Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC THANH

KIỂM SÁT TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN
BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN
NGHỊ KHỞI TỐ TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC THANH

KIỂM SÁT TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN
BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN
NGHỊ KHỞI TỐ TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN ĐỨC HẠNH
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi
với sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Đức Hạnh. Các kết quả trình bày trong
Luận văn này là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất cứ cơng
trình khoa học nào trước đây. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn
đảm bảo tính chính xác và trung thực.
Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Học viện khoa học xã hội.
Tác giả

Nguyễn Ngọc Thanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT
VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN
NGHỊ KHỞI TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ............................. 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phạm vi, ý nghĩa kiểm sát tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố ................................................................................. 8
1.2. Phạm vi và ý nghĩa của kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân ................ 21
Chương 2. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN,
GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM, KIẾN NGHỊ KHỞI

TỐ TẠI QUẬN 1, TP. HỒ CHÍ MINH ....................................................... 27
2.1. Quy định của pháp luật về kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố ............................................................ 27
2.2. Thực trạng tố chức thực hiện các quy định về kiểm sát việc tiếp nhận và
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát
nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh ....................................................... 35
2.3. Hạn chế, tồn tại của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân Quận 1,
Tp. Hồ Chí Minh trong hoạt động kiểm sát việc việc tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ................................................ 43
2.4. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trên thực tiễn thực hiện
quy định về kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố ......................................................................................... 53
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ
GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ CỦA


VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỜI GIAN TỚI .................... 59
3.1. Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về kiểm sát việc tiếp nhận,
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố ........................... 59
3.2. Một số giải pháp, kiến nghị trong việc tổ chức thực hiện pháp luật nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố ............................................................................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS


Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

Cơ quan CSĐT

Cơ quan cảnh sát điều tra

ĐTV

Điều tra viên

KSV

Kiểm sát viên

THTT

Tiến hành tố tụng

THQCT

Thực hành quyền công tố

TTHS

Tố tụng hình sự


VKS

Viện kiểm sát

Viện KSND

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
Biểu đồ 2.1. Tổng số tố giác, tin báo về tội phạm Viện kiểm sát kiểm sát và
kết quả giải quyết từ năm (2015 – 2019)…………………………………....40
Biểu đồ 2.2. Tổng số tố giác, tin báo về tội phạm Viện kiểm sát kiểm sát việc
thụ lý và giải quyết qua các năm từ (2015 – 2019)……………………...….41
Biểu đồ 2.3. Cơ cấu tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo
nhóm tội trong giai đoạn (2015 – 2019) trên địa bàn Quận 1………………42


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố là một hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Đây là hoạt động mở đầu
của quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm phát hiện hành vi phạm tội. Trên
cơ sở tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, cơ quan có
thẩm quyền tiến hành kiểm tra, xác minh và xác định có dấu hiệu tội phạm
hay không để quyết định việc khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự.
Viện KSND là một trong bốn hệ thống cơ quan Nhà nước có chức năng
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Hoạt động này được

thực hiện ngay từ khi giải quyết tin báo về tội phạm. Do vậy, việc thực hiện
chức năng kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm của Viện KSND
có vị trí, vai trị và ý nghĩa trọng yếu để bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người
phạm tội đều được phát hiện và xử lý kịp thời, đúng pháp luật. Thực tiễn thực
hành quyền công tố cho thấy, nếu kiểm sát tốt việc giải quyết tố giác, tin báo
tội phạm sẽ quyết định chất lượng Cáo trạng, thực hành quyền công tố, kiểm
sát điều tra, kiểm sát xét xử. Kiểm sát tốt việc giải quyết tin báo và tố giác tội
phạm cũng sẽ giúp cho việc đồng ý hoặc hủy bỏ quyết định khơng khởi tố của
Viện KSND đối với CQĐT chính xác và có căn cứ.
Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của công tác kiểm sát việc giải
quyết tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố như đã nêu trên, trong
những năm qua, ngành KSND nói chung và Viện KSND Quận 1, Tp. Hồ Chí
Minh nói riêng đã hết sức quan tâm đến lĩnh vực công tác này và đã đề ra
nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát tin báo tội phạm.
Trước sự thay đổi của các điều kiện kinh tế xã hội, các loại tội phạm mới xuất
hiện đặt ra yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Để

1


tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố trong giai đoạn tiếp theo thì việc tiếp tục nghiên cứu các
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về công tác kiểm sát việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hết sức cần
thiết. Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Kiểm sát
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ thực
tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm vừa qua, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
Viện KSND trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề này, cụ thể
như: Giáo trình luật TTHS của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, NXB Hồng Đức; Giáo trình luật TTHS Việt Nam của trường Đại học
luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân; Giáo trình Kỹ năng thực hành quyền
cơng tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự của
trường Học Viện Tư Pháp; Bình luận khoa học BLTTHS Việt Nam năm
2015, NXB Chính trị Quốc gia…
Bên cạnh đó cịn có nhiều bài viết được cơng bố trên các sách, báo, tạp
chí chuyên ngành như: Bùi mạnh Cường (2017), “Những vấn đề cơ bản về
thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí Kiểm sát số 19; Lương Thị Thúy Dung (2017),
“Nâng cao chất lương, hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí
Kiểm sát số 19; Nguyễn Việt Hùng (2017), “Quan hệ phối hợp trong công tác
tiếp nhận, quản lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
điều tra, truy tố các vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát số 08; Nguyễn Thị Mai

2


Nga (2017), “Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm – Những khởi sắc mới” Tạp chí kiểm sát, số 06…
Ngồi ra, cịn có một số luận văn như: Dương Tiến Mạnh (2015), Kiểm
sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Ngọc Tĩnh (2019),
Thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng
Nam, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội; Phạm Viết Vượng (2013),
Cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố của Viện Kiểm sát nhân dân Tỉnh Thái Bình, Luận

văn thạc sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh…
Như vậy, vấn đề THQCT và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo,
tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã được các nhà nghiên cứu và những
người làm hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa
có đề tài nào nghiên cứu về công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn Quận 1, Thành phố
Hồ Chí Minh. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài "Kiểm sát tiếp nhận, giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ thực tiễn Quận 1, Thành phố
Hồ Chí Minh " là địi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có
tính thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát tiếp nhận,
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát
nhân dân nói chung cũng như của CQĐT trong quá trình giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt
động kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến

3


nghị khởi tố từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đưa ra một
số giải pháp nhằm hồn thiện và góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm
sát việc tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi
tố trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
- Nghiên cứu những quy định của pháp luật TTHS, Luật tổ chức Viện
KSND, Thông tư liên tịch hướng dẫn đối với công tác tiếp nhận, giải quyết tin

báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT và Viện KSND.
- Nghiên cứu, khảo sát thực trạng và rút ra nhận xét về hoạt động kiểm
sát của Viện KSND trong việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 2015 đến năm 2019, phát hiện những tồn tại, hạn chế của hoạt
động này và các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế.
- Đề ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm
sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
của Viện KSND.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật
TTHS Việt Nam cũng như thực tiễn hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận và giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về hoạt động kiểm sát việc tiếp
nhận và giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố của
CQĐT do Viện KSND thực hiện (Không nghiên cứu hoạt động kiểm sát việc

4


tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố do
Viện kiểm sát quân sự thực hiện).
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện các quy
định có liên quan đến hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tin báo
tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố của CQĐT từ năm 2015 đến năm 2019.
Về chủ thể, không gian: Những tin báo, tố giác về tội phạm và kiến
nghị khởi tố do Cơ quan CSĐT – Công an Quận 1 tiếp nhận giải quyết; Viện
KSND Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh kiểm sát hoạt động tiếp nhận và giải

quyết.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phép duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, cùng hệ thống các chủ trương, đường lối, quan
điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện KSND được thể hiện trong các văn kiện
của Đảng.
Phương pháp nghiên cứu Luận văn có sự kế thừa từ những kết quả
nghiên cứu liên quan đến hoạt động kiểm sát của Viện KSND trong giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của các cơng trình nghiên cứu
trước. Tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu trong luận văn
như: Phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; Phương pháp phân tích
và tổng hợp; Phương pháp thống kê, so sánh; Phương pháp tổng kết thực
tiễn… để tổng hợp các tri thức khoa học luật TTHS và luận chứng các vấn đề
tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về mặt lý luận:

5


Là cơng trình khoa học được nghiên cứu, phân tích toàn diện và sâu sắc
để làm sáng tỏ về mặt lý luận của hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo luật TTHS Việt
Nam.
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, có tính hệ thống và tương
đối toàn diện, tổng hợp các quan điểm khoa học trong nước về công tác kiểm
sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố
của Viện KSND từ đó tạo cơ sở áp dụng pháp luật thống nhất và có căn cứ.

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp xác định được khái niệm, nội dung
của hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm
và kiến nghị khởi tố, từ đó đưa ra những kiến nghị về mặt lập pháp nhằm xây
dựng và hoàn thiện quy định pháp luật TTHS về vấn đề này.
- Về mặt thực tiễn:
Qua nghiên cứu thực tiễn công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn Quận 1, Thành
phố Hồ Chí Minh, luận văn đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện công tác kiểm sát này. Kết quả
nghiên cứu của luận văn giúp cho các Cơ quan THTT, các cán bộ, KSV làm
công tác thực tiễn xác định, áp dụng đúng đắn trình tự, thủ tục trong công tác
tiếp nhận và giải quyết tin báo tội phạm. Bên cạnh đó, tác giả cũng hy vọng
luận văn có thể được sử dụng trong cơng tác giảng dạy của cơ sở đào tạo
chuyên ngành luật nói chung và cơ sở đào tạo chuyên sâu của nghành kiểm
sát nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo. Nội dung của đề tài gồm có 3 chương:

6


Chương 1. Những vấn đề lý luận về kiểm sát tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân
Chương 2. Thực tiễn hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
của Viện kiểm sát nhân dân trong thời gian tới.


7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT TIẾP NHẬN VÀ GIẢI
QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI
TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm của kiểm sát tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
1.1.1. Khái nhiệm kiểm sát tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố
Để có thể đưa ra được một khái niệm khoa học, đầy đủ và có tính chính
xác về hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố của Viện KSND, trước hết, cần thiết phải làm rõ
một khái niệm gần kề như: “tố giác về tội phạm”, “tin báo về tội phạm”, “kiến
nghị khởi tố”, “kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự”…
Để làm rõ khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
chúng ta cần hiểu và làm rõ khái niệm tố giác, tin báo, kiến nghị. Dưới góc độ
ngơn ngữ học các thuật ngữ: Tố cáo, Tin báo, tố giác, kiến nghị được hiểu là:
Khái niệm “Tố cáo” được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, tố cáo là báo
cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm
pháp nào đó. Thứ hai, tố cáo là vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho
mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn [9, tr.1199].
Khái niệm “Tố giác” hiểu là báo cho cơ quan chính quyền biết người
hoặc hành động phạm pháp nào đó [9, tr.1200].
Khái niệm “Tin” hiểu là điều được truyền đi, báo đi cho biết sự việc, tình
hình xảy ra [9, tr.1183].

8



Khái niệm “Báo” được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất là, cho biết việc gì
đó đã xảy ra. Thứ hai là, cho người có trách nhiệm nào đó biết về việc xảy ra
có thể hại đến trật tự an ninh chung… là dấu hiệu biết trước [9, tr.342].
“Kiến nghị” được hiểu là nêu ý kiến về một vấn đề, một cơng việc để cơ
quan có thẩm quyền xem xét, tìm ra giải pháp xử lý đúng đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Trên bình diện pháp lý tố giác về tội phạm, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố được quy định tại Điều 144 BLTTHS 2015:
“1.Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có
dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.
2.Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do
cơ quan, tổ chức, cá nhân thơng báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông
tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.
3.Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị
bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm”.
Từ quy định của BLTTHS có thể đưa ra khái niệm Tin báo về tội phạm
là những thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan,
tổ chức cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền, người có trách nhiệm tiếp nhận,
thụ lý giải quyết về hành vi có dấu hiệu tội phạm; Tố giác về tội phạm là
những thơng tin do cá nhân có danh tính, có địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ
quan có thẩm quyền, người có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết về hành vi có
dấu hiệu tội phạm; Kiến nghị khởi tố là những sự việc có dấu hiệu tội phạm
do các cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát hiện và có
văn bản kiến nghị đến CQĐT, VKS xem xét khởi tố vụ án hình sự.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố là những thông tin có dấu hiệu tội phạm được quy định

9



trong BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 do cá nhân, cơ quan, tổ
chức cung cấp bằng các hình thức khác nhau hoặc thơng tin về tội phạm được
truyền tải trên các phương tiện thông tin đại chúng để các cơ quan có thẩm
quyền và người có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết theo quy định của
BLTTHS năm 2015.
Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện KSND năm 2014 quy định
Viện KSND có chức năng, nhiệm vụ THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Đây là chức năng hiến định của Viện KSND, thuật ngữ “kiểm sát hoạt động
tư pháp” đã xuất hiện trong các văn kiện của Đảng lần thứ IX trong Nghị
quyết của Bộ chính trị… tuy nhiên, các nhà lập pháp nước ta chưa đưa ra
được một định nghĩa pháp lý cụ thể về “kiểm sát hoạt động tư pháp”, dẫn đến
nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau về khái niệm này.
Theo tác giả, kiểm sát các hoạt động tư pháp là sự giám sát các hoạt
động của các cơ quan tư pháp trong q trình THTT với mục đích là nhằm
bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá
trình giải quyết các vụ, việc. Bản chất của chức năng này trong TTHS là kiểm
sát tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi của các cơ quan có thẩm
quyền THTT.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm chung nhất về kiểm sát các hoạt động
tư pháp trong TTHS là việc giám sát trực tiếp các hoạt động của các cơ quan
tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp
luật TTHS được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.
Viện KSND là một cơ quan thuộc hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước
với chức năng, nhiệm vụ là “Viện KSND thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp”. Viện kiểm sát THQCT và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTHS nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được
phát hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời; việc khởi tố, chứng minh, điều tra, truy


10


tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội,
không để lọt tội phạm và người phạm tội.
Luật tổ chức Viện KSND năm 2014 quy định chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp trong đó có cơng tác kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiểm sát hoạt động điều tra là hoạt động của Viện
KSND để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp nói chung, kiểm sát tính hợp pháp của
các hành vi, quyết định của CQĐT, một số cơ quan khác có nhiệm vụ tiếp
nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi,
quyết định của người có thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết nguồn tin về tội
phạm. Công tác tiếp nhận và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm là một trong những hoạt động quan trọng trong việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành KSND. Qua việc thực hiện tốt công tác
này, Viện KSND mới có cơ sở để đảm bảo các hoạt động tiếp nhận và giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra, của người có thẩm quyền tiếp nhận và
giải quyết nguồn tin đúng quy định của pháp luật, có căn cứ, khách quan và
tồn diện.
Theo pháp luật TTHS hiện hành, chỉ có một loại chủ thể có chức năng
kiểm sát việc giải quyết tin báo tố giác tội phạm, đó là VKS. Khoản 2 Điều
160 BLTTHS năm 2015 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc
tiếp nhận và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm: "Kiểm sát việc
tiếp nhận, trực tiếp kiểm sát, kiểm sát việc kiểm tra, xác minh và việc lập hồ
sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm của CQĐT…". Như vậy theo BLTTHS
2015, kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố đối với VKS là một chức năng, một nghĩa vụ luật định.


11


Căn cứ vào các quy định của Hiến pháp, pháp luật TTHS hiện hành,
Luật Tổ chức Viện KSND thì cơng tác kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là việc Viện KSND sử dụng
tổng hợp quyền năng pháp lý thuộc nội dung công tác kiểm sát do pháp luật
TTHS quy định để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cơ
quan, tổ chức khác và người có trách nhiệm trong việc tiếp nhận và giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nhằm bảo vệ Hiến pháp, bảo
vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất.
Từ khái niệm trên cho thấy, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động giám sát liên tục, cụ thể,
toàn diện và trực tiếp các hoạt động của CQĐT thực hiện trong suốt quá trình
tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy
định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân
Thứ nhất, về giai đoạn tố tụng hình sự phát sinh và chủ thể tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được pháp luật quy
định là những cơ sở để xác định có dấu hiệu tội phạm hay khơng. Do đó, cơ
quan có thẩm quyền THTT muốn khởi tố vụ án hình sự, phát động những
quan hệ TTHS phải bắt đầu từ những tin tức về tội phạm được chính thức
thơng báo chứ khơng phải là những lời đồn đại khơng có căn cứ. Tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là cơ sở để cơ quan cốó thẩm quyền tiến


12


hành xác minh về vụ việc, xem xét có hay khơng có dấu hiệu của tội phạm và
hành vi phạm tội xảy ra. Như vậy, việc khởi tố vụ án hình sự chỉ được thực
hiện khi đã xác định dấu hiệu của tội phạm và ngược lại, khi đã xác định dấu
hiệu tội phạm, nếu không thuộc trường hợp không khởi tố vụ án hình sự thì
cơ quan có thẩm quyền THTT phải khởi tố vụ án hình sự để điều tra làm rõ.
Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên 06 căn cứ: Tố giác của các nhân;
Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Tin báo trên phương tiện thông tin đại
chúng; Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; Cơ quan có thẩm quyền
THTT trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; Người phạm tội tự thú. Từ đó có
thể khẳng định, tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được pháp
luật TTHS quy định là giai đoạn tiền tố tụng, đây là những căn cứ, thơng tin
ban đầu có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác điều tra, xác minh sự
thật của CQĐT, là cơ sở quan trọng để bắt đầu các giai đoạn tố tụng tiếp theo
của tiến trình giải quyết vụ án hình sự.
Tố giác về tội phạm là sự tố cáo của công dân về những hành vi nào đó
mà họ cho rằng đó là tội phạm. Cơng dân có quyền và nghĩa vụ tố cáo về
hành vi vi phạm pháp luật hình sự mà họ biết với các cơ quan, tổ chức; Tin
báo về tội phạm được hiểu là thông tin, báo cáo của các cơ quan, tổ chức với
CQĐT, VKS, Tòa án về những hành vi, vụ việc đã xảy ra mà các cơ quan, tổ
chức đó cho là tội phạm; Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan
cho CQĐT, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu
tội phạm
Như vậy, có thể hiểu là chỉ có cá nhân – là người phát hiện (có thể chính
là bị hại hoặc người chứng kiến hành vi có dấu hiệu phạm tội xảy ra) mới có
thể là chủ thể tiến hành tố giác về tội phạm. Còn tin báo về tội phạm có thể do

cơ quan, tổ chức hay các cá nhân thơng báo cho cơ quan có thẩm quyền hoặc

13


thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại, nghĩa là chỉ cần có thơng
tin về vụ việc (được nghe lại, kể lại từ người khác…) có dấu hiệu phạm tội là
có thể tiến hành thơng báo cho cơ quan có thẩm quyền hoặc thơng tin. Chủ
thể của kiến nghị khởi tố là các cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của
mình phát hiện thấy có dấu hiệu tội phạm đã kiến nghị bằng văn bản và gửi
kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho CQĐT, VKS có thẩm quyền xem
xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
Thứ hai, về nội dung và cách thức thực hiện việc tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố
Nội dung tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là những hành
vi có dấu hiệu tội phạm, cụ thể là những hành vi có dấu hiệu vi phạm các
quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật hình sự quy định và bảo vệ. Các
hành vi có dấu hiệu tội phạm đó có thể xâm phạm đến chủ quyền quốc gia, an
ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân
dân, quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức, trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa… cụ thể hơn nữa là các hành vi xâm phạm đến độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp
pháp của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa được quy định trong BLHS của nước Việt Nam. Nội dung các
tố giác, tin báo về tội phạm hay kiến nghị khởi tố rất phong phú, nên tác giả
các lĩnh vực như: tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc lĩnh
vực an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự

của con người, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, xâm phạm trật tự quản lý
hành chính, kinh tế, tham nhũng, ma túy, mơi trường…

14


Pháp luật quy định cơng dân có thể tố giác tội phạm với CQĐT, VKS,
Toà án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức khác. Không chỉ các cơ quan Tòa
án, Viện kiểm sát, CQĐT, mà điều luật còn quy định bất kể là cơ quan, tổ
chức nào khi công dân tố giác tội phạm đều có trách nhiệm tiếp nhận và
không được phép từ chối tiếp nhận tố giác về tội phạm của công dân. Pháp
luật quy định như vậy nhằm tạo điều kiện cho cơ chế thông tin về tội phạm
được nhanh chóng, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia rộng rãi và thuận tiện
vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời nâng cao trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức trong việc đấu tranh với tội phạm, bảo vệ trật tự, an
toàn cho xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Cũng theo
quy định này, cơng dân có thể tố giác tội phạm bằng các hình thức như văn
bản hay tố giác bằng miệng, nếu công dân tố giác tội phạm bằng miệng thì cơ
quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản tiếp nhận. Bên cạnh đó, các tố giác
được gửi qua đường bưu chính thì các cơ quan có trách nhiệm theo quy định
của pháp luật vẫn phải tiến hành tiếp nhận, xem xét thụ lý, giải quyết. Do
khác nhau về tính chất và chủ thể thực hiện nên về hình thức, tố giác, tin báo
về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản, tuy nhiên kiến nghị khởi tố
phải bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền gửi tới CQĐT, VKS.
Như vậy, pháp luật quy định rất nhiều phương thức để các cá nhân, tổ
chức thuận tiện trong việc tố giác, tin báo về tội phạm. Bảo đảm cho việc tố
giác tội phạm của công dân được thuận lợi, thúc đẩy việc phát hiện, tố giác
các hành vi vi phạm pháp luật trong xã hội được kịp thời.
Thứ ba, về chủ thể thực hiện kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định Viện
KSND là cơ quan duy nhất được Hiến pháp trao cho chức năng kiểm sát các

15


hoạt động tư pháp:“VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp”.
Trải qua các thời kì khác nhau thì chức năng và quyền hạn của Viện
KSND cũng có những thay đổi khác nhau nhưng về cơ bản Viện KSND vẫn
được tin tưởng giao cho hai chức năng Hiến định cơ bản là chức năng
THQCT và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Mỗi giai đoạn TTHS sẽ có những cơ quan THTT đặc thù có nhiệm vụ,
quyền hạn trong quá trình giải quyết vụ án, như ở giai đoạn điều tra là CQĐT,
giai đoạn xét xử là Tịa án… Tuy nhiên, có một cơ quan đặc biệt, tham gia
tồn bộ các giai đoạn TTHS đó là cơ quan VKS. VKS tham gia vào việc giải
quyết vụ án hình sự từ giai đoạn có tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố cho đến khi vụ án được giải quyết xong (thi hành án xong). TTHS
Việt Nam hiện hành quy định VKS có chức năng THQCT ở giai đoạn giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm, giai đoạn điều tra và xét xử vụ án hình sự.
Đồng thời VKS cịn có chức năng kiểm sát các hoạt động tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT,
kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án, bên cạnh đó cịn kiểm sát hoạt động
của các tổ chức, cá nhân khác khi tham gia vào các giai đoạn tố tụng.
BLTTHS năm 2015 đã có những quy định chi tiết về chức năng THQCT
và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố. Qua đó, thấy được vai trị của VKS đối với công tác kiểm sát việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT, cơ
quan được giao thực hiện một số hoạt động điều tra. Điều đó thể hiện việc
kiểm sát tin báo được thực hiện ngay từ giai đoạn ban đầu nhằm đảm bảo việc

tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của
CQĐT được kịp thời, đầy đủ và đúng pháp luật.

16


VKS kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và
kiến nghị khởi tố là một trong những nội dung đầu tiên trong công tác kiểm
sát hoạt động tư pháp của Viện KSND. Viện KSND kiểm sát hoạt động tư
pháp, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến
nghị khởi tố nhằm bảo đảm việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Cụ
thể chủ thể thực hiện kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố là Phó Viện trưởng VKS, KSV, Kiểm tra viên
được phân công thực hiện khâu công tác này.
Tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là những cơ sở để xác
định có dấu hiệu tội phạm, làm căn cứ để khởi tố, điều tra và xử lý vụ án hình
sự, việc giao chức năng kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm và kiến nghị khởi tố cho Viện KSND thể hiện sự hợp lý về mặt lý
luận cũng như trong thực tiễn đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Trách nhiệm của VKS là phải kiểm sát ngay từ khi tiếp nhận tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nhằm đáp ứng yêu cầu cơng tác đấu
tranh phịng, chống tội phạm là mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện
và xử lý kịp thời theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ tư, về đối tượng bị kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Kiểm sát trong TTHS nói chung là kiểm sát hoạt động tố tụng của cơ
quan THTT, người THTT vả người tham gia tố tụng.
Đối tượng của công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động tuân theo pháp luật trong

quá trình tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi
tố của các cơ quan có thẩm quyền và người có thẩm quyền theo quy định của
luật TTHS .

17


Pháp luật tố tụng hình sự quy định cụ thể trách nhiệm tiếp nhận và thẩm
quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Theo đó mọi tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết kịp thời.
Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận khơng được từ chối tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Cơ quan tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm
đó là: CQĐT trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân; CQĐT của Viện
KSND tối cao; CQĐT của VKS quân sự Trung ương; cơ quan Hải quan; lực
lượng Cảnh sát biển; Bộ đội Biên phòng; cơ quan Kiểm lâm và các cơ quan
khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực
quản lý mà tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm thuộc quyền hạn điều tra của
cơ quan mình thì tiến hành giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm đó. Tương
ứng với hệ thống các cơ quan trên là hoạt động của người THTT là Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, ĐTV, cấp trưởng, cấp phó cán bộ điều tra
thuộc Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm
ngư...
Như vậy, đối tượng bị kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động tuân theo pháp luật của hệ
thống CQĐT và các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra
cùng hành vi, quyết định tố tụng của những người THTT trong việc tiếp nhận
và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Trên cơ sở tiếp
nhận tin báo, tố giác, cơ quan có thẩm quyền xác định có dấu hiệu tội phạm

hay không để quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Trách
nhiệm của VKS trong cơng tác này là kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, bảo đảm việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
tội phạm của CQĐT phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật và đầy đủ; bảo

18


×