Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Một số vấn đề ngôn ngữ trong sách sổ sang chép các việc của philiphe bỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.97 MB, 73 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐẶNG VĂN HÀO

MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGÔN NGỮ TRONG
“SÁCH SỔ SANG CHÉP CÁC VIỆC”
CỦA PHILIPHE BỈNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 1997



LỜI CẢM ƠN

Chúng tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành nhất đối với thầy Hoàng Dũng, người đã
hướng dẫn, giúp đỡ chúng tơi hồn thành luận văn khoa học này.
Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cơ, bằng hữu đã có những ý kiến đóng
góp quý báu cho luận văn. Cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, Phòng Quản lý Khoa học
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Trường CĐSP Tây Ninh đã động viên
và tạo điều kiện cho chúng tôi trong quá trình thực hiện.

Tây Ninh, tháng 12 – 1997

3


MỤC LỤC


LỜI CẢM ƠN .........................................................................................................................3
MỤC LỤC ...............................................................................................................................4
PHẦN MỞ ĐẦU .....................................................................................................................6
1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI: ................................................................................................6
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ...............................................................................7
3. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN. ........................................................................................8
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN ...............................................................8
4.1. Phương pháp thống kê miêu tả: ...............................................................................8
4.2. Phương pháp so sánh lịch sử : .................................................................................8
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................................................9
6. KẾT CẤU LUẬN ÁN: .....................................................................................................9
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM..................................................11
1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHỮ QUỐC NGỮ. ..................................................11
1.2. TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM. ........................................................................................14
1.2.1. Vài nét về tác giả: ................................................................................................14
1.2.2. Sơ lược về tác phẩm: ...........................................................................................15
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGỮ ÂM TRONG S.S.S .............................................17
2.1. VẤN ĐỀ ÂM ĐẦU .....................................................................................................17
2.1.1. Tổ hợp phụ âm. ....................................................................................................18
2.1.2. Âm xát hai môi /β/ thời ALECXANDRE DE RHODES đến S.S.S thì khơng cịn
xuất hiện nữa mà đồng loạt thay đổi cách ghi ϕ thành ν: ............................................25
2.1.3. Một điều cũng đáng lưu ý nữa, S.S.S cịn có hiện tượng tác giả sử dụng cách ghi
lẫn lộn giữa một số âm với nhau vốn trước đó đã khu biệt rõ ràng..............................25
2.1.4. Về cách ghi âm /k/, S.S.S dùng ba con chữ k, c, q như cách ghi tiếng Việt hiện
đại, nhưng khảo sát các trường hợp cụ thể xuất hiện, ta phát hiện một số khác biệt. ..27
2.1.5. Chữ viết ng, ngh ghi âm/η/ hoàn toàn ổn định theo quy luật một cách chặt chẽ:
.......................................................................................................................................29
2.1.6. Về mặt đồ hình (GRAPHIC) ................................................................................29
2.2. VẤN ĐỀ PHẦN VẦN ................................................................................................31
4



2.2.1. Về phần vần: ........................................................................................................31
2.2.2. Hình thức chữ viết: ..............................................................................................32
2.2.3. Vần có âm đệm w: ...............................................................................................34
2.2.4. Ở S.S.S có một hình thức phổ biến được tác giả sử dụng đồng loạt, đó là dùng
chữ ão để ghi vần ong và aoc để ghi vần oc .................................................................35
2.2.5. Vần ây được tác giả dùng hai hình thức chữ viết để thể hiện : êy và ây trong một
số trường hợp : ..............................................................................................................38
2.2.6. Ta còn gặp trường hợp ngoại lệ khác là trường hợp nguyên âm ơ khi đứng sau
âm đệm được S.S.S ghi bằng con chữ "â" dù đó là âm tiết mở. ....................................39
2.3. THANH ĐIỆU: ..........................................................................................................45
2.4. CHÍNH TẢ .................................................................................................................47
1.4.1. Vấn đề viết hoa ....................................................................................................47
2.4.2. Viết hoa tên riêng nước ngoài: ............................................................................48
2.4.3. Viết tắt: ................................................................................................................48
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỪ VỰNG..............................................................50
3.1. VỐN TỪ......................................................................................................................50
3.1.1. Lớp từ cổ: ............................................................................................................50
3.1.2. Vấn đề từ đơn, từ ghép, từ láy .............................................................................59
3.2. VẤN ĐỀ THÀNH NGỮ: ...........................................................................................62
3.2.1.Thành ngữ thuần Việt: ..........................................................................................62
3.2.2. Thành ngữ gốc Hán: ............................................................................................64
CHƯƠNG 4: VẤN ĐỀ VỀ NGỮ PHÁP (LOẠI TỪ)........................................................66
PHẦN KẾT LUẬN ...............................................................................................................68
THƯ MỤC ............................................................................................................................71

5



PHẦN MỞ ĐẦU

1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI:
Nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, bên cạnh việc điều tra các phương thổ ngữ tiếng Việt và
ngơn ngữ các dân tộc có liên quan, cịn có một hướng khác: tìm hiểu qua thư tịch.
Nước ta có một kho thư tịch, văn bia vô cùng quý báu bằng chữ Hán, chữ Nôm và
bằng chữ quốc ngữ.
Để nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, đã có khá nhiều nhà nghiên cứu trong và ngồi nước
đi sâu vào mảng thư tịch, văn bia viết bằng chữ Hán và chữ Nơm, có thể kể đến như “Lê
Qn – 1981”, "Nguyễn Tài Cẩn - 1995". Việc tìm hiểu lịch sử tiếng Việt qua thư tịch, chữ
quốc ngữ tuy đã được một số người như Thanh Lãng - 1968, Đỗ Quang Chính 1972 ... xúc
tiến, nhưng có thể nói ngay rằng là cịn q ít ỏi, chưa được quan tâm đúng mức. Điều này
phải chăng là do những thư tịch này chưa quá xa với thời kỳ lịch sư hiện đại? Việc tìm
kiếm, nghiên cứu chúng khơng q khó khăn như các thư tịch cổ (Thư tịch Hán và Nơm)?,
V.V..
Những lý do ấy đều có khía cạnh đúng của chúng. Tuy nhiên, sự biến đổi của một
ngôn ngữ như tiếng Việt chẳng hạn là một chuỗi thay đổi liên tục trong lịch sử. Không quan
tâm nghiên cứu tiếng Việt qua các thư tịch viết bằng chữ quốc ngữ ở thời kỳ đầu của nó e
rằng là một khiếm khuyết bởi bỏ qua một mắt xích trong tiến trình phát triển của tiếng Việt.
Có lẽ vì thế gần đây một số nhà nghiên cứu đã bỏ công nghiên cứu tiếng Việt qua từ điển và
"Phép giảng tám ngày" của ALECXANDRE DE RHODES, một số tư liệu viết tay của Văn
Tín, BENTO THIỆN, 1659 .v.v...
Trong số những thư tịch viết bằng chữ quốc ngữ có một tài liệu đã được một số nhà
nghiên cứu như : Đỗ Quang Chính, Thanh Lãng cho là rất quan trọng nhưng chưa được
nghiên cứu đúng mức, đó là Sách sổ sang chép các việc (từ đây xin viết tất S.S.S) của
PHILIPHÊ BỈNH (1822).
Vị trí, tầm quan trọng của S.S.S không chỉ là ở độ dày trên 600 trang của nó (600 trang
có thể khơng nói được gì nhiều về chính trị, xã hội, văn hóa nhưng về phương diện ngôn

6



ngữ là một tư liệu quý) mà còn chủ yếu là những vấn đề ngôn ngữ hàm chứa ngay trong
cuốn sách.
Khai thác triệt để s.s.s trong sự so sánh với các tác phẩm trước và sau nó, người ta vừa
có thể thấy được những khía cạnh về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt chứa trong s.s.s
vừa có thể lý giải được một số khía cạnh về đặc điểm tiếng Việt.
Luận án đi sâu tìm hiểu s.s.s xuất phát từ những ý nghĩa ấy.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Tài liệu về chữ quốc ngữ từ thời kỳ đầu bắt nguồn hình thành cho đến cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX có thể nói là rất hiếm hoi, bởi vì giai đoạn này nó là loại chữ viết chỉ
phổ biến trong khuôn khổ nhà thờ công giáo. Trong số các tài liệu hiếm hoi đó phải kể đến
quyển S.S.S của PHILIPHÊ BỈNH. Tác phẩm được Thanh Lãng in chụp lại như nguyên
bản, sau đó giới thiệu và được Viện đại học Đà Lạt xuất bản tại Sài Gòn năm 1968.
S.S.S được tác giả viết năm 1822, về mặt ngơn ngữ có thể xem như là tài liệu hiếm. Vì
vậy, các nhà nghiên cứu đã khai thác nhiều mặt: ngữ âm lịch sử; ngữ pháp, chữ viết...
Văn bản này thể hiện được nhiều ưu điểm riêng mà những tài liệu khác khơng có, bởi
vì trước đó có những tài liệu khác nhưng đa số là tự điển mang tính điển chế. Nếu có văn
bản thì thường khơng tồn diện, ngắn như Phép giảng tám ngày của ALECXANDRE DE
RHODES, một số tài liệu viết tay của Văn Tín, BENTO THIỆN 1659 ...
S.S.S có vị trí quan trọng thu hút nhiều nhà nghiên cứu quan tâm vì được viết bằng
chữ quốc ngữ vào thời điểm đầu thế kỷ XIX. Nó được xem như cứ liệu để so sánh lịch sử
ngôn ngữ.
Tuy có tầm quan trọng đối với lịch sử như đã nêu trên nhưng cho đến nay nhiều nhà
ngôn ngữ chỉ nghiên cứu từng khía cạnh riêng lẻ hay điểm qua chứ chưa có cơng trình hồn
hảo về tài liệu q này. Cụ thể về ngữ âm có một số bài viết của Nguyễn Thị Bạch Nhạn
1994, Hoàng Dũng 1995, Nguyễn Phương Trang 1996... về ngữ pháp có một số bài về loại
từ của Đinh Văn Đức, Lê Trung Hoa ... Như vậy, chỉ duy nhất có cơng trình của Thanh
Lãng 1968, viết có tính chất đầy đủ hơn cả nhưng vẫn còn ở dạng giới thiệu chứ chưa đi sâu

phân tích những vấn đề ngơn ngữ thể hiện trong văn bản.
Riêng ở miền Nam có cơng trình: Cách viết chữ quốc ngữ của PHILIPHÊ BỈNH qua
quyển S.S.S của Nguyễn Văn Sâm 1972, được đưa vào giảng dạy ở Đại học Văn Khoa Sài
Gịn. Bài viết này cũng cịn mang tính khái quát chưa có giá tri thực tế cao và các quan điểm
lý giải có tính chủ quan.
7


Mặc dù vậy, nhưng những vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm mức độ nào cũng
thể hiện giá trị đích thực của tác phẩm này. Đồng thời hiểu rõ đây là văn bản đầu tiên có
tính hồn chỉnh về mặt ngôn ngữ, phản ánh hiện trạng chữ quốc ngữ vào cuối thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX theo hướng riêng, mang dấu ấn phương ngữ Đàng Ngoài.
Điểm qua các cơng trình nghiên cứu, có thể nhận thấy một cách khách quan là chưa có
một cơng trình nào nghiên cứu đầy đủ các vấn đề ngôn ngữ trong S.S.S. Vì vậy đề tài này sẽ
cố gắng nghiên cứu đầy đủ hơn về một số vấn đề ngôn ngữ trong văn bản, như ngữ âm, từ
vựng, một phần ngữ pháp trên cơ sở thống kê miêu tả, so sánh đối chiếu đối với các tác
phẩm trước và sau đó.

3. ĐĨNG GÓP CỦA LUẬN ÁN.
1. Luận án nhằm giới thiệu đầy đủ cho sinh viên một văn bản hiếm có bằng chữ quốc
ngữ vào thời kỳ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Qua đó giúp cho bạn đọc hình dung
tương đối đầy đủ hệ thống những vấn đề ngôn ngữ trong S.S.S.
2. Từ đó góp thêm một ít tư liệu cho việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, có cơ sở đánh
giá đúng hơn tác dụng của các văn bản tiếng Việt bằng chữ quốc ngữ ở thời kỳ đầu.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN
Thực hiện đề tài này sử dụng hai phương pháp chính :
- Thống kê miêu tả
- So sánh lịch sử.


4.1. Phương pháp thống kê miêu tả:
Sử dụng phương pháp thống kê miêu tả, chúng tơi tiến hành sự thể hiện của một số
hình thức chữ quốc ngữ được sử dụng trong S.S.S. Căn cứ vào thành tựu của ngành ngữ âm
học lịch sử, người viết cố gắng làm rõ mối quan hệ giữa hình thức chữ viết với hệ thống ngữ
âm trong văn bản.
Về phương diện từ vựng, ngữ pháp, luận án thống kê miêu tả tỉ mỉ những từ cổ, từ địa
phương. Các thành ngữ và về một hiện tượng ngữ pháp(loại từ) khác biệt so với ngày nay.

4.2. Phương pháp so sánh lịch sử :
Sau khi thống kê, miêu tả những hiện tượng về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp được thể
hiện trong S.S.S luận án tiến hành so sánh đối chiếu với các tư liệu chữ quốc ngữ có trước
đó như :
8


- Phép giảng tám ngày và Từ điển Việt-Bồ-La của ALECXANDRE DE
RHODES(1651)
- Từ điển Việt-La của PIGNEAU DE BÉHAINE (1772) và một số văn bản viết tay của
các linh mục nước ngoài và trong nước như : CRISTOPORO. BORRI (1621)... Văn Tín.
Benlo Thiện (1659)... và sau đó như:
- Nam Việt Dương hiệp tự vị của J.L.TABERD (1838)
- Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh PAULUS Của (1895)

5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ
pháp) được thể hiện trong S.S.S PIIILIPHÊ BỈNH.
Luận án phân tích làm rõ một số biểu hiệu về ngữ âm sự tồn tại các tổ hợp phụ âm bl,
ml, một số vần hiếm thấy trong lịch sử ngữ âm tiếng Việt (uâ, uyê, ươ ...) hay dấu phụ về từ
vựng, luận án cố gắng làm rõ nguồn gốc những từ cổ hay từ Hán Việt mà ngày nay khơng
dùng hoặc ít dùng. Về ngữ pháp do những giới hạn của một luận án bậc cao học, luận án xin

tự giới hạn vào một vấn đề loại từ.
Qua tất cả những gì đã phân tích, người viết muốn chứng minh S.S.S là tư liệu quý giá
về mặt ngôn ngữ. Tác phẩm này đã góp phần phản ánh nhiều về mặt hiện trạng tiếng Việt
(nói chung) và chữ Quốc ngữ (nói riêng) ở một thời điểm cụ thể và vùng phương ngữ cụ thể

6. KẾT CẤU LUẬN ÁN:
Luận án có : gồm 76 trang chính và 4 trang thư mục tham khảo. Sau phần mở đầu
(trình bày ý nghĩa đề tài, lịch sử nghiên cứu, đóng góp của luận án, phương pháp nghiên
cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu), luận án chia thành 4 chương.
Trước khi trình bày các kết quả nghiên cứu cụ thể, luận án dành chương 1 để giới thiệu
vài nét về tác giả và tác phẩm S.S.S. Cũng như điểm lại quá trình hình thành và phát triển
chữ quốc ngữ.
Chương 2 phân tích những đặc trưng ngữ âm thể hiện qua âm đầu, phần vần và thanh
điệu, chương này cũng dành sự quan tâm đúng mức cho những vấn đề chính tả thể hiện
trong S.S.S
Chương 3 xem xét những vấn đề từ vựng, trước hết là vốn từ cổ trong S.S.S. Người
viết còn lưu ý phân tích những đặc trưng đáng lưu ý của các loại từ đơn, từ ghép, từ láy

9


trong S.S.S so với tiếng Việt ngày nay. Chương này còn cung cấp tư liệu về các thành ngữ
Việt và Hán sử dụng trong S.S.S.
Chương cuối cùng dành cho vấn đề ngữ pháp. Do những giới hạn chủ quan và khách
quan, luận án chỉ phác thảo một số nét, chung quanh loại từ trong S.S.S.

10


CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM


1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHỮ QUỐC NGỮ.
Trải qua 1000 năm đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc, người Việt Nam
chúng ta đã phải học và sử dụng chữ Hán. Chữ Hán được dùng như là thứ chữ duy nhất
trong công văn giấy tờ của các triều đại phong kiến, trong nhà trường, trong sáng tác thơ
văn ... Vào khoảng thế kỷ thứ IX -X, một số nho sĩ với tinh thần tự cường dân tộc đã sáng
tạo ra chữ Nôm. Chữ Nôm được tạo ra trên cơ sở chữ Hán. Một số vua chúa như Nguyễn
Huệ, đã có ý thức đề cao chữ Nơm, dùng chữ Nơm trong công văn giây tờ Nhà nước. Song
việc học chữ Nơm, sử dụng chữ Nơm vơ cùng khó khăn, nên tuổi thọ của nó khơng bao
năm. Có thể nói, trong một thời gian rất dài, cho đến cuối thế kỷ XVI, người Việt Nam
chúng ta chỉ quen với chữ Hán.
Mãi cho đến khi xuất hiện các nhà truyền giáo phương Tây (các giáo sĩ người Pháp,
Bồ Đào Nha ...) người Việt Nam chúng ta mới biết và dùng một thứ chữ mới: chữ quốc ngữ,
Chữ quốc ngữ theo một số nhà nghiên cứu như : Nguyễn Khắc Xuyên 1959, Thanh
Lãng 1961, Đỗ Quang Chính, 1972 được hình thành vào khoảng đầu thế kỷ XVII do các
nhà truyền đạo Thiên chúa nước ngoài. Họ đến Việt Nam hàng loạt ở Đàng Trong lẫn Đàng
Ngồi với mục đích truyền đạo. Để thành công, các linh mục này phải học tiếng Việt sau đó
dùng chữ cái Latinh để ghi âm. Từ đó, chữ quốc ngữ đầu tiên được ra đời. Thật ra, (theo
Nguyễn Khắc Xuyên) sự chế tác chữ quốc ngữ nầm trong bối cảnh chung về cơng cuộc
Latinh hóa một số ngơn ngữ ở Đông Nam Á. Đa số các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng
việc sáng tạo chữ quốc ngữ do cơng trình kế tục của nhiều nhà tmyền giáo Bồ Đào Nha, Ý,
Pháp trong đó vai trị của ALECXANDRE DE RHODES là đặc biệt quan trọng.
Buổi đầu, do việc ghi âm tiếng Việt chưa được thống nhất giữa các giáo sĩ có quốc tịch
khác nhau, mỗi người ghi một cách theo sự phiên âm của mình(1). Về sau họ mới xây dựng
được chữ viết tương đối thống nhất. Chữ quốc ngữ ngày nay chính là chữ viết đã được các
nhà truyền đạo Dịng Tên nước ngồi tự học mà sáng tạo nên, Phương pháp chung để sáng
tạo chữ quốc ngữ là dựa vào phần nào chữ Bồ Đào Nha, Ý và một số dấu phụ Hy Lạp.
Thực tế đã khẳng định các giáo sĩ phương Tây đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ cũng để
làm tốt việc truyền đạo, bởi lẽ các linh mục khơng có ý đồ thay thế loại chữ này vào chỗ chữ
(1)


căn cứ vào một số tài liệu viết tay của các linh mục nước ngồi từ 1621-1632, Đỗ Quang Chính 1972

11


Hán hay chữ Nôm mà chỉ truyền bá và sử dụng trong việc giảng đạo ở những vùng cơng
giáo. Vì vậy mà gần 2 thế kỷ (từ khi mới hình thành đến cuối thế kỷ XVIII) chữ quốc ngữ
chỉ giới hạn phạm vi giao tiếp trong nhà thờ với mục đích tơn giáo. Nhưng với ưa điểm đơn
giản, chữ quốc ngữ đã được tiếp nhận một cách nhanh chóng, Cụ thể là đã có người giỏi về
chữ quốc ngữ ngay buổi đầu như Bento Thiện với tập Lịch Sử An Nam (1659)
Nói đến vai trị chữ quốc ngữ khơng thể không kể đến công lao của giáo sĩ người Pháp
ALECXANDRE DE RHODES (qua hai tư liệu viết bằng chữ quốc ngữ Phép giảng tám
ngày và Tự điển Việt-Bồ-La (1651). Đã có khơng ít người cho rằng ALECXANDRE DE
RHODES là người sáng tạo ra chữ quốc ngữ, nhưng thực ra thực tế chứng minh rằng ơng
chỉ là người có cơng tổng kết các công trinh của những giáo sĩ người Âu khác vào đầu thế
kỷ XVII. Và chính ơng đã xác định điều này trong lời tựa của quyển Từ điển Việt-Bồ-La in
năm 1651 tại Rome :"Tuy nhiên trong công việc này ngồi những điều mà tơi đã học được
nhờ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm thời gian mà tôi lưu trú tại Cô Sinh và
Đông Kinh thì ngay từ đầu tơi đã học với cha PRANCISCO DE PINA người Bồ Đào Nha,
thuộc hội Dòng Giê-Su rất nhỏ bé, chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng
tôi rất am tường tiếng này, và cũng là người thứ nhất bất đầu giảng thuyết bằng phương ngữ
đó mà khơng dùng thơng ngơn, tơi cũng sử dụng những cơng trình của nhiều cha khác cùng
một Hội Dịng, nhất là cha GASPAR DE AMARAL và cha ANTONIO BARBOSA, cả hai
ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn tự điển : ông trước bất đầu bằng tiếng An Nam, ông
sau bằng tiếng Bồ Đào, nhưng cả hai ông đều đã chết sớm..."
Sau này có hàng loạt sách, cơng trình chữ quốc ngữ được viết, nhưng đa phần dưới
dạng từ điển đối chiếu tiếng nước ngoài như giáo sĩ MARCEL JERNEYUA có Từ điển BồViệt, Từ điển Latinh - Việt Nam của PELICIANO ADONO chép tay (1783) và cuối thế
kỷ XVIII có linh mục người Pháp PIGNEAU DE BÉHAINE biên soạn Từ điển Việt-La
(1772) và J.L TARBERD biên soạn Từ điển Việt-La (1838) xuất bản tại Ấn Độ.

Theo sự khảo sát và đánh giá của những nhà nghiên cứu chữ quốc ngữ ở giai đoạn cuối
thế kỷ XVIII không khác gì so với chữ viết tiếng Việt hiện đại, Sau đó có hai cơng trình
quan trọng khác và đóng góp lớn trong việc tiếp tục cải cách chữ quốc ngữ ngày càng hoàn
thiện: một là cuốn Từ điển Việt Pháp đầu tiên của LEGRAND DE LALIRAYE xuất bản
năm 1868 tại Sài Gòn. Cuốn từ điển ra đời đánh dấu một ý thức cải cách chữ quốc ngữ lần
thứ hai (lần thứ nhất được lấy mốc là Từ điển Việt-La của PIGNEAU DE BÉHAINE), sự
cải cách đó khơng được các nhà nghiên cứu đương thời và sau này chấp nhận. Hai là cuốn
12


Từ điển Việt-La của IS.THEUREL xuất bản năm 1877 tại Ninh Phú. Cuốn từ điển này ra
đời với ý đồ hoàn chỉnh thêm cuốn Từ điển Việt-La của J.L.JABCRD (1838) cho phù hợp
với sự phát triển của tiếng Việt ở nhiều mặt. Trên cơ sở đó mà vào những năm cuối của thế
kỷ XIX. Huỳnh Tịnh Của đã biên soạn cuốn Đại Nam Quốc âm tự vi (1895). Đây là từ
điển đầu tiên có giải thích và có thể xem là mốc cuối cùng của chặng đường hoàn chỉnh chữ
quốc ngữ.
Dựa vào những chứng cứ, bút tích, q trình sử dụng, sự phổ biến xã hội, một số nhà
nghiên cứu thường chia diễn biến của chữ quốc ngữ làm 3 giai đoạn.
- Giai đoan thứ nhất: Trước năm 1651, đây là giai đoạn có tính tìm hiểu thể nghiệm,
các hình thức chữ quốc ngữ được sử dụng có tính cá nhân tùy tiện, thực chất chỉ là sự phiên
âm một số từ ngữ tiếng Việt (thường là địa danh) ví dụ : Jinoa : xứ Hóa (tức Thuận Hóa),
Quignin : Qui Nhơn, Quanguya : Quảng Nghĩa...(trong một số tài liệu viết tay của JOÀO
ROZI, CRITOPORO BORRI ...) hay Muon bau dau chiristlan chian, (muốn vào đạo thiên
chúa chăng?). Giai đoạn này có hai đặc điểm :
Chưa có đấu thanh và chưa phân biệt các nguyên âm ngắn dài
- Giai đoạn thứ hai: Đánh dấu bằng sự xuất hiện của Từ điển Việt-Bồ-La của
ALECXANDRE DE RHODES. Đây là giai đoạn chữ quốc ngữ đã thịnh hành, phạm vi phổ
biến rộng rãi và có tính chất xã hội hơn. Giai đoạn này có đặc điểm đã sử dụng dấu thanh
đầy đủ và phân biệt được các nguyên âm ngắn dài.
Tuy nhiên cách ghi một số âm đầu, một số vẫn còn khác ngày nay. (vì được xây dựng

trên nguyên tắc ghi âm ngữ âm học, các biến thể phát âm, biến thể địa phương đều được thể
hiện đầy đủ trong chữ viết).
- Giai đoạn thứ ba: Được đánh dấu bằng sự xuất hiện Từ điển Việt-La của J.L
TABERD (1838). Đây là giai đoạn ổn định và hoàn thiện của chữ quốc ngữ để dần dần đưa
vào phổ biến rộng rãi trong xã hội. Đặc điểm của giai đoạn này được xem là khơng khác gì
bao nhiêu so với chữ quốc ngữ hiện đại (ngồi một số nét khơng đáng kể về ngữ âm). Ở giai
đoạn thứ ba này dấu vết cũ còn lưu lại một ít (về chữ viết) ta có thể so sánh được qua văn
bản S.S.S của PHILIPHÊ BỈNH (1822) và sẽ có dịp phân tích tỉ mỉ ở phần nội dung đề tài.
Chữ quốc ngữ là loại hình văn tự ghi âm nhằm tái hiện một chuỗi âm thanh tiếng Việt.
Nhưng chữ quốc ngữ ban đầu là do các nhà truyền đạo Châu Âu dùng chữ cái Latinh kết
hợp phần nào chữ Bồ Đào Nha, Ý và các dấu Hy Lạp để ghi âm tiếng Việt, nên đã có những
điểm bất hợp lý mà đến nay vẫn còn tồn tại. Như một âm vị /k/ ở chữ quốc ngữ được thể
13


hiện bằng ba chữ khác nhau : C, K, Q. Hoặc âm vị /γ/ lúc ghi g, lúc ghi gh ... cho đến nay
những bất hợp lý của thời ký đầu chữ quốc ngữ đo các nhà truyền giáo mắc phải hiện nay
vẫn cịn ngun trạng và gây khơng ít tranh cãi giữa các nhà ngôn ngữ học. Đồng thời cũng
có nhiều hội nghị về vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ(2). Gần đây trong một bài viết :"Mấy nhận
xét về chữ quốc ngữ" Giáo sư Cao Xuân Hạo đã cho rằng: "Nhược điểm của chữ quốc ngữ
không phải là ở chỗ nó chưa thực sự là một hệ thống phiên âm âm vị học mà chính là ở chỗ
nó có tính cách thuần túy ghi âm và hồn tồn bất lực trước nhiệm vụ hiểu nghĩa mà lẽ ra nó
phải đảm đương và nhược điểm ấy là rõ nhất và tai hại nhất là trường hợp các từ đồng âm
vốn có rất nhiều trong tiếng Việt. Tuy vậy, cũng gần giống như chữ Anh và chữ Pháp,
những chỗ người ta coi là bất hợp lý chính là ở chỗ làm cho nó phân biệt được nghĩa và cội
nguồn của các từ đồng âm : gia và da, lý và lí (trong lí nhí) .v.v... và khi người ta đã có
nhiều thế kỷ để quen với diện mạo văn tự của các từ ngữ, các diện mạo ấy trở thành cái hồn
của chữ nghĩa, nó biểu hiện được ý nghĩa của ngôn từ không cần thông qua cách phát âm
(vốn thay đổi tùy theo từng vùng)". Vì vậy khi cho rằng việc cải cách như đã được đưa ra
đôi khi làm ảnh hưởng đến truyền thống văn hóa và vấn đề cải cách chữ quốc ngữ nếu có

đặt ra thì phải hết sức thận trọng.
Chữ quốc ngữ nếu được xem như là một chỉnh thể thống nhất thì sự biến đổi của nó
cũng có những quy luật phức tạp, trong quá trình phát triển hình thức mới xuất hiện và tồn
tại song song hình thức cũ. Hình thức mới đó phải qua thực tế sử dụng mới được chấp nhận
và rồi hình thức mới khác lại xuất hiện, tuần tự tiếp diễn, trong quá trình phát triển, chữ
quốc ngữ dù sinh sau đẻ muộn nhưng đã dần dần thay thế cho chữ Hán, chữ Nôm và ngày
càng tỏ ra ưu thế và trở thành văn tự chính thức của quốc gia.
Từ đó, ta có thể hiểu rằng tiếng Việt nói chung và chữ quốc ngữ nói riêng đã trở nên
ổn định nhất trong giai đoạn hiện nay.

1.2. TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM.
1.2.1. Vài nét về tác giả:
PHILIPHÊ BỈNH, như một số nhà nghiên cứu đều chung nhận xét "không mấy quen
thuộc và tiếng tăm, tác phẩm của ông hầu như ít người biết tiếng." (Nguyễn Phương Trang,
1996). Nhưng những gì ông để lại cho chúng ta như tác phẩm s.s.s được viết ỏ LISBONE
năm 1822 thì thật là quý hiếm. PHILIPHÊ BỈNH sinh năm 1759 tại Hải Dương, năm 1776
(2)

Có thể kể . 1956 cuộc hội thảo cải tiến chữ quốc ngữ tổ chức Sài Gòn. 1961 hội nghị cải cách chữ quốc ngữ -

Hà Nội.

14


ông đi tu, đến năm 1793 ông thụ phong linh mục, Thời gian này ơng tỏ ra là người có năng
lực nên được giáo hội Dòng Tên giao cho nhiều chức vụ quan trọng. Ơng có dịp đi nhiều:
Macao, Goa, Trung Hoa. Sau do tranh chấp giữa hai phe Dòng Tên và Dòng Đa Minh, Tòa
Thánh do áp lực quốc tế có phần nghiêng về Dịng Đa Minh mà bỏ rơi Dịng Tên. Vì vậy,
Dịng Tên mới lập một phái đoàn gồm linh mục và thầy giảng Việt Nam sang Bồ Đào Nha

để yết kiến Giáo hoàng và xin được can thiệp. Thầy cả PHILIPHÊ BỈNH nhận nhiệm vụ
dẫn đầu phái đoàn trên vào năm 1796. Cuối cùng thất bại, Dịng Tên bị bãi bỏ ở Việt Nam.
Từ đó, ơng và hầu hết những người trong phái đoàn phải sống lưu vong hơn 30 năm ở Bồ
Đào Nha và qua đời ở đó.
Trong suốt thời gian sống lưu vong ở đất người, PHILIPHÊ BỈNH đã chú tâm đến
nhiều về việc biên khảo, dịch thuật. Trong quyển S.S.S ông đã liệt kê ra 21 quyển đề tài
gồm nhiều loại khác nhau (tr.600) từ truyện các ông thánh của đạo Thiên chúa đến lịch sử
Việt Nam (Chuyện Đàng Trong, chuyện Đàng Ngoài) cùng Tự điển Việt và tiếng nước
ngoài. Thanh Lãng trong bài giới thiệu quyển S.S.S có ghi thêm năm bộ khác :
o Dictionarium Annamticum - Lucitanum (1791)
o Dictionarium Annamticum - Lucitanum (khác bản trên)
o Dictionarium Lucitanum - Annamticum
o Truyện nhật trình õu Pemand Mendes Pinto (1817)

1.2.2. Sơ lược về tác phẩm:
Tập hồi ký S.S.S được viết xong vào năm 1822 tại Lisbone (Bồ Đào Nha) dày khoảng
600 trang (625 trang nhưng có một số trang ơng để trống). Tác phẩm này được Thanh Lãng
giới thiệu và Viện Đại học Đà Lạt xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1968 (in chụp
nguyên bản). Nguyên bản được viết tay vào năm 1822, hiện được lưu trữ tại thư viện
Vatican, mục tài liệu Bắc Kỳ.
Nội dung tác phẩm, ông ghi chép nhiều sự việc, nhưng khơng được sắp xếp theo trình
tự nhất định nào về thời gian, chương, mục ... Vì vậy, khi giới thiệu tập S.S.S ông đã viết:
"Chép nhiều sự cho nên gọi là sách sổ sang, song chẳng có từng đoạn như các sách khác. Và
để người đọc tiện theo dõi ông đã làm một bảng mục lục riêng. Nội dung chính gồm có ba
phần (trang mở đầu S.S.S).
Phần thứ nhất: nói về những việc thuộc Dịng Tên (Đ.C.J)
Phần thứ hai: nói về những việc thuộc về mình và bạn bè
Phần thứ ba: về những chủ đề khác.
15



Trong từng phần, ông nêu rõ từng sự việc và ghi số trang về nội dung phần 1, ông ghi
lại các diễn tiến, hoạt động của dòng Đ.C.T ở Việt Nam (Annam) và một số nước khác đồng
thời cũng nêu lên những công trạng các vị thánh (bề trên), linh mục và thầy giảng của dịng,
Nội dung phần 2, ơng kể lại những việc làm của mình (khi thụ phong linh mục) cùng
bạn bè ở trong nườc và khi lưu vong ở Bồ Đào Nha.
Nội dung phần 3. ông ghi lại các phép làm lễ, phong tục tập quán, sinh hoạt đời thường
của người phương Tây, xã hội phương Tây và người Việt Nam, xã hội Việt Nam. Đồng thời
ông cũng ghi lại các kinh nghiệm làm nghề in, đóng sách mà nước ta bấy giờ chưa thịnh
hành.
Điều đặc biệt và đáng quan tâm nhất của tập S.S.S là còn ở tình trạng viết tay và được
cơng bố ngun bản nên giúp chúng ta ngày nay tìm hiểu được nhiều vấn đề về ngôn ngữ
như : ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Qua đó phần nào ta có thể biết được về hiện trạng tiếng
Việt ở Đàng Ngoài thể hiện qua chữ quốc ngữ vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.

16


CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGỮ ÂM TRONG S.S.S

2.1. VẤN ĐỀ ÂM ĐẦU
Trong S.S.S có 28 ký hiệu (đơn và kép) để ghi âm đầu và tổ hợp âm đầu tiếng Việt lúc
bấy giờ. Đó là : b, bl, k, c, q, kh, ch, d, đ, g, gh, gi, l, m, mi, n, nh, ng, ngh, ph, r, s, tr, t, th,
x, v.
So với Từ điển Việt-Bồ-La của ALECXANDRE DE RHODES trong hệ thống âm đầu
của PHILIPHÊ BỈNH không có tổ hợp ký hiệu tl và cả PHILIPHÊ BỈNH (nếu ta tính đến
một ví dụ duy nhất được ALECXANDRE DE RHODES dẫn trong Báo cáo vắn tắt về tiếng
An Nam hay Đông Kinh in ở đầu cuốn từ điển đơi khi rất hiếm người ta cịn thêm l vào p thí
dụ : plan. Bảng đối chiếu.
Chữ viết ghi âm đầu

ALECXANDRE DE

PHILIPHÊ BỈNH

RPHDES
b

b

bl

bl

ϕ
k

k

c

c

q

q

kh

kh


ch

ch

d

d

đ

đ

g

g

gh

gh

gi

gi g(i)

l

l

m


m

ml

ml
17


n

n

ng

ng

ngh

ngh

nh

nh

r

r

s


s

tr

tr

th

th

t

t

x

x

tl
v

v

2.1.1. Tổ hợp phụ âm.
Điều đáng lưu ý là trong cuốn Từ điển Việt-La của PIGNEAU DE BÉHAINE (1772 1773) (sau Từ điển Việt-Bồ-La của ALECXANDRE DE RHODES 121 - 122 năm và trước
quyển S.S.S của PHILIPHÊ BỈNH 50 năm) và quyển Từ điển Việt-La của TABERD
(1838) (sau S.S.S 16 năm) lại khơng có ký hiệu nào ghi các tổ hợp phụ âm. Kể cả ml, bl có
trong S.S.S

2.1.1.1. Tổ hợp ký hiệu tl có từ thời ALECXANDRE DE RHODES trong Từ điển

Việt-Bồ-La, đến S.S.S của PHILIPHÊ BỈNH thì khơng còn và đều được thay
bằng ký hiệu chữ viết tr trong hầu hết các trường hợp như :
A. DE RHODES

P.L BỈNH

NGHĨA

tlái

trái

phải trái, trái vụ

tlải

trải

trống trải

tlàng

tràng

bề dài

tlàng

tràng


trường học

tláng

tráng

trắng

tlao

trào

trong (sạch)

tlang hột

tràng hạt

tràng hạt

tlánh

tránh

tránh (né)

18


tlao


trao

trao (giao)

tlao

trong

bên trong, đàng trong

tlòn

tròn

tròn

tlăm

trăm

trăm

tlần

trần

trần nhà

tlâu


trâu

con trâu

tlẩy

trẩy

trẩy đi

tlẻ

trẻ

con trẻ

lleo

treo

treo (lên)

tlẻ tlung

trẻ trung

(thời) trẻ trung

tlên


trên

trên

tlị

trị

học trị

tlơi

trơi

trơi (đi)

tlộm

trộm

trộm (cắp)

tlơn

trơn

đít (hậu mơn)

tlịu


trơng

trơng thấy

tlốn

trống

trống trải

tlưa

trưa

buổi trưa

tlứng

trứng

trứng (quả)

tlước

trước

trước

Và một số khơng tìm thây sự tương ứng như :

tlà

bằng phẳng

tlả

trã, nồi kho cá

tlai

võ trai

tlàm

tằm

tlám

nhựa thông

tlám

trái trám

tlám

ống lọc rượu

tlan


con trăn

tlang

gỗ cùm bằng gỗ

tlát

trát (trét) nhà, tường

tlắp tlầu

tráp trầu
19


tlần
tlể

thuyền không mui
(thuyền)

tlể (một loại thuyền)

tlểy

trảy, hái (trái)

tlỏm mất


mắt sâu

tlộn tlạo

trộn trạo

tlợt

trợt, trượt (té)

tlút bạc

nấu chảy, lọc bạc trát ra

tlưng

trưng

Qua thống kê chúng tơi tìm được ba trường hợp khơng theo quy tắc trên
A. DE RHODES

P.L BỈNH

Nghĩa

tlảm (con)

ảm (con)

ẳm con, bồng con


tlọn

blọn

trọn

lọn (vẹn)

trọn vẹn

lức lắc

lức lắc

tlúc tlắc
Thí dụ:

- ... cho đến đứa còn ảm cũng vẩy tay dù chưa biết nói ...(tr.396) (
(1) (kể từ đây tất cà thí dụ trích xin khơng sử đụng dấu (...) trước và sau câu trích.)
- thì người vui mừng mà ảm lấy hình như được con chim lạc (tr.226)
- Chúng tôi ước ao muốn làm việc thánh tông đồ chúng tôi cho blọn (tr. 190)
- Đ.C.J ban cho người còn lọn ven xác mình (tr.312).
- Đóng súc sách mà nhọn trơn như cái thuyền cho được lúc lác, cùng cứ giờ mà cho nó
bú (tr.394).
Tóm lại: phụ âm đầu /tl/ của Từ điển Việt-Bồ-La hầu hết các trường hợp đều tương
ứng với từ có chữ viết phụ âm đầu tr (trong S.S.S) ngoại lệ có 3 trường hợp lại tương ứng
với từ có chữ viết phụ âm đầu là bl, l, và không có sự tương ứng (bỏ tl).

2.1.1.2. Ký hiệu bl ghi tổ hợp phụ âm /bl/ ở A.DERHODES qua PHILIPHÊ

BỈNH có các khả năng tương ứng.
+ giữ nguyên: bl → bl
+ Biến đổi: bl

gi
l

Và có hai hướng tương ứng như sau :

20


+ Tương ứng đơn : bl ở Từ điển Việt-Bồ-La tương ứng với một trong những âm /bl/,
/gi/, /l/ của S.S.S
+ Tương ứng kép : bl, ALECXANDRE DE RHODES tương ứng với cả hai hình thức
của S.S.S bl và gl, bl và 1.
Thống kê trong Từ điển Việt-Bồ-La ta có tất cả 76 mục từ có phụ âm đầu là /bl/
nhưng đến S.S.S có được 16 trường hợp tương ứng, cịn lại khơng tìm thấy sự tương ứng,
Ta có thể thống kê các trường hợp tương ứtig đơn và kép như sau
Tương ứng đơn:
ALECXANDRE DE RHODES

PHILIPHÊ BỈNH

Bl

bl

Thí dụ:
o Kẻo người ta phải chước dối blá nó ru (tr.309)

o Vì thấy dân Judeo nhiều con trẻ blai (tr.396)
o Thì được blả nợ người ta cho sạch (tr.316)
o Là sự mặt blời, mặt blang cùng các ngôi sao (tr.316)
o Mà blải chiếu hai bên lò để cho các đàn bà (tr.584)
+ bl tương ứng với gi:
Thí dụ :
o Giấy trắng thì giải trên phên (tr.584)
o nhiều người điêu thật mà ăn năn giở lại cùng D.C.J (tr.282)
o mà khi cháy ở làng nọ cùng bén sang làng kia vì cái gianh hay lên cùng rơi
xuống nóc nhà (tr.589)
+ bl tương ứng với l
blốc blác

→ lúc lác

Thí dụ:
o như cái thuyền cho được lúc lác (tr.394)
Tương ứng kép
o bl (ở A.đe. Rhođes) -> bi và gi (Philiphê Bỉnh)
Thí dụ :
o Đã có kinh blái tim (tr.378)
o đã ban cho mật giái núi gần thành Macao (tr.499)
o thì blối rằng đem xác mình về (tr.442)
21


o có một thầy dịng đã làm tờ giối giăng (tr.420)
o để cho nó blõù chè trong một vườn Dịng (tr.420)
o lấy vườn Dòng D.C.J để mà giồng chè (tr.137)
o đốt xương cha thằng Hẻo cùng tán ra blo (tr.471)

o thì mới cháy ra gio hai xác ấy (tr.477)
+ bl tương ứng với bl và l
Thí dụ :
o tơi tá người hãy còn blọn vẹn (tr.311)
o bạn cho người còn lọn vẹn xác mình (tr.311)
So sánh với Từ điển Việt-La của Pigneau de Béhaine, tình hình ở tổ hợp phụ âm đầu
/bl/ có khác. Nguyễn Thị Bạch Nhạn trong luận án "Sự biến đổi các hình thức chữ quốc
ngữ từ 1620 - 1877" có thống kê, trong số 93 mục từ có bl của Tự điển Việt-Bồ-La (1651)
đến Việt-La (1772) thì có 59 từ tương ứng với tr và 6 từ tường ứng với l, l trường hợp
tương ứng khác và có 21 trường hợp cịn lại khơng có tương ứng. Dựa trên cơ sở đó tác giả
đã cho rằng phụ âm đầu /bl/ trong Từ điển Việt-Bồ-La chuyển đổi thành các phụ âm đơn
trong Từ điển Việt-La theo sơ đồ sau :
tr
bl
l
Như vậy, qua hai cứ liệu quan trọng xuất hiện trong hai thời điểm khác nhau là Từ
điển Việt-La của Pigneau de Béhaine và S.S.S của PHILIPHÊ BỈNH có hai hướng thay đổi,
sự tương ứng hồn tồn khác nhau, S.S.S có xu thế tương ứng với gi và trong Từ điển ViệtLa (1772) lại thành tr. Sự tương ứng khác biệt này có lẽ do áp lực xã hội và mang tính lịch
sử. Bởi vì Từ điển Việt-La (1772) mang dáng dấp phương ngữ Đàng Trong và S.S.S
(1822) mang dáng dấp phương ngữ Đàng Ngoài, cho nên ta có thể hiểu được rằng hai tổ hợp
chữ viết bl và tl ở cuối thế kỷ XVIII đã có sự tương ứng với tr ở phương ngữ miền Trung và
Nam, thành gi ở phương ngữ miền Bắc, Ngày nay trong tiếng Việt hiện đại vẫn song hành
tồn tại.
Trời và giời (trai và giai(trâng và giáng (tro và gio (Cũng có trường hợp bl thời xưa nay chỉ có tr, chứ khơng có gi. Nhưng điều đó là do
những ngun nhân khác. Chẳng hạn blái tương ứng với trái ở phương ngữ Trung và Nam,
22



nhưng ở phương ngữ Bấc lại khơng có giái. Tuy thế, S.S.S có ghi giái núi, giái đồi, giái
giăng (các trang 5, 271, 499 và 583) chứng tỏ không phải khơng có lúc phương ngữ Bắc có
tồn tại giái. Từ này bị loại ra khỏi vốn từ là do đồng âm "không lịch sự" trừ những trường
hợp cặn (residue) như trong dái tai, dái chân, già dái non hột (xem Hoàng Dũng 1995).

2.1.1.3. Chữ viết ml ghi tổ hợp phụ âm /ml/ ở ALECXANDRE DE RHODES còn
tồn tại hai trường hợp trong S.S.S, đó là :
mlời - lời
mlẻ - lẻ (lời)
Thí dụ :
o Kẻo vắng mặt thì vắng mlời (tr.7)
o Song tơi Lại ở bên đơng vì mlẻ khác (tr.14)
+ ml thay thành nh có 3 trường hợp :
mlầm → nhầm
mlặt → nhặt
mlạt → nhạt
Thí dụ :
o vì khi trước đã nhầm mà phạm đến Dòng (tr.284)
o Cùng thường xuống ấn nhặt ở sân nhà Dịng (tr.208)
o có ý cho người ta nhạt lịng kính chuộng Dịng Đ.C.J (tr.278)
Đặc biệt khi khảo sát có một số trường hợp chúng tơi nghi ngờ là nh nhưng tác giả lại
ghi là h : hài quạt (o vua bà cầm hai tay hài quạt mà quạt vì là của chúng tơi mới tiến (tr.165)
Điều đáng quan tâm khi khảo sát phụ âm này là trường hợp "lớn" được Từ điển ViệtBồ-La nhất loạt ghi là mlớn nhưng ở S.S.S lại nhất loạt ghi là blớn
Thí dụ :
o Và vua rất blớn vì đạt nhiều nước (tr.280)
o Thứ bé thì 20 đồng một cái thứ blớn thì...(tr.559).
Điều này cũng đã góp thêm cứ liệu cho phép khẳng định mối quan hệ vốn có giữa các

tổ hợp kí hiệu :"kl, pl, bl, tl, ml, trong tiếng Việt. Bà N.K SOKOLOVSKAUA trong luận
án". "Bước đầu tái lập hệ thống âm vị tiếng Việt Mường" đã đưa ra mơ hình sau:

23


Mơ hình trên N.K SOKOLOVSKAISA giả định ml phát triển độc lập khơng có quan
hệ đến các tổ hợp phụ âm khác. Nhưng qua thực tế tìm hiểu, ta vẫn thấy tổ hợp ml khơng
độc lập mà vẫn có quan hệ với các tổ hợp phụ âm khác (dù rất ít cứ liệu). Vì vậy, Hồng
Dũng trong bài viết"Từ điển Việt-Bồ-La của ALECXANDRE DE RHODES nguồn cứ
liệu soi sáng quan hệ giữa các tổ hợp phụ âm kl, pl, bl, tl, và ml trong tiếng Việt" đã
chứng minh tổ hợp phụ âm đầu /ml/ có quan hệ với /bl/. Chẳng hạn, nhọ, trong Từ điển
Việt-Bồ-La là mlọ và blộ và ở Từ điển Việt-Bồ-La là mlớn nhưng S.S.S là blớn. Và tác giả
bài viết đã đưa ra mơ hình nhằm làm rõ mối quan hệ trên.

Ở S.S.S tuy còn tồn tại hai hình thức tổ hợp phụ âm bl và ml nhưng khơng hồn tồn
đầy đủ và bên cạnh đó đã phần nào mở ra hướng chuyển biến theo quy luật đơn giản hóa. Vì
S.S.S có thể được xem như là một tác phẩm văn học nên sự so sánh, đối chiếu với những tài
liệu khác như Từ điển Việt-Bồ-La (1651), Từ điển Việt-La (1772) hay Từ điển Việt-La
(1838) đều không thể trọn vẹn. Nhưng sự đối chiếu trên cũng phần nào làm sáng tỏ được sự
chuyển hóa của các tổ hợp phụ âm trong giai đoạn cuối thế kỷ thứ XVIII ở Đàng Ngồi.
Việc tồn tại hai hình thức phụ âm kép ml và bl cho thấy sự biến đổi ngữ âm liếng Việl xảy
ra khác nhau đối với hai phương ngữ Nam và Bắc: phương ngữ Nam không tồn tại hiện
tượng phụ âm kép, trong khi đó ở phương Bắc vẫn bảo lưu cách phát âm /bl/ và /ml/.

24


2.1.2. Âm xát hai môi /β/ thời ALECXANDRE DE RHODES đến S.S.S thì
khơng cịn xuất hiện nữa mà đồng loạt thay đổi cách ghi ϕ thành ν:

ϕững ϕàng

-

vững vàng

ϕách

-

vách

ϕiết

-

viết

ϕui ϕẻ

-

vui vẻ

ϕải

-

vải


ϕán

-

(tấm) ván

ϕào

-

vào

ϕợ

-

vợ

ϕua

-

vua

ϕưng

-

vòng (vàng)


ϕai

-

vai

Từ điển Việt-La cùa P. de béhaine và Việt-La của J.L. TABERD đều tương tự, tức
cũng khơng cịn ghi nhận phụ âm đầu /β/ với cách ghi là ϕ. Như vậy, có thể khẳng định, vào
cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX quá trình biến đổi ϕ thành ν đã kết thúc.

2.1.3. Một điều cũng đáng lưu ý nữa, S.S.S cịn có hiện tượng tác giả sử dụng
cách ghi lẫn lộn giữa một số âm với nhau vốn trước đó đã khu biệt rõ ràng.
2.1.3.1. Trường hợp X và S
X và S là hình thức chữ viết để phân biệt hai phụ âm đầu S và X. Trong lịch sử tiếng
Việt hai âm này bao giờ cũng được phân biệt rạch ròi.
Ngày nay phương ngữ Bắc đã nhập S vào X. Tuy nhiên, ngay từ S.S.S hiện tượng này
đã xuất hiện, thể hiện qua hai trường hợp :
. Lẫn lộn S và X : Sứ và Xứ
. Dùng S thay cho X và dùng X thay cho S
Sêy thay vì Xây
Xan xát thay vì san sát
Thí dụ :
o Mình coi sóc sứ bổn dạo Annam ... chẳng được sứ bổn đạo... và quê ở Hải
Dương xứ. (tr.1)
25


×