Tải bản đầy đủ (.docx) (130 trang)

Giáo dục giá trị nghề nghiệp kỹ thuật quân sự cho học viên trường cao đẳng kỹ thuật vin hem pích thực trạng và giải pháp​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.38 MB, 130 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM T.P HỒ CHÍ MINH

TRẦN NHƯ TIẾN

GIÁO DỤC GIÁ TRỊ NGHỀ NGHIỆP KỸ THUẬT QUÂN
SỰ CHO HỌC VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG KỸ THUẬT
VIN-HEM PÍCH:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

T.P. Hồ Chí Minh-Tháng 9 năm 2003



MỤC LỤC
MỤC LỤC ....................................................................................................................
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.........................................................................
PHẦN MỞ ĐẦU ..........................................................................................................
1.Lý do chọn đề tài ..............................................................................................................
2.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài: ..............................................................
3.Mục đích nghiên cứu: ....................................................................................................
4.Khách thể và đối tượng nghiên cứu: ............................................................................
5.Giả thuyết khoa học .......................................................................................................
6.Nhiệm vụ nghiên cứu. ...................................................................................................
7.Giới hạn của đề tài. ........................................................................................................
8.Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: ..............................................

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ..........................................................
1.1.Giá trị và định hướng giá trị. .....................................................................................


1.1.1.Khái niệm về giá trị (GT): ....................................................................................
1.1.2.Hệ GT, thang GT và chuẩn GT: ............................................................................
1.1.3.Định hướng giá trị (ĐHGT). .................................................................................
1.1.4.Vai trò của GT và ĐHGT. .....................................................................................
1.2.Nghề nghiệp và GT nghề nghiệp KTQS ....................................................................
1.2.1.Khái niệm nghề nghiệp. ........................................................................................
1.2.2.Đặc điểm nghề nghiệp KTQS ...............................................................................
1.2.3.Giá trị nghề nghiệp KTQS ....................................................................................
1.3.Giáo dục GT nghề nghiệp KTQS. ..............................................................................
1.3.1.Khái niệm về giáo dục GT ....................................................................................
1.3.2.Mục đích, nhiệm vụ giáo dục GT nghề nghiệp KTQS trong quá trình đào tạo ...
1.3.3.Nội dung giáo dục GT nghề nghiệp KTQS: .........................................................

3


1.3.4.Các con đường giáo dục GT nghề nghiệp KTQS cho HV trong q trình đào tạo.
35
1.3.5.Vai trị của giáo dục GT nghề nghiệp KTQS đối với HY trong quá trình đào tạo.
39
Kết luận chương 1.......................................................................................................... 40

Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ NGHỀ NGHIỆP KTQS CHO
HV Ở TRƯỜNG CĐKT VIN-HEM PÍCH............................................................. 41
2.1.Vài nét về Trường cao đẳng Kỹ thuật Vin-Hem Pích và khách thể nghiên cứu.....41
2.1.1.Khái quát về lịch sử, nhiệm vụ đào tạo và bộ máy quản lý của trường CĐKT Vin-

Hem Pích..................................................................................................................... 41
2.1.2.Một vài nét về khách thể nghiên cứu.................................................................. 42
2.2.Thực trạng công tác giáo dục GT nghề nghiệp KTQS cho HV đã được thực hiện

trong quá trình đào tạo của nhà trường........................................................................ 44
2.2.1.Giáo dục GT nghề nghiệp KTQS đã được thực hiện qua con đường dạy học trong
quả trình đào tạo.......................................................................................................... 44
2.2.2.Giáo dục GT nghề nghiệp KTQS được thực hiện qua con đường giáo dục, rèn
luyện HV...................................................................................................................... 48
2.3.Thực trạng ĐHGT nghề nghiệp KTQS của HV...................................................... 51
2.3.1.Mức độ quan tâm của HV về vấn đề nghề nghiệp.............................................. 51
2.3.2.Nhận thức, đánh giá của HV về các GT nghề nghiệp KTQS.............................. 53
2.3.3.Thái độ của HV về nghề nghiệp KTQS.............................................................. 57
2.3.4.Hành vi hướng tới các GT nghề nghiệp KTQS của HV...................................... 63
2.4.Nguyên nhân những hạn chế của thực trạng.......................................................... 67
2.4.1.Nhóm các nguyên nhân về sự tác động của môi trường xã hội........................... 67
2.4.2.Nhóm các ngun nhân thuộc về q trình đào tạo:........................................... 69
Kết luận chương 2.......................................................................................................... 73

4


Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
GIÁ TRỊ NGHỀ NGHIỆP KTQS CHO HỌC VIÊN TRƯỜNG CĐKT VINHEM PÍCH................................................................................................................74
3.1.Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể quản lý về vấn đề giáo dục GT
nghề nghiệp KTQS cho HV trong quá trình đào tạo..................................................... 74
3.2.Đổi mới công tác tuyển sinh QS............................................................................... 75
3.3.Nâng cao chất lượng giáo dục GT nghề nghiệp KTQS cho HV qua con đường dạy
học:.................................................................................................................................. 76
3.3.1.Xác định mục tiêu giáo dục GT nghiệp KTQS một cách rõ ràng và cụ thể hóa
trong các môn học, các hoạt động dạy học cụ thể........................................................ 77
3.3.2.Đổi mới chương trìmh, nội dung, phương pháp dạy học.................................... 77
3.3.3.Xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên.............................................. 81
3.3.4.Xây dựng cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật dạy học............................................ 83

3.4.Nâng cao chất lượng giáo dục GT nghề nghiệp KTQS qua con đường giáo dục,
rèn
luyện HV.......................................................................................................................... 84
3.4.1.Tăng cường cơng tác giáo dục chính trị- tư tưởng.............................................. 84
3.4.2.Tơ chức hoạt động ngoại khoa:........................................................................... 87
3.4.3.Đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng:......................................................... 88
Kết luận chương 3.......................................................................................................... 89

KẾT KUẬN VÀ KIẾN NGHỊ..................................................................................91
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................93
PHỤ LỤC: MẪU PHIẾU ĐIỀU TRA VÀ KẾT QUẢ XỬ LÝ............................. 98

5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1.



2.

CĐKT

3.

CNĐQ

4.


CNH, HĐH

5.

CNXH

6.

CMKT

7.

GT

8.

GD

9.

GS

10.

HV

11.

KTQS


12.

ĐH

13.

ĐT

14.

ĐCSVN

15.

ĐHGT

16.

PGS

17.

QĐND

18.

QĐNDVN

19.


QS

20.

QP

21.

sv

22.

T-TG

23.

TS

24.

VK

6


25.

XHCN

Xã hội chủ nghĩa.


7


PHẦN MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt nam đã xác định: "Phát triển GD-ĐT là
một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát
huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững"[

25-tr108-109

]. Đây là quan điểm cơ bản nhất nhấn mạnh vai trò đáp ứng nguồn

nhân lực ngày càng cao của GD-ĐT đối với sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. Để
đáp ứng yêu cầu đó, đường lối lãnh đạo của Đảng cũng đã hết sức quan tâm phát triển giáo
dục tồn diện, trong đó giáo dục nghề nghiệp là một trong những nội dung quan trọng.
Vấn đề nghề nghiệp hiện nay đang là một trong những mối quan tâm hàng đầu trong
xã hội. Mỗi một người khi bước vào đời họ đều mong nuốn cho mình có được một nghề
nghiệp ổn định, trên cơ sở đó họ được cống hiến, được phục vụ xã hội và thỏa mãn các nhu
cầu vật chất, tinh thần của chính bản thân mình. Tuy nhiên trong thực tế người ta đã chọn
nghề, học nghề và làm nghề như thề nào thì cũng cịn rất nhiều điều đáng nói, nhưng điều
chung nhất được xem là triết lý nghề nghiệp cho mọi thời đại là: "làm nghề thì phải yêu
nghề".
Người ta cũng chỉ có tình u nghề nghiệp khi họ thực sự hiểu nghề, thiết tha hướng
tới các GT của nghề nghiệp mang lại cho họ. GT nghề nghiệp là một phạm trù lịch sử phù
hợp với những hoàn cảnh xã hội nhất định và sự ĐHGT nghề nghiệp của thế hệ trẻ ở nước
ta hiện nay cũng đang có sự biến đổi rõ rệt. Có những GT trước đây được xem là cơ bản, là

cốt lõi thì nay lại khơng cịn thiêng liếng nữa, có nhiều GT, thang GT mới xuất hiện làm cho
người ta phải đứng trước sự lựa chọn cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Chính vì
thế, để nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, không những phải nâng cao kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo nghề nghiệp cho người học mà còn phải thực hiện giáo dục GT nghề nghiệp để
giúp cho họ có sự ĐHGT nghề nghiệp một cách đúng đắn.
Qua trình GD-ĐT trong lĩnh vực QS cũng khơng nằm ngồi những vấn đề chung đó.
Đảng uỷ quân sự trung ương đã có Nghị quyết chuyên đề "về tiếp tục đổi mới công tác đào
tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn, kỹ thuật và xây dựng nhà trường chính quy", địi hỏi các

8


nhà trường phải thực hiện để nâng cao chất lượng đào tạo nghề nghiệp KTQS trong thời kỳ
mới.
Trường CĐKT Vin-Hem Pích là một trường trực thuộc Bộ Quốc phịng, có nhiệm vụ
đào tạo cán bộ, nhân viên KTQS cho toàn quân. Trường đã có 25 năm xây dựng và trưởng
thành, đạt được những thành tích đáng kể đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Tuy nhiên, sự nghiệp GD-ĐT của nhà trường trong những năm qua vẫn cịn bộc lộ
những hạn chế trong đó có sự hạn chế về giáo dục nghề nghiệp. Do đó ở HV cũng có những
biểu hiện sai lệch về động cơ, thái độ nghề nghiệp trong quá trình học tập tại trường. Chúng
tôi nghĩ rằng, vấn đề giáo dục GT nghề nghiệp KTQS ở đây cũng cần được quan tâm đúng
mức.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu thực trạng và những giải pháp giáo dục GT
nghề nghiệp KTQS đối với HV ở trường Cao đẳng kỹ thuật Vin-Hem pích là một vấn đề cần
thiết có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng GD-ĐT của nhà trường,
góp phần xây dựng Qn đội chính quy, hiện đại trong giai đoan hiện nay.

2.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài:
Qua sự tìm hiểu bước đầu chúng tôi nhận thấy rằng: Những năm gần đây, vấn đề GT,
ĐHGT và vấn đề về nghề nghiệp đã có nhiều cơng trình nghiên cứu ở trong và ngoai nước.

ở nước ta bước vào thời kỳ đổi mới cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế tập trung
bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng XHCN đã làm thay đổi và xuất hiện các thang
GT xã hội mới, do đó -việc nghiên cứu các vấn đề về ĐHGT cũng được quan tâm nhiều
hơn, trong đó có nghững cơng trình tiêu biểu của một số tác giả như:
-Tổng luận "về GT và giáo dục GT" (1993) của tác giả Mạc Văn Trang và Lê Đức
Phúc đã trình bày nghững quan điểm khác nhau về khái niệm GT, ĐHGT và vai trị của nó
trong cộng đồng xã hội. Tài liệu này cũng đã giới thiệu khái quát về kinh nghiệm giáo dục
GT ở Philipin và có một số kiến nghị về việc nghiên cứu GT và giáo dục GT ở Việt Nam,
nhưng chưa đề cập đến những vấn đề cụ thể.
-Đề tài cấp nhà nước KX-07-04 về "GT-ĐHGT nhân cách và giáo dục GT" (1995) do
PGS-TS Nguyễn Quang Uẩn làm chủ nhiệm đã nêu lên những vấn đề cơ bản về ĐHGT
nhân cách của con người Việt nam hiện nay và vấn đề giáo dục GT nhưng đó cũng chỉ là
những khái quát chung mà chưa đi sâu vào vấn đề GT nghề nghiệp.

9


-Cơng trình "Tìm hiểu định hướng GT của thanh niên Việt nam trong điều kiện kinh tế
thị trường" thuộc đề tài KX07-10 do TSKH Thái Duy Tuyên làm chủ nhiệm (1994) đã chỉ ra
sự biến đổi sâu sắc về GT và ĐHGT của thanh niên nước ta hiện nay, trong đó vấn đề "việc
làm và nghề nghiệp" là một trong những mối quan tâm hàng đầu của họ. Cơng trình này
cũng chưa đi sâu vào vấn đề giáo dục GT và giáo dục GT nghề nghiệp một cách cụ thể.
-

Với chủ đề "Con người Việt nam hiện nay và vấn đề định hướng GT cho nó"(1995),
PGS-TS Trần Tuấn Lộ đã nếu lên một số quan điểm về GT học và đề xuất các vấn đề
có tính chất phương pháp luận của việc giáo dục GT ở nước ta hiện nay.
-Gần đây trong hội thảo về những vấn đề giáo dục và tâm lý của học sinh và sinh viên

do liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam tổ chức (2002) đã có một loạt bài tham

luận của các tác giả như: "Định hướng giá trị và sự phát triển của thế hệ trẻ"( Đỗ Long);
"Một số nét về định hướng giá trị của thanh niên hiện nay" ( Đỗ Ngọc Hà); "Xu hướng cá
nhân-sự thay đổi định hướng giá trị trong sinh viên hiện nay" (Lưu Song Hà); "Thực trạng
và giải pháp giáo dục GT cho thế hệ trẻ Việt nam hiện nay" (Nguyễn Thị Dung); "Định
hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên năm thứ IV và nỗ lực phấn đấu trong học tập cửa
họ"( Lê Hương); "Giáo dục thái độ nghề nghiệp cho học sinh học nghề, một vấn đề cơ bản
và cấp bách" (Mạc Văn Trang)... Nhìn chung các tác giả đã đi vào nghiên cứu về GT,
ĐHGT và giáo dục GT sát với thực tiễn cuộc sống của thanh niên hiện nay, trong đó có vấn
đề liên quan đến giáo dục GT nghề nghiệp cho họ.
-Trong Quân đội: Đề tài cấp bộ "Định hướng GT nhân cách đội ngũ sỹ quan trẻ Quân
đội nhân dân Việt Nam" (2000) do TS Lại Ngọc Hải làm chủ nhiệm cũng mới chỉ đề cập tới
vấn đề ĐHGT nhân cách chung đối với đội ngũ sỹ quan trẻ mà chưa đề cập nhiều tới lĩnh
vực nghề nghiệp và GT nghề nghiệp của họ.
-Một số tác giả khác trong quân đội quân đội như : Trương Thành Trung; Nguyễn Văn
Phong đã nghiên cứu về xu hướng nghề nghiệp quân sự dưới góc độ tâm lý học và cũng
chưa đi vào lĩnh vực giáo dục GT...
Qua nghiên cứu, tìm hiểu nhũng vấn đề liên quan tới đề tài chúng tôi thấy rằng: vấn đề
GT, ĐHGT và giáo dục GT đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và
các tổ chức, quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên ở Việt Nam vẫn đang còn ở bước đi ban đầu so
với các lĩnh vực khác. Với mỗi cơng trình cụ thể, các vấn đề về GT, ĐHGT, nghề nghiệp được
xem xét ở nhiều khía cạnh, phạm vi rộng, hẹp khác nhau, nhưng chưa có cơng trình

10


nào nghiên cứu về GT và giáo dục GT nghề nghiệp trong lĩnh vực QS nói chung và lĩnh vực
KTQS nói riêng.
Như vậy đóng góp mới của đề tài này là sự nghiên cứu sâu về GT và giáo dục GT
nghề nghiệp KTQS đối với một đối tượng cụ thể là HV hệ cao đẳng ở trường CĐKT VinHem Pích.


3.Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác giáo dục GT nghề nghiệp
KTQS đối với HV ngay khi họ đang học trong trường, trên cơ sở đó chỉ ra một số giải pháp
quản lý, góp phần đổi mới nâng cao chất lượng GD-ĐT của trường CĐKT Vin-Hem pích.

4.Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
-Khách thể nghiên cứu: Trường CĐKT Vin-Hem Pích có nhiều đối tượng đào tạo: cả
quân sự và dân sự ở các bậc học khác nhau (Đại học, cao đẳng, trung cấp, sơ cấp), trong đó
hệ Cao đẳng KTQS là đối tượng đào tạo chính của nhà trường. Khách thể nghiên cứu trong
phạm vi đề tài này là quá trình giáo dục-đào tạo Cao đẳng KTQS (đào tạo cán bộ KTQS)
với 4 chun ngành: Ơ tơ; Tăng -Thiết giáp; Vũ khí; Đạn.
-Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động giáo dục GT nghề nghiệp KTQS đối với HV Cao
đẳng KTQS của nhà trường.

5.Giả thuyết khoa học
-Mỗi nghề nghiệp khác nhau có những GT nghề nghiệp khác nhau. Nghề nghiệp
KTQS có những đặc thù riêng cần có những giải pháp giáo dục phù hợp để có sự DHGT
nghề nghiệp đúng đắn cho người học.
-HV đã vào trường chưa hiểu rõ về nghề nghiệp mình đã chọn, có nhiều trường hợp họ
vào trường học vì khơng cịn con đường nào khác, động cơ, thái độ nghề nghiệp của họ
cũng chưa được xác định rõ ràng. Do đó, nếu được giáo dục, định hướng GT nghề nghiệp
đúng đắn thì chắc chắn họ sẽ có động cơ, thái độ học tập, phấn đấu rèn luyện tốt hơn. Qua
đó góp phần nâng cao chất lượng GD-ĐT của nhà trường.

6.Nhiệm vụ nghiên cứu.
-Làm rõ cơ sở lý luận về vấn đề giáo dục GT nghề nghiệp KTQS.

11



-Phân tích đánh giá thực trạng cơng tác giáo dục GT nghề nghiệp đối với HV đã được
thực hiện trong quá trình GD-ĐT và sự ĐHGT nghề nghiệp KTQS của họ
-Xác định một số giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục GT nghề nghiệp KTQS
đối với HV trong quá trình GD-ĐT của nhà trường.

7.Giới hạn của đề tài.
Vấn đề giáo dục GT liên quan tới rất nhiều nội nội dung dưới nhiều góc độ khác nhau.
Nhưng trong phạm vi đề tài này chúng tôi chỉ nghiên cứu dưới góc độ quản lý giáo dục để
thực hiện giáo dục GT nghề nghiệp KTQS cho HV trong quá trình đào tạo ở Trường CĐKT
Vin-Hem Pích.

8.Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
a) Cơ sở phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận, phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tương Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của
Đảng về xây dựng con người, phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước, những quan điểm chỉ đạo của Đảng uy quân sự trung ương, Bộ Quốc
phòng về đào tạo cán bộ nhân viên chuyên môn kỹ thuật trong quân đội. Đồng thời
dựa trên cơ sở các nguyên lý lý luận của các khoa học có liên quan như : GT học;
Tâm lý học: Giáo dục học; Xã hội học; đạo đức học...
b)

Phương pháp nghiên cứu:

-Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: Đọc, nghiên cứu các tài liệu có liên
quan để tổng hợp theo cách tiếp cận của đề tài.
-Phương pháp tổng kết thực tiễn:
+Tổng kết, đánh giá các hoạt động liên quan đến giáo dục GT nghề nghiệp KTQS mà
nhà trường đã thực hiện trong những năm qua để thấy được những kết quả đạt được cũng
như nhũng hạn chế của nó.
+ Thơng qua nhận xét đánh giá về kết quả học tập, kết quả thực tập nghề nghiệp của

HV, kết quả đi khảo sát thực tế, các phong trào thi đua, diễn đàn thanh niên, giao lưu
văn hóa...để thấy được nhận thức, thái độ của họ về nghề nghiệp KTQS mà họ được
đào tạo cũng như thái độ tích cực với việc rèn luyện tay nghề.

12


-Phương pháp chuyên gia: Tập hợp những nhận định độc lập của cán bộ lãnh đạo, cán
bộ quản lý giáo dục, của giáo viên và các đối tượng khác để tìm hiểu về thái độ, trình độ
nhận thức chun mơn nghề nghiệp của HV.
-Phương pháp điều tra xã hội học:
+Lập phiếu điều tra ở HV cao đẳng KTQS năm thứ nhất, năm thứ 2, năm thứ 3 thuộc
các chuyên ngành khác nhau nhằm làm rõ thực trạng ĐHGT nghề nghiệp của họ.
+Lập thêm các phiếu điều tra đối với các đ/c cán bộ, giáo viên KTQS để tìm hiểu về
GT nghề nghiệp KTQS.
-Phương pháp thống kê toán học: Dùng phần mềm thống kê "Statistical packaye for
social sciences" (SPSS for Windows 10.05) để xử lý số liệu và so sánh kết quả điều tra.

13


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.Giá trị và định hướng giá trị.
1.1.1.Khái niệm về giá trị (GT):
GT và ĐHGT hiện nay đang là vấn đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học, nhiều tể chức và nhiều quốc gia trên thế giới, bởi lẽ nó thực sự là vấn đề cơ bản
về lý luận và có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn. Những hiểu biết đầu tiên về GT và GT học (hay
cịn gọi là lý luận về GT) có từ thời xa xưa gắn liền với triết học. Mãi đến nửa sau thế kỷ
XIX giá trị học mới bắt đầu được hình thành như một khoa học độc lập. Khái niệm GT trở
thành trung tâm của giá trị học và được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học như:

triết học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế học, mỹ học với những nội dung rộng
hẹp khác nhau. Đã có nhiều định nghĩa về GT, trong đó một số định nghĩa tiêu biểu trong
các từ điển của các nước và của một số tác giả như sau:
-Trong từ điển triết học của Liên xô do M.M Rozentan chủ biên đã xác định: "GTnhững định nghĩa về mặt xã hội của các khách thể trong thế giới chung quanh, nhằm nêu
bật tác dụng tích cực hoặc tiêu cực của các khách thể ấy đối với con người và xã hội (cái
lợi, cái thiện và cái ác, cái đẹp, cái xấu..nằm trong những hiện tượng của đời sống xã hội
hoặc tự nhiên)"[

60-tr.52

]

-Trong từ điển Đức: "GT là ý nghĩa tích cực của một chủ thể hoặc khách thể trong mối
liên hệ với một chủ thể hoặc khách thể khác" [

60-tr.52

].

-Theo tài liệu "giáo dục GT của bộ văn hoa giáo dục, thể thao Philipin" thì "Một vật
có GTkhi nó được thừa nhận là có ích và cần có"....Khơng chỉ có hàng hóa, vật chất mà cả
lý tưởng và những khái niệm đều có GT như "sự thật", "lương thiện" và "công lý"[

60-tr.54

]

-Nhà xã hội J.H.Fichter cho rằng: "Tất cả những cái gì có ích lợi, đáng ham chuộng,
đáng kính phục đối với cá nhân, hoặc xã hội đều có GT"[


60-tr.53

]

-Tác giả V.P.Tugarinov (Liên xơ) quan niệm: "GT là những khách thể, những hiện
tượng và những thuộc tính của chúng mà tất cả đều cần thiết cho con người (ích lợi, hứng
thú...) của một xã hội hay của một giai cấp nào đó cũng như cá nhân riêng lẻ, với tư cách là
phương tiện thoả mãn những nhu cầu và những lợi ích của họ, đồng thời cũng là những tư
tưởng và những ý định với tư cách là chuẩn mực, mục đích hay lý tưởng".[

14

60-tr.54

]


-Nhấn mạnh tính khách quan của GT, tác giả L.Dramaliev (Bungari) coi "GT là một
phẩm chất khách quan, một đặc tính, một khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã trở thành
rõ rệt trong quá trình quan hệ qua lại có tinh chất xã hội giữa người với người trong hành
vỉ thực tế của họ. Với tính cách là một khách thể xã hội, GT không thể tách khỏi những nhu
cầu, những mong muốn, những thái độ, những quan điểm và những hành động của con
người với tư cách là một chủ thể của các quan hệ xã hội".[

60-tr.54

]

-Ở Việt nam, Đại từ điển tiếng Việt (Nxb Văn hố-thơng tin năm 1999) đã xác định
GT là: "cái được xác định có ích, có hiệu quả trong đời sống vật chất và tinh thần".

-Trong những năm gần đây ở Việt nam cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về GT.
Nhìn chung các tác giả đều cơ bản thống nhất với nhau về khái niệm GT. GS Trần văn Giàu
và GS Phạm Minh Hạc đều quan niệm: "GT là tính có nghĩa tích cực, tốt đẹp, đáng q, có
ích của các đối tượng với các chủ thể". Theo TSKH Thái Duy Tun thì có thể hiểu GT một
cách thơng thường ìầ:"cái đáng q, cái cần thiết, có ích lợi, có nghĩa, thỏa mãn những nhu
cầu về vật chất và tinh thần của con người, giai cấp, nhóm xã hội nói chung"[

58-tr.106

]. PGS

Trần Tuấn Lộ thì chỉ rõ GT một cách cụ thể hơn, đó là: "cái ích (GT sử dung), cái khoái (GT
cảm giác), cái lợi (GT kinh tế), cái chân (tức cái đúng, cái thật, cái bản chất và cái có tính
quy luật; GT khoa học), cái thiện (GTđạo đức), cái mỹ (GTthẩm mỹ)"[

20-tr.121

].

Qua các định nghĩa về "GT" trên đây chúng ta thấy rằng, các tác giả ở các góc độ khác
nhau đã có những cách định nghĩa khác nhau. Tựu chung lại chúng ta có thể khái quát một
số nét cơ bản sau đây:
Một là: Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng có thể xem là có GT, dù nó là vật thể hay
phi vật thể, miễn là nó được người ta thừa nhận, cần đến nó như một nhu cầu, xác định nó
có một vị trí quan trọng trong đời sống của họ.
Hai là: -Phải phân biệt bản chất, quy luật với GT của khách thể: Bản chất, quy luật của
khách thể được quy định bởi những thuộc tính khách quan, vốn có của nó, khơng phụ thuộc
vào nhu cầu, ý thức của chủ quan của con người. Cịn GT chỉ hình thành và tồn tại trong
mối quan hệ với nhu cầu của con người, tuy thuộc vào việc con người có hay khơng có nhu
cầu mà một sự vật, hiện tượng có hay khơng có GT.

Như vậy, nói tới GT là nói tới mối quan hệ nhất định giữa khách thể (sự vật hiện
tượng) và chủ thể (con người) nào đó. Nghĩa là phải nói GT gì? của sự vật hiện tương nào?
đối với ai? (chủ thể nào?). Một sự vật, hiện tượng nào đó (khách thể) có hay khơng có GT,

15


nó phụ thọc vào nhu cầu của chủ thể. Cùng một sự vật, hiện tượng nhưng nó có GT khác
nhau đối với các chủ thể khác nhau, thậm chí nó có GT đối với chủ thể này nhưng lại khơng
có GT đối với chủ thể khác.
-Ba là: GT luôn mang tính lịch sử, khách quan: GT mang tính lịch sử vì nó chỉ hình
thành và tồn tại trong mối quan hệ với nhu cầu của con người, mà nhu cầu của con người
cũng biến đổi do sự tác động của mơi trường và tiến trình phát triển của lịch sử. PGS Trần
Tuấn Lộ có nhận xét: "Mỗi thời đại, mỗi chế độ xã hội, mỗi dân tộc, mỗi giai cấp và mỗi cá
[20-tr.126]

nhân đều có những GT riêng của mình do thực tiễn quy định"

. Tuy vậy GT vẫn luôn

mang tính khách quan, bởi nhu cầu của con người cũng xuất hiện không phải do ý thức chủ
quan mà do đòi hỏi khách quan trong hoạt động thực tiễn của họ quyết định. Đây là quan
điểm có ý nghĩa thực tiễn hết sức quan trọng trong việc giáo dục GT, là cơ sở để chống lại
chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ quan hoặc là áp đặt GT đối với con người, hoặc coi
GT là hiện tượng của ý thức, là biểu tượng của thái độ chủ quan của con người đối với
khách thể.
-Bốn là: Trong mọi GT đều chứa đựng yếu tố nhận thức, yếu tố tình cảm và yếu tố
hành vi của chủ thể trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng mang GT, thể hiện sự lựa chọn
và đánh giá của chủ thể.
Tóm lại, từ cách khái quát trên, chúng ta có thể hiểu: GT làmột phạm trù khẳng định ý

nghĩa tích cực của sự vật, hiện tượng đối với con người về sự thỏa mãn nhu cầu của họ.
1.1.2.Hệ GT, thang GT và chuẩn GT:
a)

Phân loại GT:

Sự vận động của thực tiễn cuộc sống đã làm cho các GT đối với con người cũng ngày
càng phát triển hết sức phong phú và đa dạng. Tuy theo mục đích nghiên cứu, với những
cách tiếp cận khác nhau người ta đã có rất nhiều cách phân loại GT theo những căn cứ xác
định. Dưới góc độ nghiên cứu về giáo dục GT, theo chúng tôi cần quan tâm một số cách
phân loại GT như sau:
-Phân loại theo vấn đề cơ bản của triết học: có GT vật chất và GT tinh thần. Đây là
cách phân loại phổ biến, phản ánh sự thỏa mãn nhu cầu mọi mặt của con người một cách
khái quát nhất.
+Trong GT vật chất có: GT sử dụng và GT kinh tế.

16


+Trong GT tinh thần có: GT khoa học; GT chính trị; GT luật pháp; GT tư tưởng; GT
văn hoa; GT đạo đức; GT thẩm mỹ; GT tôn giáo...
-Phân loại theo tính chất của chủ thể (cá nhân hoặc xã hội): GT cá nhân và GT xã hội;
GT chung, GT riêng.
-Phân loại theo cấp độ: GT cốt lõi; GT cơ bản; GT chủ yếu; GT phổ biến
-Phân loại theo các yếu tố cơ bản của cuộc sống: GT nhân văn; GT đạo đức; GT văn
hóa; GT chính trị; GT kinh tế.
Với tính chất đa dạng, phong phú của các GT trong cuộc sống sự phân loại GT cũng
chỉ là tương đối. Theo J.H. Ficher - nhà xã hội học Mỹ, mỗi hiện tượng xã hội có thể được
dùng làm khởi điểm cho sự phân loại các GT, do đó sự phân loại GT cũng hết sức đa dạng
và phong phú . Mỗi cách phân loại đều có những ưu việt và hạn chế riêng, điều quan trọng

là phải biết vận dụng nó một cách phù hợp. Khi xem xét sự phân loại các GT phải có một
cách nhìn hệ thống, xác định mỗi GT trong một cấu trúc có thứ bậc, đồng thời chú ý đến
tính đa dạng trong các biểu hiện sinh động của nó.
b)

Hệ GT, thang GT, chuẩn GT.

Sự phân loại GT chính là sự sắp xếp các GT theo những quan hệ nhất định. Kết quả sự
phân loại đó phản ánh những hệ thống GT có những thang bậc khác nhau đối với đời sống
của con người.
-

Hệ giá trị (hay cịn gọi là hệ thống GT) đó là một tổ hợp các GT khác nhau được sắp
xếp, hệ thống lại theo những nguyên tắc nhất định, thành một tập hợp mang tính tồn
vẹn, hệ thống, thực hiện các chức năng đặc thù trong việc đánh giá của con người
theo những phương thức vận hành nhất định của GT. Các GT thường được sắp xếp
theo từng nhóm (hay phân hệ), các nhóm này có vị trí độc lập tương đối và tương tác
với nhau theo những thứ bậc khác nhau phù hợp với các chức năng xã hội trong
những điều kiện lịch sử - cụ thể. Hệ GT chỉ có tính ổn định tương đối, bởi thực tiễn
cuộc sống của con người luôn luôn vận động và phát triển, có những GT cũ mất đi,
có những GT mới xuất hiện, hoặc sự tương tác trong sắp xếp thứ bậc các GT đã có sự
thay đổi, thì điều đó cũng dẫn đến sự biến đổi của một hệ GT. Vì vậy khi xem xét hệ
GT phải có quan điểm hệ thống và quan điểm lịch sử. Người ta thường mô tả hệ
thống GT dưới hình thức bảng ma trận các GT. Các tác giả của đề tài KX.07-10 đã
xây dựng bảng GT với cấu trúc: hàng ngang: Làm nổi bật các GT chung và


17



riêng, vật chất, tinh thần; hàng dọc: giới thiệu các GT: kinh tế, GT tư tưởng-chính trị-pháp
luậ, GT đạo đức, GT nhân văn. Đó cũng là hệ thống GT phổ biến thường được giới thiệu
trong các tài liệu của UNESCO.
-

Thang GT: Việc sắp xếp các GT hay nhóm GT theo một trật tự ưu tiên nhất định
được gọi là: "thang GT" hay là "thước đo GT". Gọi là "thước do GT", song thang GT
không phải là tự nhiên được sinh ra như một thể lệ tiền định mà nó được hình thành
cùng với sự phát triển, biến đổi của cuộc sống con người trong tiến trình lịch sử.
Nếu như GT chỉ hình thành và tồn tại trong mối quan hệ với nhu cầu của con người thì

thang GT cũng có mối tương quan với thang nhu cầu của họ. Sự hình thành các thang nhu
cầu cũng có tính quy luật của nó. Theo nhà tâm lý học Abraham Maslow thì con người phải
tìm cách thoả mãn nhu cầu ở tầng dưới trước rồi mới tìm cách thoả mãn nhu cầu ở tầng trên
kế tiếp, các nhu cầu này luôn luôn bị chi phối hồn cảnh lịch sử xã hội. Vì vậy trong giáo
dục GT không thể áp đặt cho người ta một thang GT nào đó, mà phải tác động làm nảy sinh,
điều chỉnh các nhu cầu của đối tượng phù hợp với mong đợi của xã hội.
Vấn đề về thang GT-thước đo GT hiện nay đang là vấn đề sơi động, mang tính thời
đại, có tính nhân loại, tính dân tộc được mọi giới chức từ các nhà chính trị, kinh tế đến các
nhà khoa học, giáo dục...hết sức quan tâm. Thang GT là một trong những động lực thôi thúc
con người hoạt động nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình trong xã
hội. Thang GT của xã hội nếu được chuyển hoa thành thang GT của cá nhân sẽ tạo ra động
lực cho sự phát triển của xã hội. Đó là vấn đề có ý nghĩa lớn trong các hoạt động giáo dục
GT - đang là vấn đề cấp bách đặt ra đối với mỗi quốc gia, cộng đồng xã hội hiện nay.
-

Chuẩn GT: Trong hệ thống các GT được sắp xếp theo một trật tự nhất định, một thứ

tự ưu tiên, trong đó có những GT giữ cốt lõi, chiếm vị trí ở bậc cao, hoặc vị trí then chốt,
được coi là chuẩn mực chung đối với nhiều người, đó là chuẩn GT. Khi các GT được chọn

lọc lên tới cấp độ chung cho mọi người thì chúng trở thành "chuẩn GT xã hội". Hoạt động
của xã hội, cộng đồng, nhổm cũng như của từng cá nhân được thực hiện theo các chuẩn GT
xã hội sẽ bảo đảm tính định hướng, hạn chế khả năng sai lệch, qua đó bảo đảm cho sự tồn
tại và phát triển xã hội theo những mục đích nhất định.
Việc xây dựng các GT theo các chuẩn mực nhất định để đạt được các mục tiêu trong
cuộc sống về kinh tế, chính trị, đạo đức, xã hội, thẩm mỹ... tạo nên các chuẩn GT xã hội. Từ
xa xưa loài người đã xác định chuẩn GT của nhân loại là hệ GT "chân, thiện, mỹ". Quan

18


niệm đó cho đến hiện nay vẫn đúng, nhưng cũng có sự phát triển phù hợp với những điều
kiện lịch sử xã hội nhất định. Nhà giáo dục T.Makiguchi (Nhật bản) đã nêu lên một hệ GT
mới là "lợi, thiện, mỹ": "Đặt đối tượng lên bàn cân thiện ác ta đo GTđạo đức của nó, đặt
lên bàn cân lợi hại, lời lỗ ta xác định GT kinh tế của nó, trên bàn cân đẹp xấu đối tượng đó
[60-tr.64]

lại được đo lường về GT mỹ học. Tất cả đều do tiêu chuẩn đánh giá quyết định"

.

Kế thừa quan điểm "Nhân-Nghiã-Lễ-Trí-Tín" của Khổng Tử, Bác Hồ đã nói "NhânNghiã-Trí-Dũng-Liêm" và từ đó người lấy hệ GT: "cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư,
trung với nước, hiếu với dân là thang GT cao nhất, là thước đo GT của con người Việt nam,
[36-tr364]

trong đó cái đức, cái thiện là cốt lõi là gốc của mọi GT"

. Đảng ta coi trọng "xây

dựng con người Việt nam phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể

chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lịng nhân ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa
[24-tr.114]

tình, lối sống có văn hoa, quan hệ hài hoa trong gia đình, cộng đồng và xã hội"

. Đó

là là cơ sở để chúng ta xác định các chuẩn GT trong xã hội ta hiện nay.
Có nhiều cơng trình nghiên cứu đã khẳng định rằng thang GT, chuẩn GT của xã hội ta
hiện nay đang có sự biến đổi nhanh chóng. Vì vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu, xây dụng
các chuẩn GT phù hợp để giáo dục, ĐHGT đúng đắn cho xã hội, cho từng người trong từng
lĩnh vực cụ thể.
1.1.3.Định hướng giá trị (ĐHGT).
Thuật ngữ ĐHGT được sử dụng phổ biến trong xã hội học, tâm lý học và giáo dục học.
Đây là một vấn đề khá phức tạp và đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng tựu trung
lại có hai quan niệm cơ bản:
a)

Khái niệm ĐHGT theo nghĩa của tâm lý học:

Trong tài liệu "những cơ sở nghiên cứu xã hội học" các tác giả đã quan niệm: "ĐHGT
là khuynh hướng chung được quy định về mặt xã hội, được ghi lại trong tâm lý cá nhân,
[60-tr.67]

nhằm vào mục đích và phương tiện hoạt động trong lĩnh vực nào đó"
-

.

Theo "Từ điển tâm lý học tóm tắt" của Liên xơ: "ĐHGT là phương thức chủ thể sử

dụng để phân biệt các sự vật theo ý nghĩa của chúng đối với chính mình, từ đó hình
thành

nội dung cơ bản của xu hướng, các mặt nhận thức, ý chí, cảm xúc trong sự phát triển của

nhân cách"[60-tr.67]


19


[20-tr.121]
-Theo PGS-TS Trần Tuấn Lộ: "ĐHGT là khái niệm tâm lý học có nghĩa trước hết là sự tìm kiếm, sự phát hiện, sự khẳng định của chủ thể những gì là giá trị đối với nó”.

-Theo PGS-TS Thái Duy Tuyên: "ĐHGT là thái độ là sự lựa chọn các giá trị vật chất
và tinh thần, là hệ thống tâm thế, niềm tin, sở thích của con người đối với một giá trị nào

đó"[59-tr.2]
-Theo GS-TSKH Huỳnh Khái Vinh: "ĐHGT là sự lựa chọn các GT vật chất và tinh
thần, trên cơ sở hệ thống thái độ, niềm tin, sở thích và tâm thế nhằm phân biệt các sự vật
theo ý nghĩa của chúng đối với chính mình, từ đó hình thành nội dung cơ bản của động cơ
[62-tr.59]

và xu hướng hoạt động"

Mặc dù các tác giả ở các góc độ khác nhau đã có những cách định nghĩa khác nhau,
song tựu chung lại về khái niệm ĐHGT có những đặc trưng chính sau đây:
-

ĐHGT là sự thể hiện thái độ, sự lựa chọn các giá trị vật chất và tinh thần của con

người, các GT đó khơng chỉ là những giá trị cụ thể mà còn là các hệ giá trị với sự sắp
xếp thang bậc của các giá trị theo một trật tự ưu tiên nhất định (thang giá trị)

-

ĐHGT được xem như một quá trình tâm lý hỗn hợp, chứa đựng các yếu tố nhận thức,
cảm xúc và ý chí, nó là cơ sở bên trong của hành vi hướng con nguôi tới những giá
trị của cuộc sống.

-

ĐHGT được hình thành trong quá trình con người gia nhập vào vào các quan hệ xã

hội với tư cách là chủ thể của các hoạt động đó, hướng vào các giá trị có ý nghĩa cơ bản đối
với họ.
Với quan niệm trên chúng ta có thể hiểu ĐHGT là sự tự định hướng của cá nhân về
GT, nó tự hướng sự quan tâm, chú ý, sự thừa nhận của mình tới những GT, hệ GT nào của
đối tượng. Sự ĐHGT đó in đậm nét riêng của chủ thể, đó là một hiện tượng tâm lý phức
hợp, là biểu hiện quan trọng nhất của nhân cách. Trong các tài liệu "Giáo dục học đại cương
"(Nxb giáo dục-1997) và của trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí minh (1998) đều đã khẳng
định điều đó: "Trong nhân cách, người ta thường nhấn mạnh đến yếu tố quan trọng nhất
của nhân cách là ĐHGT. Đó là cốt lõi của nhân cách”

[1, tr.35; 16, tr.68]

. Trong cơng trình

nghiên cứu về"GT, ĐHGT nhân cách và giáo dục GT" các tác giả cũng khẳng định: "Sự
phát triển ĐHGT là dấu hiệu của sự chín muồi nhân cách, là chỉ tiêu đo đạc tính xã hội của
nhân cách". Nếu như "nhu cầu " trả lời cho câu hỏi: "người ta cần tới cái gì ?" thì ĐHGT sẽ


20


giải đáp vấn đề: "cái gì là thiêng liêng, là quy giá, là yêu thích nhất, mà người ta đang hướng
tới trong cuộc sống ?"
b)

Khái niệm ĐHGT theo nghĩa của giáo dục học:

Với quan niệm này khái niệm ĐHGT ít có những định nghĩa cụ thể, song trong giáo
dục học được dùng khá phổ biến với ý nghĩa là hoạt động mang tính định hướng cho người
được giáo dục, do đó chúng ta cần phân biệt với khái niệm ĐHGT (trong nhân cách) trong
những hồn cảnh cụ thể.
Trong cơng trình nghiên cứu của PGS Trần Tuấn Lộ "Con người Việt nam hiện nay và
vấn đề ĐHGT cho nó", cùng với sự khẳng định "ĐHGT là một khái niệm tâm lý", tác giả
còn chỉ ra "Sự ĐHGTcủa nhà giáo dục đối với người được giáo dục phải thông qua và phải
[20, tr.131]

biến thành sự tự ĐHGT của người được giáo dục"

. Từ quan điểm này cũng như

chính tên gọi của đề tài, cho chúng ta hiểu khái niệm "ĐHGT" còn được xem là hoạt động
giáo dục GT, đó là sự tác động của nhà giáo dục đối với người được giáo dục.
Giáo trình "Đạo đức học quân sự" của Tổng cục Chính trị QĐND việt nam quan niệm:
[46, tr.178]

"ĐHGT bao hàm sự hướng dẫn từ bên ngoài và sự định hướng của chủ thể"


và đã

định nghĩa "ĐHGT là sự hướng dẫn và thái độ hiện có để lựa chọn các GT vật chất, tinh
[46-tr.78]

thần, là hệ thống tâm thế, niềm tin, sở thích của con người đối với một GT nào đó"

.

Cũng trong tài liệu này, khi bàn đến ĐHGT đạo đức quân nhân, các tác giả cũng xác định:
"ĐHGT đạo đức quân nhân bao hàm sự lãnh đạo, giáo dục, hướng dẫn về đạo đức
cho mỗi một quân nhân và sự nhận thức, lựa chọn, cân nhắc và hành động theo những GT
[46, tr.179]

đạo đức nhất định"

. Như vậy ở đây khái niệm ĐHGT đã bao hàm cả hai nghĩa: vừa

là hoạt động giáo dục GT của nhà giáo dục đối với người được giáo dục, vừa là sự tự ĐHGT
như đã nêu ở trên.
Theo chúng tơi thì các quan niệm trên là đúng và đã được khẳng định trong thực tiễn.
Theo nghĩa của giáo dục học chúng ta có thể định nghĩa: ĐHGT là sự tác động của nhà
giáo dục đối với người được giáo dục để xây dựng cho họ có thái độ, sự lựa chọn các giá
trị vật chất và tinh thần một cách đúng đắn theo mục tiêu xác định.
Như vậy ĐHGT (theo nghĩa giáo dục học) chính là hoạt động "định hướng" của nhà
giáo dục đối với người được giáo dục về GT. Nó bao gồm các hoạt động như giáo dục,
tuyên truyền, giảng dạy, tổ chức hoạt động thực tiễn...nhằm tác động, giúp cho người được

21



giáo dục có sự tự ĐHGT cho mình phù hợp với mong đợi của xã hội. Sự "định hướng" của
nhà giáo dục phải biến thành "tự định hướng" của người được giáo dục, do đó có thể nói:
ĐHGT (theo nghĩa tâm lý học) là tự ĐHGT, là mục đích, kết quả của hoạt động ĐHGT
(theo nghĩa giáo dục học).
1.1.4.Vai trò của GT và ĐHGT.
a)

Vai trị của GT

GT ln tồn tại và phát triển gắn liền với sự thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh
thần của con người trong cuộc sống, vì vậy nó có vai trị hết sức to lớn đối với cá nhân và
cộng đồng xã hội:
-GT là cái đích cuối cùng cho mọi sự quan tâm của con người, GT là động lực để thúc
đẩy hoạt động sống của con người. Mọi hoạt động của con người suy cho cùng nó ln
hướng tới một GT nào đó, nếu khơng cuộc sống sẽ trở nên vơ nghĩa vì khơng đạt được bất
kỳ sự thoả mãn nào về nhu cầu tất yếu của mình.
-GT là cơ sở của việc đánh giá thái độ, hành vi nào là đúng, là đáng có và ngược lại:
thái độ, hành vi nào là khơng nên có. Ở đây GT được xem như những chuẩn mực để điều
chính thái độ, hành vi vua con người. Bởi vậy vấn đề giáo dục GT là hết sức quan trọng.
-GT tập trung sự chú ý của con người vào những đối tượng vật chất, tinh thần được coi
là đáng ham chuộng, ích lợi hay cần thiết trong nền văn hóa xã hội. Mặt khác GT nó cũng
kích thích hoạt động sáng tạo của con người nhằm khai thác những GT của mọi sự vật, hiện
tượng trong thế giới xung quanh.
-GT có ý nghĩa chỉ đạo về tư tưởng và hành động trong quá trình xây dựng và phát
triển xã hội hướng tới tương lai. Chế độ xã hội được mô phỏng bởi hệ thống những GT đặc
trưng, khiến cho mỗi người phân biệt được những suy nghĩ, hành động tốt đẹp nhất một
cách phù hợp.
-Các GT hình thành nên thái độ, lịng quyết tâm và sức mạnh đạo đức để vượt qua mọi
khó khăn trở ngại.

-Các GT được sử dụng như những phương tiện để liên kết các thành viên trong nhóm
hoặc cộng đồng xã hội. Khi đã thống nhất về GT, mọi thành viên trong nhóm, cộng đồng
đều tập trung, thống nhất, cùng chia sẻ tạo nên một sức mạnh to lớn trong hoạt động.

22


b)Vai trò của ĐHGT.
Vai trò của ĐHGT được thể hiện khơng tách rời vai trị của giá trị. Vai trị của giá trị
nhìn chung mới chỉ bộc lộ ở dạng tiềm năng để thoả mãn các nhu cầu của chủ thể. Nhưng
vấn đề đặt ra, chủ thể có hướng tới các giá trị đó hay khơng và hướng tới nó như thế nào thì
lại là vấn đề khác. Do đó vai trị ĐHGT chính là hiện thực hóa các vai trò của giá trị trong
cuộc sống của cá nhân và cộng đồng xã hội.
ĐHGT là biểu hiện quan trọng nhất của nhân cách, qua ĐHGT người ta biết được bộ
mặt, chiều hướng phát triển của nhân cách. Tập hợp những ĐHGT ổn định và không mâu
thuẫn sẽ tạo nên những nét riêng, bảo đảm sự bền vững và tính đặc trưng của nhân cách.
Người ta thường ví ĐHGT như một cái trục mà mọi ý nghĩ và thế giới tâm hồn của con
người đều quay quanh nó. ĐHGT là yếu tố chi phối, điều chỉnh hành vi hoạt động của con
người hướng tới những mục đích cơ bản của cuộc sống. ĐHGT giúp cho con người "lập
chương trình cho hành động của mình trong một thời gian dài, quy định đườmị lối chiến
lược của hành vi, đồng thời ĐHGT có thể quy định trực tiếp hành vi và thậm chí từng thao
[52, tr.34]

tác, động tác của con người"

Tóm lại: GT, ĐHGT có vai trị to lớn và quan trọng trong trong việc định hướng, điều
khiển thái độ, hành vi của con người cũng như cộng đồng xã hội

1.2.Nghề nghiệp và GT nghề nghiệp KTQS
1.2.1.Khái niệm nghề nghiệp.


[33, tr.16]
Cũng đã có nhiều định nghĩa về nghề nghiệp: Theo E.A.Klimov thì "nghề nghiệp là lĩnh vực sử dụng sức lao động vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn cần thiết cho xã hội (do sự phân
công lao động mà có), nó tạo ra khả năng cho con người sử dụng lao động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển"

[61, tr.68]

Viện chủ nghĩa xã hội khoa học cũng đã xác định: "Nghề nghiệp là một lĩnh vực mà trong đó con người sử dụng sức lao động của mình để tạo ra những cái cần thiết cho xã hội, nhờ đó con
người có thể thoả mãn những nhu cầu cần thiết cho việc tồn tại và phát triển của mình".

Từ điển tiếng Việt thơng dụng (Nxb GD) định nghĩa: "Nghề" là công việc chuyên môn
theo sở trường hoặc theo sự phân công của xã hội và "Nghiệp" là nghề làm ăn để sinh sống.


×