Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (956.74 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ HỊA BÌNH

TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ HỊA BÌNH

TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ


Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tơi dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Tiến sĩ Phạm Minh Tuyên. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và có
nguồn gốc rõ ràng. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất
cả nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 09 năm 2020
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đỗ Thị Hòa Bình


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Học viện Khoa học xã hội,
Phòng Quản lý Đào tạo, Khoa Luật, các giảng viên giảng dạy các học phần
cho chuyên ngành Luật Hình sự và tố tụng hình sự - những người đã dành cho
tôi nhiều chỉ dẫn khoa học quý báu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Phạm Minh Tuyên,
người trực tiếp hướng dẫn và ln tận tình chỉ dẫn tơi trong q trình thực
hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai, các đồng chí lãnh đạo và thẩm phán của Tịa án nhân dân thành phố Biên
Hịa, gia đình, bạn bè đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tơi
trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.

Do điều kiện về thời gian và khả năng có hạn, chắc chắn luận văn khơng
tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định, tơi rất mong nhận được những
ý kiến góp ý quý báu của các chuyên gia, các nhà khoa học, các giảng viên và
các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Chân thành cảm ơn!

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 09 năm 2020
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đỗ Thị Hòa Bình


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY............. 8
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội tàng trữ trái phép chất ma
túy ...................................................................................................................... 8
1.2. Các dấu hiệu pháp lý và hình phạt của tội tàng trữ trái phép chất ma
túy .................................................................................................................... 15
1.3. Khái quát lịch sử phát triển quy định về tội tàng trữ trái phép chất ma
túy qua các giai đoạn ....................................................................................... 18
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TỘI TÀNG
TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,
TỈNH ĐỒNG NAI ......................................................................................... 29
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của thành phố Biên Hòa và
cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ..... 29
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ................................................................ 32
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG

PHÁP LUẬT VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ........ 52
3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về tội tàng trữ trái phép chất
ma túy .............................................................................................................. 52
3.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về tội tàng trữ trái
phép chất ma túy ............................................................................................. 57
KẾT LUẬN ................................................................................................ 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 68


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự
CHXHCNVN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
TAND: Tịa án nhân dân
TTHS: Tố tụng hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Bảng thống kê thực trạng tội phạm về ma túy so với tình hình
tội phạm chung trên địa bàn thành phố Biên Hòa (giai đoạn 2015-2019).
Bảng 2.2. Bảng thống kê thực trạng Tội tàng trữ trái phép chất ma túy so
với tình hình tội phạm chung trên địa bàn thành phố Biên Hòa (giai đoạn
2015-2019).
Bảng 2.3. Bảng thống kê số lượng bị cáo bị xét xử theo các khoản của
Tội tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa (giai đoạn
2015-2019).
Bảng 2.4. Bảng thống kê các hình phạt áp dụng đối với Tội tàng trữ trái
phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa (giai đoạn 2015-2019).



PHỤ LỤC CÁC BẢN ÁN

1. Bản án số 479/2018/HSST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân
thành phố Biên Hòa đối với Hoàng Đức T.
2. Bản án số 491/2018/HSST ngày 31/11/2018 của Tòa án nhân dân
thành phố Biên Hòa đối với Nguyễn Văn B.
3. Bản án số 576/2019/HSST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân
thành phố Biên Hòa đối với Phạm Quang H.
4. Bản án số 183/2018/HS-ST ngày 12/6/2018 của Tòa án nhân dân
thành phố Biên Hòa đối với Nguyễn Hữu P.
5. Bản án số 434/2019/HS-ST ngày 23/9/2019 của Tòa án nhân dân
thành phố Biên Hòa đối với Lê Hồng T.
6. Bản án số 480/2018/HS-ST ngày 28/12/2018 của Tòa án nhân dân
thành phố Biên Hòa đối với Nguyễn Văn T.


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tệ nạn ma túy đã và đang trở thành mối đe dọa, hiểm họa rất lớn đối với tất
cả các quốc gia, dân tộc. Nó gây tác hại rất lớn về sức khỏe, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến việc phát triển kinh tế, ổn định chính trị, trật tự, an tồn xã hội, làm
suy thối về giống nịi, băng hoại đạo đức, lối sống và phá hoại hạnh phúc gia
đình. Đồng thời, nó cũng là một trong các nguyên nhân làm phát sinh và gia
tăng nhanh chóng các loại tội phạm như trộm cắp, cướp của giết người, cưỡng
đoạt tài sản, gây rối trật tự cơng cộng… và là ngun nhân chính dẫn đến căn
bệnh thế kỷ HIV/AIDS trên toàn thế giới.
Nhận thức được những tác hại, nguy hiểm của tệ nạn ma túy và tội phạm

ma túy, thời gian qua, bên cạnh việc phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và nhà
nước ta cũng đã rất quan tâm ban hành, triển khai thực hiện đồng bộ và toàn
diện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực để đấu tranh phịng, chống ma túy,
tiến tới đẩy lùi và xóa bỏ tội phạm ma túy có thể kể đến như: Chỉ thị số 06 CT/TW ngày 30/11/1996 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường
lãnh đạo, chỉ đạo cơng tác phịng, chống và kiểm soát ma túy; Chỉ thị số 21CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ
đạo cơng tác phịng, chống và kiểm sốt ma túy trong tình hình mới”; Chỉ thị 36CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường, nâng cao hiệu quả cơng
tác phịng, chống và kiểm sốt ma túy; Luật Hình sự và tố tụng hình sự; Luật
Phịng chống ma túy; … Và nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế
nước ta chính thức chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
khi nước ta đang mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới thì ma túy và tội
phạm ma túy đã trở thành một trong những vấn đề được Đảng và nhà nước ta
đặc biệt quan tâm.

1


Trong quá trình áp dụng pháp luật thì hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân đối với các tội phạm về ma túy đóng vai trị rất quan trọng. Hoạt động xét
xử của các cơ quan Tòa án là hoạt động áp dụng pháp luật để ra các bản án, các
quyết định thể hiện tính nghiêm minh và sự cơng bằng của pháp luật.
Tại thành phố Biên Hịa, thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của trung
ương và của tỉnh, thời gian qua, các cơ quan tố tụng của thành phố Biên Hòa đã
xét xử rất nhiều vụ án về ma túy, trong đó đa số là tội tàng trữ trái phép chất ma
túy, đưa ra xét xử lưu động về các tội phạm ma túy tại nhiều địa bàn trong tỉnh
nhằm tuyên truyền, giáo dục các tầng lớp nhân dân về tác hại của ma túy và răn
đe các đối tượng có biểu hiện vi phạm, góp phần thực hiện có hiệu quả cơng tác
đấu tranh phịng, chống tội phạm ma túy. Tuy nhiên, do có sự sửa đổi, bổ sung
của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với các tội phạm về ma túy, trong đó “Tội
tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định thành một điều độc lập là Điều
249 đã dẫn đến công tác xét xử của các cơ quan tố tụng cịn gặp khơng ít khó

khăn, vướng mắc trong q trình định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội tàng trữ trái phép chất ma túy, do đó vẫn cịn những sai sót nhất định như
định sai tội danh, định đúng tội danh nhưng sai khung hình phạt, bỏ lọt tội
phạm,… dẫn đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự không đúng người, đúng tội,
bỏ lọt tội phạm, không đảm bảo tính nghiêm minh, cơng bằng của pháp luật…
và hậu quả là một số bản án bị tòa án có thẩm quyền hủy, sửa. Số lượng bản án,
quyết định bị hủy, sửa tuy không nhiều nhưng cũng ảnh hưởng khơng nhỏ đến
uy tín của ngành, đến lịng tin nhân dân vào cơng lý, đến cơng tác đấu tranh
phịng chống tội phạm nói chung và tội phạm ma túy nói riêng của cả hệ thống
chính trị.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung
và tội phạm ma túy nói riêng, tác giả chọn đề tài “Tội tàng trữ trái phép chất
ma túy từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” (trên cơ sở số liệu
thực tiễn xét xử tại thành phố Biên Hòa) để làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật
học.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội phạm tàng trữ trái phép chất ma túy không phải là vấn đề mới, đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu có giá trị được cơng bố có thể kể đến như:
- Về sách, giáo trình:
+ Giáo sư, tiến sĩ Võ Khánh Vinh (2014): “Giáo trình Luật Hình sự Việt
Nam - Phần các tội phạm”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
+ Tiến sĩ Phạm Minh Tuyên (2013): “Các tội phạm về ma túy ở Việt Nam
cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử (tài liệu tham khảo dùng cho các Thẩm phán,
Thư ký tòa án)”, Nhà xuất bản Hồng Đức.
- Về luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
+ Luận án tiến sĩ của Nguyễn Tuyết Mai: “Đấu tranh phòng, chống tội
phạm ma túy ở Việt Nam”, bảo vệ năm 2007.

+ Luận án tiến sĩ của Phạm Minh Tuyên: “Trách nhiệm hình sự đối với tội
phạm về ma túy trong Luật hình sự Việt Nam”, bảo vệ năm 2006.
+ Luận văn thạc sĩ Phạm Nguyễn Hồng Trang: “Áp dụng pháp luật trong
xét xử các vụ án ma túy của Tòa án nhân dân ở tỉnh Nghệ An”, bảo vệ năm
2010.
+ Luận văn thạc sỹ của Bùi Mạnh Cường: “Áp dụng pháp luật trong giai
đoạn điều tra, truy tố các vụ án ma túy ở Việt Nam”, bảo vệ năm 2006.
- Về đề tài nghiên cứu khoa học
+ Đề tài nghiên cứu khoa học của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh: “Những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma
túy trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” do tiến sĩ Phạm Minh Tuyên - Phó Chánh án
TAND tỉnh Bắc Ninh nghiên cứu, đề tài nghiệm thu năm 2009.
+ Đề tài nghiên cứu khoa học: “Điều tra, đánh giá thực trạng và đề xuất
giải pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế tệ nạn và tội phạm về ma túy trên địa bàn
3


tỉnh Bắc Giang” do Nguyễn Việt Hùng - Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Bắc Giang là Chủ nhiệm đề tài, đề tài nghiệm thu tháng 6/2007.
- Về các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học
+ Bài viết của tác giả Nguyễn Quốc Hùng: “Nguyên tắc bảo đảm pháp chế
xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự nhìn từ thực tiễn hoạt động của các cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ở thành phố Hải Phịng”, Tạp chí Khoa
học Đại học quốc gia Hà Nội số 3, năm 2018.
+ Bài viết của tác giả Phạm Minh Tuyên: “Các tội phạm về ma túy theo
BLHS năm 2015 - cấu thành cơ bản và cấu thành tăng nặng”, Trang thông tin
điện tử tỉnh Bắc Ninh năm 2018.
+ Bài viết của tác giả Mã Văn Hùng: “Về định tội danh đối với hành vi
tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy”, Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử ngày
25/11/2018.

+ Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Mai Nga: “Bàn về quy định xử lý tội
phạm ma túy của Bộ luật hình sự trong thời kỳ hội nhập”, Tạp chí kiểm sát số
12, năm 2008.
Mỗi cơng trình, bài viết nêu trên đều có giá trị khoa học và thực tiễn nhất
định, trong đó, có nhiều cơng trình, bài viết có giá trị khoa học và thực tiễn rất
cao; đa số các cơng trình nghiên cứu về vấn đề áp dụng pháp luật trong xét xử
các vụ án hình sự nói chung, trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma túy
trong luật hình sự nói riêng hoặc nghiên cứuviệc áp dụng pháp luật liên quan
đến tội phạm ma túy ở các địa phương khác, chưa có tại thành phố Biên Hịa,
tỉnh Đồng Nai. Việc nghiên cứu hoạt động xét xử các vụ án về tội tàng trữ trái
phép chất ma túy tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai còn phụ thuộc rất nhiều
vào các yếu tố về điều kiện tự nhiên, các đặc điểm về chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội.
Vì vậy, việc nghiên cứu sâu hơn các quy định về “Tội tàng trữ trái phép
chất ma túy” trong BLHS Việt Nam, đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng
4


giải quyết các vụ án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy thông qua số liệu thực
tiễn xét xử tại thành phố Biên Hòa giai đoạn 2015-2019 là cần thiết nhằm chỉ ra
những hạn chế, bất cập để kiến nghị, góp phần hồn thiện các quy định pháp luật
cũng như nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp luật đối với tội tàng trữ trái
phép chất ma túy của BLHS.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tàng trữ trái
phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nhằm góp
phần hồn thiện các quy định pháp luật cũng như bảo đảm áp dụng đúng quy
định về tội tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ cần được
nghiên cứu như sau:
- Phân tích các vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai trong giai đoạn 2015-2019.
- Kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật, bảo đảm
áp dụng đúng quy định về tội tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

5


Quy định của pháp luật Hình sự hiện hành và thực tiễn áp dụng các quy
định pháp luật Hình sự hiện hành về tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu tập trung trong quy định của BLHS năm 2015
về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Phần thực tiễn tập trung nghiên cứu vào hai
hoạt động chính của TAND thành phố Biên Hòa là hoạt động định tội danh và
hoạt động quyết định hình phạt.
- Về khơng gian: Tại TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
- Về thời gian: Các số liệu, bản án được thu thập, nghiên cứu trong thời
gian từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin; tư
tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng cộng sản Việt
Nam về đấu tranh phòng chống tội phạm và chính sách pháp luật hình sự của
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về các nội dung: tội phạm, hình
phạt, cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn được sử dụng rất nhiều các phương
pháp nghiên cứu khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, quy nạp, diễn
dịch, hệ thống hóa, nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu bản án… và các phương
pháp nghiên cứu của khoa học hình sự để hồn thiện pháp luật hình sự đối với
tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
6


Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn những vấn đề về lý
luận và thực tiễn xét xử tội tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nhận diện thực tiễn nhận thức,
thực tiễn quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn xét xử các tội phạm về tội
tàng trữ trái phép chất ma túy tại thành phố Biên Hòa trong thời gian từ năm
2015 đến năm 2019. Các kiến nghị nêu trong luận văn sẽ góp phần bảo đảm áp
dụng đúng quy định pháp luật hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy ở
nước ta.
Ngồi ra, luận văn cịn là tài liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên
chuyên ngành luật hình sự tại các cơ sở đào tạo, giáo dục trên cả nước trong quá
trình học tập; cho các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án nhân dân các

cấp tham khảo trong giải quyết các vụ án hình sự về tội tàng trữ trái phép chất
ma túy được khách quan, cơng bằng, có căn cứ pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu bởi 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội
tàng trữ trái phép chất ma túy.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội tàng trữ trái phép chất ma
túy tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về tội
tàng trữ trái phép chất ma túy.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội tàng trữ trái phép chất
ma túy
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm về tội phạm
Tại Điều 8 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) của nước
CHXHCNVN đã đưa ra khái niệm tội phạm. Và theo định nghĩa tại Điều 8 của
BLHS cho thấy, tội phạm khác với những hành vi không phải là tội phạm bằng
bốn dấu hiệu đặc trưng cơ bản là: (1) Nguy hiểm cho xã hội; (2) có lỗi; (3) trái
pháp luật hình sự; (4) phải chịu hình phạt [12, tr. 108].
* Về tính nguy hiểm cho xã hội
Chỉ hành vi nguy hiểm cho xã hội đến một mức độ nhất định mới được coi

là tội phạm. Đây là dấu hiệu bản chất, nội dung cơ bản, quan trọng nhất, quyết
định các dấu hiệu khác của tội phạm. Dưới dạng chung nhất, những quan hệ xã
hội đó là độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an
tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật
tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Tội phạm là những hành vi xâm phạm các quan
hệ xã hội này [12, tr. 110].
Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm xác định đặc tính về chất của
thiệt hại do tội phạm gây ra. Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thể
hiện đặc tính về chất của tội phạm, còn mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm là sự thể hiện về lượng nhất định của cùng một chất - tính nguy hiểm cho
xã hội của tội phạm. Điều đó có nghĩa là khái niệm “tính chất” và “mức độ”
8


nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không tách rời nhau, chúng tồn tại cùng
nhau, bổ sung cho nhau, xâm nhập vào nhau và trong thể thống nhất thể hiện
tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm [12, tr. 111].
* Về tính có lỗi của hành vi
Theo Điều 8 BLHS 2015 thì “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý…”. Như vậy, lỗi là
một dấu hiệu độc lập của tội phạm [12, tr. 112].
Với tư cách là một dấu hiệu độc lập của tội phạm, tính có lỗi của hành vi
khơng chấp nhận việc quy tội khách quan. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của nhà nước có mục đích giáo dục người phạm tội, phịng
ngừa tội phạm mới, nhưng các mục đích đó chỉ có thể đạt được, nếu hình phạt
được áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội [12, tr. 112].

* Tính trái pháp luật hình sự
Theo quy định tại Điều 8 BLHS năm 2015, tính trái pháp luật hình sự hay
tính được quy định trong pháp luật Hình sự là một dấu hiệu bắt buộc của tội
phạm. Tính trái pháp luật hình sự của hành vi có thể được thực hiện cả ở trường
hợp người nào đó khơng thực hiện nghĩa vụ của mình. Tính trái pháp luật hình
sự là sự thể hiện về mặt pháp lý của các dấu hiệu về mặt nội dung của tội phạm
trong pháp luật hình sự [12, tr.113].
* Tính chịu hình phạt
Tính chịu hình phạt là một dấu hiệu của tội phạm nhưng dấu hiệu này
không phải là dấu hiệu nằm trong nội dung của tội phạm như tính nguy hiểm
cho xã hội, tính có lỗi và tính trái pháp luật hình sự. Tính chịu hình phạt được
coi là một dấu hiệu bắt buộc của tội phạm vì nó được xác định bởi chính các
thuộc tính bên trong của tội phạm. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu biện

9


pháp trách nhiệm là hình phạt. Khơng phạm tội thì cũng khơng có hình phạt [12,
tr. 115].
Như vậy, theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 của BLHS đã định nghĩa một
cách đầy đủ về tội phạm; thể hiện tính khoa học và phản ánh đầy đủ các dấu
hiệu của tội phạm về nội dung và về hình thức pháp lý; thể hiện tập trung nhất
quan điểm của Nhà nước ta về tội phạm. Nó khơng chỉ là cơ sở khoa học thống
nhất cho việc xác định những loại tội phạm cụ thể trong phân loại các tội phạm
của BLHS nước ta mà còn là cơ sở để nhà làm luật quy định khung hình phạt
tương ứng từng loại tội phạm cụ thể, cơ sở cho việc nhận thức và áp dụng đúng
đắn, đầy đủ những điều luật quy định về từng loại tội phạm trong thực tiễn.
Từ những phân tích nêu trên, có thể định nghĩa một cách chung nhất về tội
phạm như sau:
“Tội phạm là hành vi gây nguy hiểm đáng kể cho xã hội, có lỗi, trái pháp

luật hình sự và phải chịu hình phạt hình sự”.
1.1.1.2. Khái niệm về chất ma túy
Ma túy, theo gốc Hán - Việt, “ma” có nghĩa là tê liệt hoặc là “làm mê mẩn”
hoặc là làm cho tê liệt; “túy” có nghĩa là say sưa [46, tr. 14]. “Ma túy” là một
danh từ dùng để chỉ chất thuốc có khả năng gây ra hiện tượng thần kinh tê liệt,
dùng nhiều sẽ bị nghiện.
Đến nay vẫn chưa có khái niệm thống nhất về chất ma túy, vẫn còn nhiều ý
kiến khác nhau về chất ma túy, như:
Theo ý kiến một số chuyên gia thì: “Ma túy là chất tự nhiên hoặc hóa học
hợp thành, khi hấp thụ vào con người sẽ gây nguy hại cho con người”.
Ý kiến khác lại cho rằng: “Ma túy là những chất mà dùng nó một thời gian
sẽ gây trạng thái nghiện hay nói cách khác là trạng thái phụ thuộc vào thuốc”
[45, tr. 493].

10


Ở Việt Nam, cụm từ chất ma túy lần đầu tiên được quy định chính thức tại
Điều 203 BLHS năm 1985 với “Tội tổ chức dùng chất ma túy”, sau này được
thay bằng Điều 185i của Luật số 57-L/CTN ngày 10/5/1997 sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLHS năm 1985.
Tiếp theo đó là BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 quy định chất ma túy và
tội phạm về ma túy. Theo đó, tại các Bộ luật quy định chất ma túy gồm: Nhựa
thuốc phiện, nhựa cần sa, cao cô ca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân,
cành, hoa, quả cây cần sa, lá cây côca; quả thuốc phiện tươi, quả thuốc phiện
khô; heroin, coocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, XLR-11, các
chất ma túy khác ở thể lỏng, các chất ma túy khác ở thể rắn.
Đồng thời, khái niệm chất ma túy cũng được Luật số 23/2000/QH10 ngày
09/12/2000 của Quốc hội về Phòng, chống ma túy, Luật số 16/2008/QH12 ngày
03/6/2008 của Quốc hội về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống

ma túy và Điểm 1.1 Khoản 1 Mục I Thông tư số 17/2007/TTLT-BCAVKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Cơng an, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, Tịa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp Hướng dẫn áp dụng một
số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999
quy định: “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định
trong các danh mục do Chính phủ ban hành.
Ngồi ra, tại Điều 2 Luật Phòng, chống ma túy cũng đã quy định cụ thể về
chất gây nghiện, chất hướng thần, các loại cây có chứa chất ma túy, khái niệm
người nghiện ma túy.
Các quy định nêu trên cơ bản đều có định nghĩa giống nhau về chất ma túy,
đó là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục
do Chính phủ ban hành, tác hại nghiêm trọng nhất của ma túy là tạo ra sự lệ
thuộc cả về tâm lý và thể chất đối với người sử dụng. Như vậy theo nghĩa chung
nhất thì:

11


“Ma túy là một số chất tự nhiên hoặc chất tổng hợp (hóa học) khi đưa vào
cơ thể người dưới bất kỳ hình thức nào sẽ gây ức chế hoặc kích thích mạnh hệ
thần kinh, làm giảm đau hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần sẽ dẫn đến
tình trạng nghiện đối với người sử dụng”.
Đặc biệt, gần đây nhất là Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của
Chính phủ Quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất. Theo đó, ngồi 46
chất thuộc Danh Mục I gồm các chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học
và đời sống xã hội; việc sử dụng các chất này trong phân tích, kiểm nghiệm,
nghiên cứu khoa học, Điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có
thẩm quyền; 398 chất thuộc Danh Mục II gồm các chất ma túy được dùng hạn
chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, Điều tra tội phạm hoặc
trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ quan có thẩm quyền; 71 chất thuộc
Danh Mục III gồm các chất ma túy được dùng trong phân tích, kiểm nghiệm,

nghiên cứu khoa học, Điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế, thú y theo quy
định của cơ quan có thẩm quyền thì Nghị định cịn quy định thêm Danh Mục IV
gồm các tiền chất gồm 44 tiền chất được sử dụng vì mục đích quốc phịng, an
ninh do Bộ Công an quản lý và cấp phép xuất khẩu, nhập khẩu. Các tiền chất sử
dụng trong lĩnh vực thú y do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý và
cấp phép xuất khẩu, nhập khẩu.
Từ những phân tích trên cho thấy, có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về
định nghĩa ma túy, tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng:
“Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp. Khi được đưa
vào cơ thể con người, nó làm thay đổi trạng thái ý thức của người sử dụng. Nếu
lạm dụng ma túy, con người sẽ bị phụ thuộc vào nó, dẫn đến tình trạng nghiện
và sẽ gây tổn thương đối với người sử dụng, gia đình và cộng đồng”.
1.1.1.3. Khái niệm tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Hiện nay, tồn tại khá nhiều khái niệm khác nhau về tội phạm ma túy
như:“Tội phạm về ma túy là hành vi cố ý xâm phạm chế độ quản lý các chất ma
12


túy của nhà nước” hoặc “Tội phạm về ma túy là hành vi cố ý xâm phạm chế độ
quản lý của nhà nước đối với các chất ma túy”.
Theo Tiến sĩ Phạm Minh Tuyên thì: “Tội phạm ma túy là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự, thực hiện, có lỗi, xâm phạm đến chế độ quản lý, sử dụng
các chất ma túy của nhà nước từ đó gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước của
xã hội và của công dân, gây mất trật tự an tồn xã hội”.
Theo Thơng tư liên tịch số 01/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV
ngày 02/01/1998 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1997 thì: “Hành vi tàng trữ trái
phép chất ma túy là hành vi cất giữ bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào

mà không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất ma túy khác.
Thời gian tàng trữ dài hay ngắn khơng có ý nghĩa đối với việc truy cứu trách
nhiệm hình sự”.
Theo quy định tại mục 3.1 phần II Thơng tư số 17/2007/TTLT-BCAVKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp về Hướng dẫn áp dụng
một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS năm
1999 thì: “Tàng trữ trái phép chất ma túy là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất
ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngồi vườn, chơn dưới đất, để trong
vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tư trang mặc trên người
hoặc theo người…) mà khơng nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất
trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến
việc xác định tội này”.
Từ những định nghĩa nêu trên có thể đưa ra khái niệm về tội tàng trữ trái
phép chất ma túy như sau:

13


“Tàng trữ trái phép chất ma túy là một trong những hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự cố
ý cất giữ trái phép chất ma túy mà khơng nhằm mục đích để mua bán, vận
chuyển, sản xuất; xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của nhà nước và bị
xử lý hình sự”.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm
thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh
các quan hệ xã hội phù hợp với thực tiễn khách quan của đời sống kinh tế - xã
hội trong một thời kỳ lịch sử nhất định.
Tại Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp năm 2013 lại tiếp tục khẳng định: “Nhà
nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội

bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Để khẳng định một chuẩn mực đạo đức và biến nó thành thói quen thì pháp
luật là một trong những biện pháp tối ưu được các nhà nước áp dụng. Vai trò của
pháp luật càng quan trọng bao nhiêu đồng nghĩa với chuẩn mực càng khó bấy
nhiêu. Vì vậy, khơng thể bng lỏng pháp luật nếu việc này chưa được chuẩn bị
bằng sự tiến bộ đạo đức của xã hội. Giữa đạo đức và pháp luật ln có mối quan
hệ qua lại, tác động tương hỗ lẫn nhau.
Nhận thức được ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của pháp luật trong việc
bảo tồn, phát huy các giá trị đạo đức, Đảng và nhà nước ta đã từng bước xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có các quy định nhằm đấu
tranh, phòng ngừa đối với các tội phạm về ma túy nói chung và tội phạm về tàng
trữ trái phép chất ma túy nói riêng. Những hành vi tội phạm về ma túy nói chung
và tội phạm về tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng khơng chỉ gây nguy hiểm
cho xã hội mà còn là hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến các giá trị đạo
đức truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta. Các hành vi này ngày càng gia tăng
với mức độ nhanh chóng, gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội, an
14


ninh, chính trị của mỗi quốc gia, địa phương. Có rất nhiều nguyên nhân làm cho
tệ nạn ma túy và tội phạm ma túy càng ngày càng tăng nhanh, trong đó có thể kể
đến nguyên nhân là do hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, để ngăn
chặn và phịng, chống một cách có hiệu quả tệ nạn ma túy và tội phạm ma túy
thì cần thiết phải ban hành các quy định để hạn chế, xử lý nghiêm hành vi tàng
trữ trái phép chất ma túy.
Tóm lại, việc quy định tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong BLHS Việt
Nam là một đòi hỏi khách quan và có tính tất yếu cả về lý luận và thực tiễn của
xã hội. Những quy định này không chỉ phản ánh trung thực các điều kiện kinh tế
- xã hội, quốc phòng - an ninh và thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị ở
Việt Nam hiện nay mà còn thể hiện rõ quan điểm, quyết tâm của Đảng và Nhà

nước ta cũng như nỗ lực của toàn thể dân tộc Việt Nam trong việc giải quyết vấn
đề phức tạp và cấp bách mang tính toàn cầu: Tệ nạn ma túy và tội phạm ma túy.
1.2. Các dấu hiệu pháp lý và hình phạt của tội tàng trữ trái phép chất
ma túy
1.2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ trái phép chất ma túy
1.2.1.1. Khách thể
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị tội phạm gây ra thiệt hại
hoặc đe dọa trực tiếp gây ra thiệt hại. Khách thể của tội phạm có vai trị, ý nghĩa
rất quan trọng đối với việc định tội danh hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối
với quyết định hình phạt. Khách thể của tội phạm là căn cứ phân biệt tội phạm
với những hành vi không phải là tội phạm [12, tr. 143, tr. 144].
Tội tàng trữ trái phép chất ma túy có khách thể là chế độ độc quyền quản lý
của Nhà nước về việc cất giữ các chất ma túy. Theo đó, hành vi tàng trữ trái
phép chất ma túy đã xâm phạm tới các chính sách, quy định của Nhà nước trong
việc quản lý, cất giữ các chất ma túy.
Hiện nay, nhà nước đang quản lý 515 chất ma túy được quy định tại Nghị
định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ Quy định các danh mục
15


chất ma túy và tiền chất, trong đó: 46 chất thuộc Danh Mục I “Các chất ma túy
tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã hội; việc sử dụng các chất này
trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, Điều tra tội phạm theo quy
định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền”; 398 chất thuộc Danh Mục II “Các
chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa
học, Điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ quan có
thẩm quyền; 71 chất thuộc Danh Mục III “Các chất ma túy được dùng trong
phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, Điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh
vực y tế, thú y theo quy định của cơ quan có thẩm quyền”; 44 tiền chất thuộc
Danh Mục IV được sử dụng vì mục đích quốc phịng, an ninh do Bộ Cơng an

quản lý và cấp phép xuất khẩu, nhập khẩu.
1.2.1.2. Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm các
biểu hiện của tội phạm diễn ra trong thế giới khách quan. Mặt khách quan của
tội phạm có ý nghĩa quan trọng đối với việc định tội danh và là một dấu hiện
(một yếu tố) xác định nội dung của tội phạm [12, tr.363].
Mặt khách quan của tội tàng trữ trái phép chất ma túy thể hiện ở hành vi
tàng trữ trái phép chất ma túy (hành vi nguy hiểm cho xã hội) [11, tr. 362]. Tàng
trữ trái phép chất ma túy là hành vi cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy.
Thời gian tàng trữ có thể dài hoặc ngắn, bất kể là bao lâu không ảnh hưởng đến
việc xác định tội danh. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị coi là trái phép
khi việc tàng trữ đó được thực hiện mà khơng có giấy phép của cơ quan có thẩm
quyền.
Mục đích của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội là dấu hiệu
bắt buộc để xác định người đó có bị truy cứu trách nhiệm đối với tội tàng trữ trái
phép chất ma túy hay không.
Người phạm tội cứ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng
được quy định đối với từng loại chất ma túy tại Điều 249 BLHS năm 2015
16


(được sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì đã phải chịu trách nhiệm hình sự đối với
tội này. Hay nói cách khác tội tàng trữ trái phép chất ma túy có cấu thành tội
phạm hình thức.
1.2.1.3. Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là thái độ tâm lý
của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do họ thực hiện và với
hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc đối với khả năng gây ra hậu quả
đó. [12, tr. 197]
Mặt chủ quan của tội tàng trữ trái phép chất ma túy được thực hiện do lỗi

cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật hình sự,
đồng thời thấy trước tác hại và mức độ nguy hiểm của hành vi tàng trữ trái phép
chất ma túy cũng như hậu quả tất yếu của hành vi đó cho xã hội nhưng vẫn thực
hiện. Động cơ phạm tội có thể do vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác tùy thuộc
vào từng hành vi phạm tội cụ thể nhưng không phải là cấu thành bắt buộc trong
cấu thành tội phạm. Do đó, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy chỉ có thể
được thực hiện do cố ý trực tiếp, khơng có trường hợp nào do cố ý gián tiếp [11,
tr.363].
1.2.1.4. Chủ thể
Theo pháp luật hình sự nước ta, chủ thể của tội phạm là con người cụ thể
đã cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy
định là tội phạm trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi
nhất định do luật quy định và trong một số trường hợp khác có dấu hiệu đặc biệt
được chỉ ra trong điều luật tương ứng [12, tr. 181].
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự của BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2017) quy định như sau:
“Điều 12.
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác
17


×