Hội sở. Trong thời gian qua, để từng bước tự chủ nguồn vốn phục vụ cho
nền kinh tế nói chung và phục vụ cho việc phát triển kinh tế trên địa bàn nói
riêng, SCB An Giang đã ra sức tăng cường công tác huy động vốn bằng cách đưa
ra nhiều hình thức huy động, tăng cường tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn từ
các tổ chức kinh tế, cá nhân.


Hình 04: HUY ĐỘNG VỐN THEO ĐỐI TƯỢNG TẠI SCB AN GIANG


Dựa vào hình 04, ta có thể nói tình hình huy động vốn tại SCB An Giang
khá hiệu quả trong 3 năm 2006-2008. Vốn huy động của Chi nhánh chủ yếu hình
thành từ tiền gửi của cá nhân, nó có xu hướng tăng mạnh qua các năm. Năm
2006, loại tiền gửi chỉ 61% trên tổng vốn huy động, năm 2007 tăng lên 72% và
tiếp tực tăng lên trong năm 2008, đạt 87%. Đây là loại tiền gửi rất ổn định vì đặc
2007
10%
72%
18%
2006
0 %
3 9 %
6 1%
2008
2%
11%
87%
Tổ chức tín dụng Tổ chức kinh tế Cá nhân
www.kinhtehoc.net

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 39 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
điểm tiền gửi của cá nhân là món tiền có giá trị thấp nhưng số lượng gửi thì cao
do đó không ảnh hưởng nhiều đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Nguyên
nhân của sự tăng mạnh này là do hiệu quả trong chính sách huy động vốn của
Hội sở nói chung và của chi nhánh SCB An Giang nói riêng. Ngân hàng đã có
những sản phẩm huy động vốn thật độc đáo, đáp ứng các nhu cầu riêng biệt của
từng khách hàng khác nhau.
Tỷ trọng vốn huy động từ tiền gửi của các tổ chức kinh tế kinh tế trên tổng
vốn huy động tai SCB An Giang từ 2006 đến 2008 có xu hướng giảm qua các

năm. Trong năm 2006 tỷ trọng của nguồn vốn này so với tổng vốn huy động
chiếm tỷ lệ khá cao 39%. Tuy nhiên, trong năm 2007 tỷ trọng này lại xuống thấp
khoảng 18% và tiếp tục giảm trong năm 2008, đạt 11%. Tuy nhiên, tỷ trọng này
giảm đã thể hiện sự hợp lý trong huy động vốn của SCB An Giang, khi đó khả
năng thanh toán của SCB được đảm bảo bởi vì đặc điểm của loại tiền gửi này là
giá trị của món tiền gửi rất lớn song song đó nhu cầu sử dụng vốn của các tổ
chức kinh tế lại rất cao, thường xuyên và khó dự đoán trước. Do đó để đảm bảo
khả năng thanh toán, Ngân hàng đã đưa ra một số quy định trong việc rút tiền của
các TCKT như TCKT nào muốn rút ra món tiền giá trị trên 1 tỷ thì phải thông
báo cho Ngân hàng trước 3 ngày, còn món tiền trên 500 triệu thì phải thông báo
trước một ngày.
Bên cạnh đó, tiền gửi của các tổ chức tín dụng cũng đóng vai trò quan
trọng. Nó đảm bảo các dịch vụ thanh toán qua ngân hàngn được thực hiện một
cách dễ dàng và nhanh chóng, kịp thời đáp ứng nhu cầu của khách hàng như
thuận tiện cho việc chi trả tiền hàng, việc thanh toán không dùng tiền mặt,… Ta
thấy, trong năm 2007 tiền gửi của các tổ chức kinh tế trên tổng vốn huy động
chiếm tỷ trọng khá lớn hơn 10%, quá cao. Đây là loại tiền gửi không ổn đinh, nó
có thể được rút ra bất kỳ lúc nào nên ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân
hàng nếu nó chiếm tỷ trọng cao trên tổng nguồn vốn. Tuy nhiên, trong năm 2008
tỷ trọng này đã giảm xuống rất thấp khoảng 2% trên vốn huy động. Tỷ số này
khá hợp lý, nó vừa đảm bảo hiệu quả hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng,
vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang.
Tóm lại, qua 3 năm từ 2006 đến 2008 mặc dù vốn huy động tại chi nhánh
không ngừng tăng lên nhưng vẫn còn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng nguồn vốn
www.kinhtehoc.net

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 40 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
của ngân hàng. Do đó ngân hàng cần phải đề ra các chính sách huy động vốn thật
hiệu quả để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư nhiều hơn nhằm nâng cao cả về

mặt giá trị lẫn tỷ trọng của loại tiền gửi này vì đây là nguồn vốn rất ổn định góp
phần rất lớn vào hiệu quả hoạt động của SCB An Giang.
4.2. PHÂN TÍCH TÀI SẢN CÓ CỦA NGÂN HÀNG (A)
4.2.1. Phân tích về tốc độ tăng trưởng và kết cấu tài sản
4.2.1.1 Tốc độ tăng trưởng tài sản Có
Tài sản có là phần sử dụng nguồn vốn vào kinh doanh và duy trì khả năng
thanh toán của một ngân hàng. Chất lượng tài sản có là chỉ tiêu tổng hợp nói lên
khả năng bền vững về mặt tài chính, khả năng sinh lời, khả năng quản lý. Do đó
tốc độ tăng giảm của tài sản Có qua các năm có vai trò rất quan trọng trong việc
đánh giá mức độ tăng trưởng của ngân hàng.
Hình 05: TỐC ĐỘ TĂNG CỦA TÀI SẢN CÓ TẠI SCB AN GIANG

Dựa vào hình trên, ta có thể thấy đựơc tốc độ tăng của tổng tài sản Có qua
3 năm 2006-2008 tại SCB An Giang một cách trực quan. Nhìn chung, tổng tài
sản của SCB An Giang tăng rất cao qua 3 năm. Bắt đầu đi vào hoạt động tháng
06/2006 nên đến cuối năm tổng tài sản của Chi nhánh rất thấp, 31,5 tỷ đồng. Tuy
nhiên, năm 2007 tốc độ tăng của tài sản có rất cao, đạt hơn 350,236 triệu đồng
tăng hơn 318.736 triệu đồng so với năm 2006, tức tăng khoảng 1.012% về tương
đối. Năm 2008, đánh dấu một sự giảm nhẹ trong tổng tài sản Có tại SCB An
Giang, trong năm này tài sản Có giảm 6%, giảm 21,178.5 triệu đồng so với năm
31,500.00
350,236.60
327,400.30
0.00
50,000.00
100,000.00
150,000.00
200,000.00
250,000.00
300,000.00

350,000.00
400,000.00
2006 2007 2008
Năm
Triệu đồng
www.kinhtehoc.net

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 41 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
2007 (số liệu này lấy từ bảng 03 phân tích cơ cấu tài sản Có qua 3 năm 2006-
2008 tại SCB An Giang)
Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng tổng tài sản của SCB An Giang rất cao
qua 3 năm 2006-2008. Nguyên nhân là do Chi nhánh không ngừng nâng cao quy
mô hoạt động. Tính đến năm 2008, SCB An Giang đã mở 2 Phòng giao dịch
mới: Phòng giao dịch Châu Đốc (2007), Phòng giao dịch Mỹ Phước (2008).
Ngoài ra, SCB An Giang còn nâng cao doanh số cho vay, đa dạng hóa các sản
phẩm dịch vụ để phục vụ tối đa nhu cầu khách hàng. Tuy nhiên, để thấy rõ tốc độ
tăng của tổng tài sản ta sẽ đi sâu phân tích cơ cấu tài sản của SCB An Giang.
4.2.1.2 Cơ cấu tài sản Có
Như phân tích ở trên, tổng tài sản tăng rất cao qua 3 năm 2006-2008. Vậy
sự tăng trưởng đó là do các chỉ tiêu nào và tốc độ tăng của nó là bao nhiêu? Để
hiểu rõ vấn đề này ta hãy xem bảng 03 ở phía dưới.
Theo số liệu ở bảng 03, ta thấy khoản mục cho vay khách hàng chiếm tỷ
trọng rất lớn trong tổng tài sản Có và tốc tộ tăng của khoản mục này cũng khá
cao trong 3 năm 2006-2008. Đây là khoản mục đóng vai trò quan trọng quyết
định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Trong năm 2006, cho
vay khách hàng chiếm 76,9% so với tổng tài sản, đạt 24.236,1 triệu đồng và có
xu hướng tăng mạnh trong năm 2007 cả về mặt tỷ trọng và giá trị. Theo đó, cho
vay khách hàng năm 2007 tăng 305.829,5 triệu đồng về mặt tuyệt đối so với năm
2006, tức tăng 1,262% về tương đối. Trong năm này tỷ trọng cho vay khách hàng

cũng chiếm rất cao trong tổng tài sản, khoảng 94,2%. Tuy nhiên, đến cuối năm
2008 cho vay khách hàng có sự giảm nhẹ cả về mặt giá trị cũng như tỷ trọng.
Xét về mặt giá trị giảm 8,6% so với năm 2007, tương ứng giảm 28,421 triệu
đồng, còn về mặt tỷ trọng tài sản này chiếm 91,7% so với tổng tài sản.
Để đảm bảo hiệu quả kinh doanh mà vẫn đáp ứng khả năng thanh toán,
SCB An Giang luôn duy trì một lượng tiền ổn định tại quỹ và tiền gửi tại NHNN.
Trong 3 năm 2006-2008, tỷ trọng tiền mặt tại quỹ trên tổng tài sản luôn được duy
trì dưới 1%. Xét về mặt giá trị thì tiền mặt tại quỹ đã có sự tăng mạnh vào năm
2007. Trong năm này tiền mặt tai quỹ đạt 3.623,8 triệu đồng tăng khoảng 1.918%
so với năm 2006. Tuy nhiên, nó lại giảm khá nhanh trong năm 2008, giảm
1.919,8 triệu đồng, tức giảm 53% so với năm 2007. Năm 2006, do mới bắt đầu
www.kinhtehoc.net

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 42 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
hoạt động nên có thể rủi ro trong thanh toán rất cao, Ngân hàng đã thực hiện
chính sách, duy trì một lượng tiền đủ lớn và ổn định để đáp ứng cho nhu cầu
thanh toán của khách hàng. Do đó, tỷ trọng của tiền gửi tại NHNN trên tổng tài
sản rất cao, 17,1%. Các năm sau, tình hình hoạt động đã ổn định nên tỷ trọng này
đã giảm xuống thấp 1% (2007) và 3,3% (2008). Trái ngược với tiền mặt tại quỹ,
tiền gửi tại NHNN lại giảm khá mạnh trong năm 2007 và tăng nhanh trong năm
2008, xét về mặt giá trị. Năm 2007 tiền gửi tại NHNN đạt 3.509,8 triệu đồng,
giảm 35% so với năm 2006. Năm 2008 thì loại tiền gửi này tăng 204%, tức
khoảng 1.470,3 triệu đồng. Tuy nhiên, nhìn chung tỷ trọng tài sản tại quỹ và tiền
gửi tại NHNN tại SCB An Giang khá hợp lý, nó vừa có thể đảm bảo khả năng
thanh toán vừa có thể đảm bảo hiệu quả tại Chi nhánh.
Ngoài ra, cơ cấu tài sản cố định có xu hướng ổn định qua 3 năm. Năm
2006, tỷ trọng của tài sản này chiếm 3.5% so với tổng tài sản, và nó có xu hướng
giảm xuống trong năm 2007, đạt 2.6%. Tuy nhiên, năm 2008 nó lại tăng lên, với
tốc độ tăng gần bằng tốc độ giảm trong năm 2007, cuối cùng đạt 3.6% trong năm

2008. Tài sản có khác cũng chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng tài sản luôn nhỏ
hơn hoặc bằng 1,5%. Nhìn chung, tỷ trọng này có xu hướng giảm qua 3 năm,
1.5% (2006), 0,6% (2007), 0.8% (2008). Xét về mặt giá trị thì 2 loại tài sản này
đều tăng mạnh qua các năm, đặc biệt là trong năm 2007. Trong năm này, tài sản
cố định đạt 8.932,3 triệu đồng, tăng 709% so với năm 2006, và tiếp tục tăng
trong năm 2008, tăng 2.780,8 triệu đồng, khoảng 31,1% so với năm 2007.
Nguyên nhân là do SCB An Giang không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động.
Tính đến 2008, SCB An Giang đã mở hai Phòng giao dịch. Điều này kéo theo
việc xây dựng thêm nhiều trụ sở nên tài sản cố định có xu hướng tăng lên. Tài
sản có khác cũng có tốc độ tăng không kém. Năm 2007 tăng 316% về tương đối,
tức tăng khoảng 1.444,3 triệu đồng so với năm 2006 về tuyệt đối và lại tiếp tục
tăng mạnh trong năm kế tiếp. Năm 2008, tài sản có khác đạt 2.595,2 triệu đồng,
tăng hơn 36,5% so với năm 2007.
www.kinhtehoc.net





Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 43 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà

Bảng 03: PHÂN TÍCH CƠ CẤU TÀI SẢN CÓ QUA 3 NĂM 2006-2008 TẠI SCB AN GIANG

Đvt: Triệu đồng
2006 2007 2008 2007/2006 2008/2007
Chỉ tiêu
Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền %
1. Tiền mặt tại quỹ 179,6 0,6 3.623,8 1,0 1.704,0 0,5 3.444,2 1.918 -1.919,8 -53,0
2. Tiền gửi tại NHNN 5.383,4 17,1 3.509,8 1,0 10.668,4 3,3 -1.873,6 -35 7.158,6 204,0

3. Tiền gửi tại TCTD 139,5 0,4 2.203,1 0,6 732,8 0,3 2.063,6 1.479 -1.470,3 -66,7
4. Cho vay khách hàng 24.236,1 76,9 330.065,6 94,2 301.644,6 91,7 305.829,5 1.262 -28.421,0 -8,6
5. Tài sản cố định 1.103,7 3,5 8.932,3 2,6 11.713,1 3,6 7.828,6 709 2.780,8 31,1
6. Tài sản có khác 457,7 1,5 1.902,0 0,6 2.595,2 0,8 1.444,3 316 693,2 36,5
Tài sản sinh lời
24.375,6 77,3 332.268,7 94,8 302.377,4 92,0 307.893,1 1.263 -29.891,3 -9,0
Tài sản không sinh lời
7.124,4 23,7 17.967,9 5,2 26.680,7 8,0 10.843,5 152 8.721,8 48,5
TỔNG TÀI SẢN 31.500,0 100,0 350.236,6 100,0 329.058,1 100,0 318.736,6 1.012 -21.178,5 -6,0
(Nguồn: Phòng kế toán SCB An Giang)
www.kinhtehoc.net

Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB An Giang
GVHD: Th.S Hứa Thanh Xuân 44 SVTH: Tăng Bảo Phương Hà
Để đánh giá một cách chính xác hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SCB
An Giang, ta chia tài sản Có tại Chi nhánh thành hai loại: Tài sản sinh lời và tài
sản không sinh lời. Trong đó tài sản sinh lời đóng vai trò quyết định đến hiệu quả
hoạt động kinh doanh, nó đem lại thu nhập chính cho Chi nhánh. Tỷ trọng tài sản
sinh lời và tài sản không sinh lời được thể hiên ở hình dưới đây:














Hình 06: CƠ CẤU TÀI SẢN CÓ QUA 3 NĂM 2006-2008

Tỷ trọng tài sản sinh lời và không sinh lời có mối quan hệ tỷ lệ nghịch
nhau. Nếu tỷ trọng tài sản sinh lời tăng thì tất nhiên tỷ trọng của tài sản kia sẽ
giảm và ngược lại. Qua 3 năm, tỷ trọng tài sản sinh lời có xu hướng tăng và
chiếm tỷ trọng rất cao trong cơ cấu tổng tài sản. Năm 2007, tài sản sinh lời tăng
rất cao đạt 332.268,7 triệu đồng, tăng 307.893,1 triệu đồng so với năm 2006, tức
tăng khoảng 1.263% về tương đối. Trong khi đó, tài sản không sinh lời tăng với
tốc độ chậm hơn, tăng 152%, tức tăng 10.843,5 triệu đồng so với năm 2006 về
tuyệt đối. Kết quả là tỷ trọng của tài sản sinh lời trong cơ cấu tài sản tăng lên đạt
94,9% trong năm 2007. Nguyên nhân của việc tăng tỷ trọng tài sản sinh lời bắt
nguồn từ sự tăng mạnh của tỷ trọng cho vay trong năm 2007.
Tuy nhiên, năm 2008 lại có sự thay đổi ngược lại. Trong năm này, tài sản
sinh lời giảm 9% so với năm 2007. Trong khi đó, tài sản không sinh lời lại tăng
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
2006 2007 2008
Năm
%

Tài sản sinh lời Tài sản không sinh lời
23.6
76.4
5.1
94.9
8.1
91.9
www.kinhtehoc.net

×