Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ NỘI – 2017
ĐỖHÀN
ANHLÂM

VIỆN
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰCĐỖ
TIỄN
THÀNH
PHỐ SƠN LA
MINH
HOÀNG

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số

: 60.38.01.04

PHẠM NHIỀU TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN
VĂNCHƯƠNG
THẠC SĨ LUẬT
HỌC PHỐ HÀ NỘI
TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN
MỸ, THÀNH



Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG
DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHÙNG THẾ VẮC

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. HỒ SỸ SƠN
HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực hiện
trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và khảo sát tình hình thực tiễn dưới sự hướng dẫn khoa
học của PGS.TS. Phùng Thế Vắc. Các thông tin, số liệu, các luận điểm kế thừa được
trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của Luận văn là trung thực.

HỌC VIÊN

Đỗ Anh Tú


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. ..1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY................................7
1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy ..................... 7
1.2. Ý nghĩa của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy.32
1.3. Các yếu tố tác động đến xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tàng trữ trái phép chất ma

túy. ........................................................................................................................ 33
Chương 2: THỰC TRẠNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN TÀNG TRỮ TRÁI
PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN
LA ............................................................................................................................. 36
2.1. Thực trạng, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của thành phố Sơn La tác động
đến xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy. .................................... 36
2.2. Thực trạng xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn
thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La............................................................................. 38
2.3. Những kết quả đạt được trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép
chất ma túy từ thực tiễn thành phố Sơn La. ......................................................... 50
2.4. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ
án tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Sơn La..........................52
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY................59
3.1. Yêu cầu của việc nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép
chất ma túy. .......................................................................................................... 59
3.2 Các giải pháp nâng chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma
túy. ........................................................................................................................ 64
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 72


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Thống kê số vụ án tội phạm ma túy hình sự và tội phạm ma túy đã xét xử
trên địa bàn thành phố Sơn La trong 05 năm (từ năm 2012 đến năm 2016).…………78
Bảng 2.2: Thống kê số vụ án tội phạm hình sự và tội phạm tàng trữ trái phép chất ma
túy thụ lý trên địa bàn thành phốSơn La trong 05 năm (từ năm 2012 đến năm 2016).79
Bảng 2.3.: Thống kê số vụ án hình sự nói chung đã giải quyết (xét xử, trả hồ sơ điều
tra bổ sung) và vụ án hình sự tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Sơn
La trong 05 năm (từ năm 2012 đến năm 2016).………………………………………80
Bảng 2.4.: Thống kê số vụ án hình sự tàng trữ trái phép chất ma túy bị kháng cáo,

kháng nghị và kết quả kháng cáo kháng nghị trên địa bàn thành phố Sơn La trong 05
năm (từ năm 2012 đến năm 2016).……………………………………………………81


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, tệ nạn ma túy đã và đang trở thành hiểm họa lớn của
toàn nhân loại. Ma túy đang làm gia tăng tội phạm, bạo lực, tham nhũng vắt cạn kiệt
nhân lực, tài chính, hủy diệt những tiềm năng quý báu của con người. Hiện nay, theo
báo cáo UNODC, năm 2015 có khoảng 246 triệu người, tương đương với khoảng hơn
5% trong tổng số người ở độ tuổi từ 15 - 64 trên thế giới lạm dụng ma túy[54].
Nghiêm trọng hơn, ma túy còn là tác nhân của căn bệnh thế kỷ HIV-AIDS phát triển.
Đấu tranh, phòng chống ma túy là nhiệm vụ chung thách thức trong mỗi chúng ta.
Kèm theo đó là sự gia tăng về số lượng các tội phạm về ma túy cũng như tính chất
phức tạp đã gây ra không ít khó khăn, vướng mắc cho cơ quan chức năng trong quá

trình giải quyết.
Nhận thức được hiểm họa khôn lường từ ma túy, công tác đấu tranh phòng
chống ma túy được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đẩy mạnh. Bộ luật hình
sự (BLHS) năm 2015 ra đời đánh dấu một bước tiến mới trong kỹ thuật lập pháp, đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập cũng như phù hợp với tình hình thực tiễn về
phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.
Như đã đề cập ở trên, với chiều hướng tăng nhanh về số lượng và tính chất phức
tạp của tội phạm ma túy đòi hỏi công tác xét xử các vụ án càng ngày phải được nâng
cao. Xét xử là một giai đoạn tố tụng hình sự (TTHS) trung tâm và quan trọng để tăng
cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn xét xử của
Tòa án nói riêng và toàn bộ hoạt động tư pháp hình sự của Nhà nước nói chung, góp
phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội, cùng
với các giai đoạn TTHS khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống
tội phạm trong toàn xã hội.
Tỉnh Sơn La được coi là một trong những tỉnh trọng điểm phức tạp về ma túy
của cả nước. Sơn La là tỉnh miền núi có địa hình hiểm trở, diện tích rộng, giao thông
đi lại khó khăn; có đường biên giới dài giáp ranh với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào; đặc biệt bị ảnh hưởng do vị trí địa lý gần khu vực “tam giác vàng” là trung tâm

1


sản xuất ma túy hàng đầu thế giới. Hàng năm, Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh
Sơn La đã giải quyết gần trăm vụ án hình sự về ma túy, đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống ma túy. Bên cạnh những
thành tựu đạt được hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự cũng như thực tiễn thi
hành Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) còn những hạn chế bất cập nhất định. Thực
tiễn đang đặt ra yêu cầu cấp bách phải nghiên cứu thủ tục tố tụng tại phiên toà sơ thẩm
hình sự các vụ án về ma túy cả phương diện lý luận và thực tiễn. Trong thực tiễn xét
xử các vụ án hình sự về ma túy thì tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” được xem là

một trong những tội phạm chiếm tỉ lệ cao, mang tính phổ biến.
Chính vì những lẽ trên, học viên lựa chọn đề tài: “Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ
trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Sơn La” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn
thạc sĩ của mình. Trên cơ sở những kiến thức đã được tích lũy trong quá trình học tập và
tình hình áp dụng pháp luật trên thực tiễn tại thành phố Sơn La, tôi mong muốn làm rõ thêm
về trình tự xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ ma túy, tìm ra những vướng mắc và bất cập trong
pháp luật cũng như trong thực tiễn và từ đó tìm ra giải pháp để hoàn thiện hơn nữa về công
tác xét xử tội phạm về ma túy nói chung và tội tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng .
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được xác định như là một công đoạn trong quá trình
giải quyết án hình sự nhưng là một công đoạn đặc biệt quan trọng. Do đó, vấn đề này
được nhiều sự quan tâm của xã hội cũng như giới nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu
về xét xử sơ thẩm phần lớn đã tập trung làm rõ được nhiều vấn đề lý luận và pháp lý liên
quan. Có thể tạm phân loại các công trình nghiên cứu này thành ba nhóm lớn như sau:
Nhóm các luận văn, luận án, các công trình nghiên cứu tiêu biểu trong nhóm này có:
Nguyễn Ngọc Kiện, “Thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh, 2016; Phạm Vân Giang, “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong
pháp luật hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2016; Nguyễn Quỳnh Trang,“Thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm”, Luận văn
thạc sỹ luật học, Khoa Luật đại học quốc gia Hà Nội, 2008; Đặng Thị Thảo Lan, “Đấu
tranh phòng chống tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt các chất ma túy ở

2


các tỉnh Tây Bắc Việt Nam” Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật đại học quốc gia Hà
Nội, 2005; Ngô Thị Thanh, “xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tàng trữ vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ thực tiễn thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh
”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội 2014; Đề tài cấp bộ, “Những giải

pháp nâng cao chất lượng xét xử các vụ án về ma túy – cơ sở lý luận và thực tiễn” của
Tòa án nhân dân tối cao, do Thạc sỹ Nguyễn Quang Lộc làm chủ nhiệm đề tài, 2002.
Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo, trong nhóm này có thể kể
đến một số công trình tiêu biểu như:
ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 - Phần tội phạm, Tập
IV: Các tội phạm về ma túy, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2002; Vũ Hùng Vuơng (chủ
biên) cùng tập thể tác giả trong bộ sách Phòng, chống ma túy - cuộc chiến cấp bách của
toàn xã hội, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2007; Th.s. Đinh Văn Quế, Thủ tục xét xử sở thẩm
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị Quốc Gia, 2007.
Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí có thể kể đến một số bài như:
Phạm Minh Tuyên, Những điểm mới cơ bản đối với các tội phạm về ma túy theo
Bộ luật Hình sự năm 2015- Một số vướng mắc, kiến nghị, Tạp chí Tòa án nhân dân số
12/2017; Nguyễn Ngọc Kiện, Một số nguyên tắc trong tố tụng hình sự chi phối hoạt động
xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Tạp chí Tòa án nhân dân số 12/2015;
Nguyễn Ngọc Kiện, Mô hình tố tụng hình sự với yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 16, tháng 8/2015; Bùi Thị Phương Quỳnh, Nâng cao hiệu quả xét
xử tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Nghệ An, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 07/2016;
Bùi Thị Phương Quỳnh, “Nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm ma túy trong tiến
trình hội nhập quốc tế”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 5/2017; Phạm Minh Tuyên “Một số
vấn đề lý luận về các tội phạm ma túy theo Bộ luật Hình sự năm 2015”, Tạp chí Tòa án
nhân dân số 15/2016; Quang Vinh, “Hiểu sao cho đúng về tội tàng trữ trái phép chất ma
túy”, Tạp chí Luật sư Việt Nam số 6/2015.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình trên cho thấy: hầu hết các công trình có
phạm vi nghiên cứu rộng, tội tàng trữ trái phép chất ma túy chỉ là một phần nhỏ trong nội
dung nghiên cứu của tác giả nên chưa đuợc phân tích sâu về mặt lý luận và thực tiễn; có
công trình xem xét tội tàng trữ trái phép chất ma túy với ý nghĩa là một tội phạm để bình

3



luận các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt; hoặc chỉ xem xét duới góc độ tội phạm
học - phòng ngừa cả nhóm tội phạm ma túy; Đặc biệt, các tác phẩm trên mới chỉ tập trung
vào nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn trước khi BLHS năm 2015 được thông
qua do đó thiếu tính ứng dụng trong giai đoạn hiện nay. Thời điểm BLHS năm 2015 cũng
như BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành, với những kế thừa và phát triển của nó về
thủ tục trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, hiện còn thiếu các công trình nghiên cứu có giá trị
về vấn đề này.
Đối với thành phố Sơn La, cho tới nay chưa có một công trình nghiên cứu về xét
xử sơ thẩm gắn với thực tiễn xét xử trên địa bàn. Vậy, việc nghiên cứu xét xử sơ thẩm vụ
án tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Sơn La là một đề tài có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn, phục vụ trực tiếp cho địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm sáng tỏ một cách có hệ thống về
mặt lý luận những nội dung cơ bản của tội tàng trữ trái phép chất ma túy trên qui định của
pháp luật hiện hành và những điểm mới trong Bộ luật mới được thông qua. Qua đó, đánh
giá thực trạng hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn
thành phố Sơn La. Tìm ra những nguyên nhân, hạn chế để từ đó đưa ra các giải pháp nâng
cao hiệu quả xét xử tội phạm này trên địa bàn thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.
Để đạt được mục đích nghiên cứu ở trên, Luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
cụ thể như sau:
- Thực hiện nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật về hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự tàng trữ trái phép chất ma túy. Những yếu tố tác động đến hoạt động
xét xử tại thành phố Sơn La.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong công tác xét xử sơ thẩm
vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy. Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế
trong hoạt động xét xử trên địa bàn thành phố Sơn La.
- Đề xuất, kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực tiễn xét xử tại địa bàn thành phố Sơn La.

4



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định và thực trạng xét xử sơ thẩm
vụ án tàng trữ ma túy từ thực tiễn thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu dưới góc độ TTHS và hoạt động
xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Sơn La từ năm
2012 đến năm 2016.
Địa bàn khảo sát: Thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra, tác giả nghiên cứu đề tài
dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng một số phương pháp như:
- Các phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ
bản về tội tàng trữ trái phép chất ma túy;
- Phương pháp đánh giá, phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn nhằm nắm bắt
được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xét xử các vụ án hình sự về tội tàng trữ
trái phép chất ma túy;
- Phương pháp so sánh giữa các quy định của pháp luật về tội tàng trữ trái phép chất
ma túy trong quy định của pháp luật hiện hành với những bộ luật mới đã được thông qua;
- Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn hoạt
động xét xử của ngành Tòa án, với số liệu cụ thể giải quyết các vụ án xét xử sơ thẩm tội
tàng trữ trái phép chất ma túy. Tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với
thực tiễn áp dụng đã phù hợp hay chưa? Từ đó xem xét nội dung quy định của pháp luật
về xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy với thực tiễn xét xử nhằm nâng cao
hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách tập trung và có hệ thống về những vấn
đề lí luận xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn xét xử tại thành
phố Sơn La.

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ thực trạng hoạt động xét xử vụ
án tàng trữ trái phép chất ma túy. Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn những

5


nội dung trong hoạt xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ ma túy tại Tòa án cũng như đưa ra các
kiến nghị hoàn thiện các quy phạm pháp luật ở khía cạnh lập pháp và thực tiễn áp dụng.
Những giải pháp luận văn đưa ra có tính chất định hướng cho hoạt động thực tiễn xét xử
sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng và các vụ án về ma túy nói chung
tiến tới đấu tranh đẩy lùi tội phạm về ma túy.
Cùng với đó, luận văn còn có ý nghĩa là tài liệu tham khảo cần thiết cho các nhà khoa
học pháp lý, cán bộ thực tiễn đang công tác tại Tòa án, các sinh viên và học viên cao học.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ
trái phép hoặc chất ma túy.
Chương 2: Thực trạng xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy từ
thực tiễn thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án
tàng trữ trái phép chất ma túy.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy

1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Theo Từ điển Tiếng Việt, xét xử sơ thẩm được hiểu là: “Xét xử một vụ án với tư
cách là Tòa án ở cấp xét xử thấp nhất” [41].
Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư và cuối cùng, trung tâm và quan trọng nhất
của hoạt động TTHS, mà trong đó cấp Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của
pháp luật TTHS tiến hành: a) áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử; b) Đưa vụ án
hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở
kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn
đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử
vụ án theo thủ tục phúc thẩm - nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa có
hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và có căn
cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm - nếu bản án hay quyết định đó bị kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định)
của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công
minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục.
Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án nhân danh quyền
lực của Nhà nước nhằm giải quyết những vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính
theo qui định của pháp luật. Các Tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước được đảm
nhiệm chức năng xét xử. Mọi bản án do các Tòa án tuyên đều phải qua xét xử.
Xét xử là chức năng quan trọng nhất của Tòa án nói riêng và của toàn bộ quá trình
TTHS nói chung nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật quy định để kiểm tra lại
tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà cơ quan Điều tra và Viện kiểm
sát đã thông qua trước khi chuyển vụ án hình sự sang Tòa án, nhằm loại trừ các những hậu
quả tiêu cực của các sơ xuất, sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong ba giai đoạn
TTHS trước đó (khởi tố, điều tra và truy tố), chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, hoặc trả lại hồ
sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ (hay tạm đình chỉ) vụ án.

7



Xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần thứ nhất (cấp thứ nhất) do Toà án được giao
thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo Luật tổ chức Toà án nhân dân
và BLTTHS hiện hành của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì Toà án có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm ở Việt Nam là các Toà án cấp huyện, Toà án cấp tỉnh, Toà
án quân sự khu vực, Toà án quân sự cấp quân khu [29].
Trong lĩnh vực TTHS, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập
của quá trình TTHS và được bắt đầu từ thời điểm Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án và kết thúc
khi Tòa án ra bản án hình sự sơ thẩm kết tội bị cáo hoặc tuyên bố bị cáo không phạm
tội. So với các giai đoạn khác thì ở giai đoạn này hầu hết những người tham gia tố tụng
đều được triệu tập đến phiên tòa và các nguyên tắc của pháp luật hình sự, TTHS đều
được áp dụng. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ
sơ vụ án hình sự (với quyết định truy tố bị can trước Tòa án kèm theo bản cáo trạng)
do Viện kiểm sát chuyển sang và kết thúc bằng một bản án (quyết định) có hiệu lực
pháp luật của Tòa án.
1.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về xét xử sơ thẩm vụ
án tàng trữ trái phép chất ma túy.
Khái niệm ma túy: Theo luật phòng chống ma túy thì ma túy là các chất gây
nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục được Chính phủ ban hành.
Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh dễ gây tình trạng
nghiện đối với người sử dụng.
Chất hướng thần là chất kích thích ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng
nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng. Tệ nạn ma túy là hiểm
họa lớn cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khỏe, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con
người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự anh ninh
toàn xã hội, an ninh quốc gia [11].
Dấu hiệu cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy: Đối tượng của loại tội
phạm này chính là các chất ma túy hoặc các nguyên liệu có chứa chất ma túy. Về mặt
khách quan thì “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất
ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho
vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…)


8


mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy.
Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này. Mặt chủ
quan của loại tội phạm này là người phạm tội thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất
ma túy với lỗi cố ý. Về chủ thể của tội tàng trữ trái phép chất ma túy Là người có năng
lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định.Tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy được quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự
năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.
BLHS số 100/2015/QH13 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số
12/2017/QH14) đã tách Điều 194 BLHS năm 1999 quy định về Tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thành 4 tội riêng biệt đó là tội
“Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 249; tội “Vận chuyển trái
phép chất ma túy” được quy định tại Điều 250; tội “Mua bán trái phép chất ma túy”
được quy định tại Điều 251; và tội “Chiếm đoạt chất ma túy” được quy định tại Điều
252 [23].
Việc thay đổi này được dựa trên thực tiễn cho thấy việc gộp chung các tội danh
trong cùng một điều luật gây không ít khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng,
trong việc xác định tội danh và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Như vậy các tội phạm về ma
túy quy định tại Chương XX của BLHS năm 2015 gồm 13 điều luật, so với BLHS năm
1999 tăng thêm 3 điều luật (từ Điều 247 đến Điều 259).
Về định lượng các chất ma túy, BLHS năm 2015 đã pháp điển hóa quy định cụ
thể, rõ ràng mức tối thiểu đến mức tối đa định lượng các chất ma túy để truy cứu trách
nhiệm hình sự trong từng điều luật, đó là các Điều 249, Điều 250, Điều 252; quy định
cụ thể việc định lượng các tiền chất, các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất
trái phép chất ma túy tại các Điều 253 và Điều 254.
Đồng thời BLHS 2015 đã quy định thêm một số chất ma túy nằm trong danh

mục các chất ma túy đã được Chính phủ quy định vào các Điều luật cụ thể như chất
ma túy Methamphetamine, Amphetamine, MDMA…
Định tội danh đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy: là hoạt động thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật TTHS của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ

9


quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình
tiết thực tế của vụ án nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi thực tế đã thực hiện với
các cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Chương XVIII của BLHS, từ đó
xác định một người có phạm tội về ma túy hay không, và phạm tội theo điều luật nào
của chương này [3].
Là hoạt động thực tiễn của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và người có
thẩm quyền trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật TTHS để xác
định, so sánh và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của
hành vi phạm tội cụ thể trong thực tế đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành
tội phạm của Điều 194 và các quy định khác có liên quan trong BLHS, qua đó làm tiền
đề phân tích, đánh giá và ra quyết định về trách nhiệm hình sự cũng như hình phạt của
người phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy..
Tóm lại, định tội danh đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy là hoạt động
nhận thức mang tính logic, thể hiện sự đánh giá của chủ thể định tội danh về sự phù
hợp hay không phù hợp giữa hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra trong thực tế
với cấu thành tội phạm tội tàng trữ trái chất ma túy [46].
Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép hoặc chất ma túy là hoạt động nhà nước
do Tòa án thực hiện ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét, đánh giá toàn diện các chứng
cứ, các tài liệu của vụ án trên cơ sở đó ra một trong các quyết định theo quy định của
pháp luật, từ đó Tòa án ra một bản án xác định có hành vi tàng trữ trái phép hoặc chất
ma túy hay không? Người thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt được áp dụng và các

vấn đề khác có liên quan trong vụ án.
Từ những phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án tàng
trữ trái phép các chất ma túy: Là hoạt động tố tụng hình sự do Tòa án có thẩm quyền
xét xử được tiến hành với sự tham gia của những người tiến hành tố tụng, những
người tham gia tố tụng lần đầu tiên đưa vụ án ra xem xét công khai tại phiên toà và

10


được thực hiện trên những nguyên tắc, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định
nhằm đưa ra bản án, quyết định đúng người, đúng tội đối với hành vi cất giữ bất hợp
pháp các chất ma tuý được quy định trong BLHS (Cấp xét xử thứ nhất).
1.1.3. Đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tàng trữ trái phép chất ma túy
Một là: Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy là một hoạt động tố tụng.
Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy là một hoạt động tố tụng do
Tòa án thực hiện. Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy được tiến hành
với sự tham gia của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Hành vi tàng trữ
trái phép chất ma túy bị coi là có tội hay không có tội đều phải thông qua hoạt động
TTHS, trong đó hoạt động xét xử mang tính quyết định. Bất cứ tội phạm nào cũng phải
được chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định.
Hai là: Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy là một giai đoạn tố
tụng bởi:
TTHS Việt Nam được xác định như một hệ thống các giai đoạn thực hiện các
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng mà giai đoạn trước là tiền đề của giai
đoạn kế sau và giai đoạn kế đó là hệ quả của giai đoạn trước nó. Theo sơ đồ này, ở
Việt Nam đã hình thành một quan điểm chung về các giai đoạn tố tụng gồm: Giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự; giai đoạn truy tố; giai đoạn xét xử sơ thẩm; giai đoạn
xét xử phúc thẩm, giai đoạn thi hành bản án và quyết định của Tòa án.
Ba là: Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy là cấp xét xử thứ nhất.
Cấp xét xử là hình thức tổ chức tố tụng để xét xử và xét xử lại các vụ án, hình

thức tổ chức tố tụng này được đảm bảo thực hiện bằng việc quy định các thủ tục tố
tụng cụ thể và tổ chức tố tụng xét xử cụ thể và tổ chức hệ thống Tòa án có thẩm quyền
xét xử theo các thủ tục tố tụng xét xử khác nhau, nhằm xét xử các vụ án được đúng
đắn, khách quan. Cấp xét xử sơ thẩm là hình thức tổ chức tố tụng để xét xử lần đầu các
vụ án vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy, bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử lại một lần nữa ở cấp phúc thẩm.
Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của Bộ luật TTHS năm 2003. Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy

11


là cấp xét xử thứ nhất, khi xác định Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm phải căn cứ
vào những quy định của pháp luật về thẩm quyền theo sự việc, thẩm quyền theo đối
tượng và thẩm quyền theo lãnh thổ. Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án và quyết định của
Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật ngay, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị, bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác đều có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật
để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại một lần nữa.
Bốn là: Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy kết thúc khi Tòa án
tuyên bản án để giải quyết nội dung vụ án.
Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm đạt mục đích trong
toàn bộ các giai đoạn TTHS là tuyên một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật
một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục tránh bỏ
lọt tội phạm và kết án oan người vô tội.
Bản án của Tòa án được tuyên đọc sau khi Hội đồng xét xử tiến hành nghị án.
Trong đó xác định có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy hay không? Người thực
hiện hành vi có bị coi là phạm tội hay không? hình phạt được áp dụng và các vấn đề
khác có liên quan trong vụ án.
1.1.4. Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tàng trữ trái phép chất ma túy.
Theo BLTTHS 2003 quy định: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phải trải qua một

trình tự thủ tục bao gồm các quy phạm, quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm, về hoạt
động chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm:
a) Về thẩm quyền của Toà án xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: Các quy định về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy phải tuân thủ quy định
từ Điều 170 đến Điều 175 BLTTHS 2003. Tại BLTTHS 2015 thì thẩm quyền xét xử
theo cấp của Tòa án được quy định tại Điều 268. So với BLTTHS 2003, quy định của
BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể, rõ ràng hơn về thẩm quyền xét xử các vụ án hình
sự có yếu tố nước ngoài. Theo đó, các vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước
ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Ngoài ra, BLTTHS 2015 cũng quy định một cách cụ thể hơn
về các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện nhưng được Tòa án cấp tỉnh lấy
lên để xét xử đó là các vụ án có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về

12


tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm
phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyê ̣n, quâ ̣n, thi ̣ xa,̃
thành phố thuô ̣c tin̉ h, thành phố thuô ̣c thành phố trực thuô ̣c trung ương, người có chức
sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn xét xử đầu tiên và có ý nghĩa quan trọng
trong cả quá trình xét xử vụ án. Bởi vì phạm vi xét xử sơ thẩm rộng, toàn bộ nội dung
vụ án sẽ được xem xét trong các giai đoạn này, khác với cấp phúc thẩm chỉ xem xét vụ
án theo nội dung kháng cáo kháng nghị. Do vậy, việc xác định đúng đắn thẩm quyền
xét xử sơ thẩm không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa sâu sắc về mặt
chính trị, xã hội. Theo quy định của BLTTHS 2003 thẩm quyền xét xử của vụ án được
phân định theo sự việc, đối tượng và lãnh thổ.
Thẩm quyền xét xử vụ án theo sự việc: Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án
quân sự khu vực (gọi chung là Toà án cấp huyện) xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự
về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm

trọng, trừ các tội quy định tại Khoản 1 Điều 170 BLTTHS 2003, (Khoản 1 Điều 268
BLTTHS năm 2015) [24].
Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự cấp quân khu (gọi chung là Toà án
cấp tỉnh) xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm
quyền của Toà án nhân dân cấp huyện hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án
cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử. Được quy định tại Khoản 2 Điều 170 BLTTHS
2003, (Khoản 1 Điều 268 BLTTHS 2015) [24].
Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là quân
nhân tại ngũ, công nhân, nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập
trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối
thuộc chiến đấu với quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do
các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý và những người tuy không thuộc các đối tượng
trên nhưng hành vi phạm tội của họ có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại
cho quân đội. BLTTHS 2015 bổ sung quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân
sự tại điều 272.

13


Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ: Toà án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là
Toà án nơi tội phạm được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở
nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Toà án có
thẩm quyền xét xử là Toà án nơi kết thúc việc điều tra. Theo Điều 171, 172 BLTTHS
2003 thì thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo lãnh thổ là sự phân định dựa vào dấu hiệu về
địa điểm thực hiện tội phạm hoặc địa điểm thực hiện hành vi tố tụng của cơ quan tiến
hành tố tụng, nơi cư trú của người phạm tội hoặc địa điểm khác do pháp luật quy định.
Tại BLTTHS 2015 thì thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ được quy định tại Điều 269,
270 [24].
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo đối tượng: Dựa vào người thực hiện tội phạm
và trong một số trường hợp cụ thể có thể dựa vào việc tội phạm đó gây thiệt hại đến

chủ thể nào hoặc thiệt hại cho lĩnh vực nào của đời sống xã hội để quy định thẩm
quyền xét xử sơ thẩm giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự, giữa Tòa án quân sự
các cấp với nhau.
Người phạm tội là quân nhân và những người có nghề nghiệp hoặc nhiệm vụ
quân sự bao gồm: Quân nhân tại ngũ; công chức quốc phòng; công nhân quốc phòng;
quân nhân dự bị; dân quân, tự vệ; những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự
do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý.
Người phạm tội không thuộc các đối tượng nêu trên nhưng nếu họ phạm tội có
liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội hoặc trong cùng một vụ
án vừa có người phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân vừa có người
phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì Tòa án quân sự xét xử toàn
bộ vụ án.
Hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy là một
hoạt động tố tụng bao gồm: Hoạt động thụ lý vụ án; nghiên cứu hồ sơ xác định thẩm
quyền giải quyết; quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định
trả hồ sơ điều tra bổ sung; đình chỉ và tạm đình chỉ; rút quyết định truy tố.
Theo quy định của BLTTHS hiện hành và Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì Tòa
án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm là Tòa án nhân dân cấp huyện bao gồm: Tòa án

14


thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh, Tòa án quân sự khu vực, Tòa án nhân dân cấp tỉnh,
Tòa án quân sự cấp quân khu.
b) Thụ lý và nghiên cứu hồ sơ vụ án:
Thụ lý hồ sơ vụ án: Là việc tòa án có thẩm quyền xét xử tiếp nhận vụ án thông
qua việc Viện kiểm sát có quyết định truy tố bị can với bản cáo trạng và hồ sơ vụ án
chuyển sang tòa án có thẩm quyền bắt đầu xem xét, giải quyết vụ án. Khi Viện kiểm
sát chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án, người nhận hồ sơ phải đối chiếu bản kê tài liệu với
các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kiểm tra việc giao nhận bản cáo trạng cho bị can.

Nếu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ so với bản kê tài liệu và bản cáo
trạng đã được giao cho bị can. Ngay sau khi thụ lý vụ án, Thư ký phải ghi vào sổ thụ lý
hồ sơ gồm số thụ lý, ngày, tháng, năm thụ lý... theo mẫu sổ thụ lý hồ sơ do tòa án nhân
dân tối cao ban hành. Tiến hành lập bìa hồ sơ theo mẫu quy định sau đó chuyển hồ sơ
cho Chánh án hoặc Phó Chánh án được Chánh án ủy quyền phân công Thẩm phán làm
chủ tọa phiên tòa. Chỉ từ khi thụ lý vụ án hình sự, Tòa án mới được tiến hành các công
việc theo thẩm quyền để giải quyết một vụ án hình sự trên. Ngày Tòa án nhận hồ sơ do
Viện kiểm sát chuyển sang là ngày bắt đầu tính thời hạn chuẩn bị xét xử [31].
Thông thường Tòa án thụ lý vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến nhưng cũng có
trường hợp thụ lý vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các
chất ma túy để xét xử sơ thẩm do Tòa án khác chuyển đến vì lý do thẩm quyền. Đây là
trường hợp chuyển vụ án theo quy định tại Điều 174 BLTTHS 2003.
Tại Điều 274 BLTTHS 2015 có thay đổi: “Khi vụ án không thuộc thẩm quyền
xét xử của mình thì Tòa án trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố để chuyển đến
Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố”.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án: Sau khi vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt các chất ma túy được thụ lý, Chánh án Tòa án phân công Thẩm Phán,
Thư ký và HTND cụ thể. Thẩm phán được phân công xét xử vụ án trước khi mở phiên
tòa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ, tiếp nhận giải quyết khiếu nại, yêu cầu của người
tham gia tố tụng và tiến hành những việc cần thiết cho việc mở phiên tòa.

15


Trong thời hạn 07 ngày trước khi mở phiên tòa Thẩm phán được phân công làm
chủ tọa phiên tòa phải có trách nhiệm gửi giấy mời Hội thẩm đến trụ sở Tòa án để nghiên
cứu hồ sơ và trao đổi các vấn đề cần thiết về nghiệp vụ xét xử đối với vụ án đó.
Trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt các chất ma túy Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có thể đưa ra
các quyết định: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ vụ án; tạm đình chỉ vụ án; đưa ra

xét xử; áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn không phải là biện pháp tạm
giam. Cũng trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên
tòa đề nghị Chánh án ra quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam; áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp kê khai tài sản; gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử,
thay đổi người tiến hành tố tụng; chuyển vụ án.
c) Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm: Giai đoạn chuẩn bị xét sử sơ thẩm có vai
trò rất quan trọng, tuy không đưa ra những phán quyết như giai đoạn xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm nhưng giai đoạn này sẽ đảm bảo cho việc xét xử và các phán quyết của Tòa
được đưa ra một cách khách quan và đúng pháp luật.
Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án hình sự:
Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt các chất ma túy là khoảng thời gian theo quy định của pháp luật để
Tòa án thực hiện các hoạt động tố tụng và các công việc cần thiết khác đảm bảo cho
việc xét xử vụ án tại phiên tòa sơ thẩm đạt chất lượng và hiệu quả cao. Thời hạn chuẩn
bị xét xử được tính từ ngày Tòa án thụ lý vụ án để giải quyết, thời điểm kết thúc là thời
điểm mở phiên tòa sơ thẩm.
Tại BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015 đã có những quy định rõ ràng về thời hạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm, cụ thể:
Khoản 2 Điều 176 BLTTHS 2003 và Khoản 1 Điều 277 BLTTHS 2003 quy
định thời hạn chuẩn bị xét xử bao gồm thời hạn để Thẩm Phán được phân công chủ tọa
phiên tòa ra một trong các quyết định cần thiết theo quy định của luật TTHS: Về áp
dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; yêu cầu điều tra bổ sung; đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ vụ án [20].

16


Thời hạn để Thẩm phán ra một trong bốn quyết định, được tính từ ngày Thẩm
phán nhận hồ sơ vụ án đến ngày ra quyết định cụ thể là: Trong thời hạn ba mươi ngày
đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng,

hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải
ra một trong những quyết định: đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình
chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án có thể kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử
nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng,
không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tòa án phải mở phiên tòa trong thời hạn 15 ngày sau khi có quyết định đưa vụ
án ra xét xử. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp thời hạn 15 ngày không đủ để Tòa án
mở phiên tòa. Vì vậy Điều 176 BLTTHS 2003 có quy định thêm “Trong trường hợp
có lý do chính đáng thì Tòa án có thể mở phiên tòa trong thời hạn 30 ngày”. Điều 277
BLTTHS 2015 quy định “Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án
ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở
ngại khách quan thì Tòa án có thể mở phiên tòa trong thời hạn 30 ngày” [24].
Đối với trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn: Thủ tục rút gọn là một trong
những thủ tục đặc biệt trong TTHS. Khi áp dụng thủ tuc rút gọn sẽ rút ngắn được đáng
kể thời hạn điều tra, truy tố và xét xử nhưng vẫn đảm bảo được yêu cầu về xử lý tội
phạm, góp phần thiết thực vào cuộc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm nói chung. Thủ
tục rút gọn đã xác lập cơ sở pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quvết nhanh
chóng một số lượng lớn các vụ án về tội phạm ít nghiêm trọng, phạm tội quả tang,
chứng cứ đơn giản, rõ ràng; rút ngắn điều tra, truy tố xét xử thời gian, góp phần hạn
chế lượng án tồn đọng hàng năm tại các cơ quan tiến hành tố tụng ở các địa phương.
Với những quy định tiến bộ và ý nghĩa của thủ tục rút gọn, lẽ ra thủ tục rút gọn phải
được áp dụng triệt để và thường xuyên. Theo quy định của BLTTHS 2003 thì trình tự,
thủ tục xét xử không được giản lược so với thủ tục tố tụng chung; Hội đồng xét xử vẫn
gồm 01 Thẩm phán và 02 Hội thẩm, gây lãng phí về nhân lực, vật lực đối với các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Do vậy, BLTTHS năm 2015 đã quy

17



định phiên tòa xét xử sơ thẩm do 01 Thẩm phán tiến hành (Điều 463). Nhằm giảm bớt
áp lực cho Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; đồng thời tạo thời gian hợp lý
để bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình; BLTTHS năm 2015 đã quy định thời
hạn xét xử sơ thẩm là 17 ngày, tăng 3 ngày so với quy định của BLTTHS hiện hành
(14 ngày).Trong tổng thời hạn xét xử sơ thẩm 17 ngày, thì BLTTHS năm 2015 đã tăng
thời hạn chuẩn bị xét xử từ 7 ngày lên 10 ngày; còn thời hạn từ lúc Thẩm phán có
quyết định đưa vụ án ra xét xử đến lúc mở phiên tòa vẫn giữ nguyên là 7 ngày như quy
định của BLTTHS hiện hành. Việc tăng thời hạn trong giai đoạn này sẽ hạn chế được
số án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Các trình tự, thủ tục khác tại phiên tòa sơ
thẩm được thực hiện theo thủ tục chung quy định trong BLTTHS năm 2015, nhưng có
điểm đáng chú ý là không có thủ tục nghị án, vì phiên tòa xét xử sơ thẩm do 01 Thẩm
phán tiến hành.
d) Những quyết định của Tòa án trong hoạt động chuẩn bị xét xử:
Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn: Việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo để ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho
xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có những
hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Do vậy, ngay
sau khi nhận được hồ sơ vụ án. Tòa án phải quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn;
thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đã được áp dụng nếu thấy biện pháp ngăn
chặn đang được áp dụng không cần thiết nữa; tiếp tục duy trì biện pháp ngăn chặn
đang được áp dụng đối với bị can, bị cáo nếu thấy cần thiết. Thay thế biện pháp ngăn
chặn đang được áp dụng bằng một biện pháp ngăn chặn khác. Biện pháp được thay thế
có thể ít nghiêm khắc hơn hoặc nghiêm khắc hơn.
Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài
sản có giá trị để đảm bảo. Đối với bị can đang tạm giam: Thời hạn tạm giam tính từ
ngày thụ lý hồ sơ vụ án, trong trường hợp khi nhận hồ sơ vụ án thời hạn tạm giam còn
lại không quá 5 ngày hoặc thời hạn tạm giam tính từ ngày tiếp theo của lệnh tạm giam
trước đó.


18


Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử. Đối với bị cáo
đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy
cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử ra lệnh tạm giam
cho đến khi kết thúc phiên tòa.
Đối với các quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, Tòa
án phải gửi ngay cho bị can, bị cáo và trại tạm giam nơi bị can, bị cáo đang bị tạm
giam thực hiện. Đồng thời với việc gửi các quyết định cho bị can, bị cáo người đại
diện hợp pháp và người bào chữa của họ thì Tòa án cũng phải gửi cho Viện kiểm sát
cùng cấp để thực hiện chức năng giám sát trong thời hạn luật định.
Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án (được quy định tại Điều 180
BLTTHS 2003): Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ có vai trò lớn trong việc giải quyết vụ án
hình sự trong một số trường hợp nhất định. Theo quy định thì thẩm quyền ra quyết
định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án hình sự là thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa.
Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận của Hội
đồng giám định pháp y thì có thể tạm đình chỉ vụ án. Trong trường hợp chưa xác định
được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu thì chỉ tạm đình chỉ vụ án hình sự.
Trong trường hợp đã trưng cầu giám định nhưng chưa có kết quả giám định thì tạm
đình chỉ điều tra và việc giám định vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.
Nếu không biết bị can đang ở đâu phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình
chỉ điều tra.
Trường hợp bị can, bị cáo bỏ trốn thì Tòa án yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã.
Nếu thời hạn chuẩn bị xét xử hết mà việc truy nã bị can vẫn chưa có kết quả thì Thẩm
phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án.
Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án khi người bị hại yêu cầu khởi tố vụ án
tự nguyện rút yêu cầu khởi tố trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm.

Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ xác
định người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ
án đã có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm

19


được đại xá; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết; trừ trường hợp tái
thẩm đối với người khác.
Thẩm phán cũng ra quyết định đình chỉ khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết
định truy tố trước khi mở phiên tòa. Theo Điều 181 BLTTHS thì Viện kiểm sát rút
quyết định truy tố khi xét thấy có một trong những căn cứ tại Điều 107 BLTTHS (Căn
cứ không khởi tố vụ án); có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự cho bị can quy định
tại Điều 19 BLHS (Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội) và Điều 25 BLHS (Miễn
trách nhiệm hình sự) hoặc khoản 2 Điều 69 BLHS (Người chưa thành niên phạm tội có
thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội
nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ
quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục).
Trường hợp nếu bị can đang bị tạm giam, thì Thư ký có nhiệm vụ soạn thảo
giúp thẩm phán quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam va trả tự do ngay cho bị can
trình Chánh án hoặc Phó Chánh án ký quyết định nếu họ không bị giam, giữ về hành
vi vi phạm pháp luật khác.
Tại BLTTHS 2015 thì tạm đình chỉ và đình chỉ đã được quy định rõ và chi tiết
thành hai Điều 281, 282. Bổ sung thêm trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà
căn cứ để đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả bị can, bị cáo thì có thể tạm đình
chỉ hoặc đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị cáo [24].
Quyết định đưa vụ án ra xét xử: Sau khi nghiên cứu hồ sơ nếu có đủ chứng cứ
để xét xử mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ
án thì Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong trường hợp Viện kiểm sát

đã điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án và hoàn trả hồ sơ nếu thấy không cần phải
trả hồ sơ điều tra bổ sung lần thứ hai hoặc trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung
được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Thẩm
phán cũng ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quyết định đưa vụ án ra xét xử làm thay
đổi tư cách tố tụng của bị can thành bị cáo.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử,
Tòa án phải mở phiên tòa; trong trường hợp có lý do chính đáng thì Tòa án có thể mở
phiên tòa trong thời hạn ba mươi ngày [31].

20


×