Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường cao đẳng thống kê thành phố bắc ninh theo tiếp cận cộng đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

VŨ NGỌC LINH

GIÁO DỤC GIÁ TRỊ NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THỐNG KÊ THÀNH PHỐ BẮC NINH
THEO TIẾP CẬN CỘNG ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC VÀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG

HÀ NỘI - 2017
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

VŨ NGỌC LINH

GIÁO DỤC GIÁ TRỊ NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THỐNG KÊ THÀNH PHỐ BẮC NINH
THEO TIẾP CẬN CỘNG ĐỒNG

Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hồng Thuận


HÀ NỘI – 2017
2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Việt Nam đang có sự
thay đổi lớn về cơ cấu nền kinh tế và kéo theo sự dịch chuyển về cơ cấu nghề
nghiệp trong xã hội. Đồng thời, Trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế tri
thức, sức lao động cũng là một thứ hàng hóa. Giá trị của thứ hàng hóa sức lao
động này tuỳ thuộc vào trình độ, tay nghề, khả năng về mọi mặt của người lao
động. Xã hội đón nhận thứ hàng hóa này như thế nào là do “hàm lượng chất
xám” và “chất lượng sức lao động” quyết định. Mỗi sinh viên, sau khi tốt
nghiệp, phải chủ động chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh, nắm vững một nghề,
biết nhiều nghề để rồi tự tìm việc làm, tự tạo việc làm… Điều đó đặt ra những
thách thức khơng chỉ đối với mỗi sinh viên mà cịn là vấn đề mà mỗi cơ sở đào
tạo phải tìm ra phương hướng, giải pháp để đáp ứng đòi hỏi trên.
Cả lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, trong giáo dục nhân cách toàn diện
cho sinh viên, giáo dục giá trị nghề nghiệp đóng một vai trị đặc biệt quan trọng.
Bởi các giá trị nghề nghiệp chính là cơ sở bên trong, định hướng và thúc đẩy
mọi hoạt động và hành vi, là hạt nhân tạo nên phẩm chất và năng lực nghề của
mỗi con người trong thời đại mới. Do đó, cần phải tổ chức một cách có hiệu quả
hoạt động giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên nói chung và sinh viên
ngành thống kê nói riêng, .
Trong hoạt động giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên, trường Cao
đẳng Thống kê đã thực hiện bằng nhiều con đường, phương pháp khác nhau.
Trong đó, giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên theo hướng tiếp cận cộng
đồng đã thể hiện nhiều điểm thuận lợi và tác động trực tiếp nhất đến nhận thức,
của sinh viên. Qua đây, có thể thấy rõ vai trị của cộng đồng xã hội và doanh
nghiệp trong quá trình đào tạo cũng như việc sử dụng nguồn lao động là sinh

viên của nhà trường sau khi tốt nghiệp. Bên cạnh việc học tập tại trường, sinh
viên còn tham gia các hoạt động xã hội, hoạt động nghề nghiệp tại cộng đồng
trong quá trình thực hành, thực tập nghề nghiệp. Đặc biệt, sau khi ra trường, họ
3


được tiếp nhận vào các cơ quan, doanh nghiệp, chính là nơi tiếp tục giáo dục,
nâng cao giá trị nghề nghiệp cho các cựu sinh viên. Do đó, trước hết phải xác
định được cách thức thực hiện để tối ưu hóa q trình giáo dục giá trị nghề
nghiệp theo hướng tiếp cận cộng đồng.
Trước đây, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về giáo dục giá trị nhằm
làm rõ bản chất, mục đích, nội dung và các con đường giáo dục giá trị cho thế hệ
trẻ,… cũng như giáo dục giá trị văn hóa, giáo dục giá trị đạo đức, giáo dục giá
trị sống, giáo dục giá trị nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên,… Tuy nhiên, cho
đến nay việc giáo dục giá trị nghề thống kê còn rất hiếm và riêng giáo dục giá trị
nghề nghiệp theo hướng tiếp cận cộng đồng thì dường như chưa có nghiên cứu
nào. Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định lựa chọn vấn đề: “Giáo dục
giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Thống kê Thành phố Bắc
Ninh theo tiếp cận cộng đồng” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về giáo dục giá trị nghề nghiệp
cho sinh viên theo tiếp cận cộng đồng, tìm ra các biện pháp giáo dục giá trị nghề
nghiệp cho sinh viên Cao đẳng Thống kê Thành phố Bắc Ninh dựa vào cộng
đồng địa phương, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng
Thống kê Thành phố Bắc Ninh Tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng

Thống kê theo tiếp cận cộng đồng trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh - Tỉnh Bắc
Ninh.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Thống kê
thông qua phối hợp với theo tiếp cận cộng đồng địa phương, tạo ra môi trường
4


trải nghiệm nghề nghiệp phù hợp với điều kiện của sinh viên, thì sẽ tác động tích
cực đến hệ giá trị nghề nghiệp của các em.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh
viên trường Cao đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng
5.2. Khảo sát thực trạng hoạt động giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh
viên trường Cao đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng trên địa bàn Thành phố
Bắc Ninh - Tỉnh Bắc Ninh.
5.3. Đề xuất các biện pháp giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên
trường Cao đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng trên địa bàn Thành phố Bắc
Ninh - Tỉnh Bắc Ninh; Từ đó khảo nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của các
biện pháp.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn nội dung:
Đề tài tập trung nghiên cứu biện pháp giáo dục giá trị nghề nghiệp cho
sinh viên theo tiếp cận cộng đồng .
- Giới hạn về địa bàn:
Đề tài triển khai nghiên cứu trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh - Tỉnh Bắc
Ninh và trường Cao đẳng Thống kê.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Hồi cứu, các tài liệu, khái quát và hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về

giá trị nghề nghiệp, giáo dục giá trị nghề nghiệp, tiếp cận cộng đồng,… Từ đó
xây dựng cơ sở lý luận về giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao
đẳng Thống kê Thành phố Bắc Ninh theo tiếp cận cộng đồng.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Xây dựng hệ thống câu hỏi dành cho CBQL, GV và sinh viên nhằm tìm
hiểu thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục giá trị nghề nghiệp cho
5


sinh viên trường Cao đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng trên địa bàn Thành
phố Bắc Ninh.
7.2.2. Phương pháp quan sát sư phạm
Quan sát hoạt động giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao
đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng nhằm bổ sung thông tin về thực trạng.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành phỏng vấn sâu, trao đổi với một số CBQL, giảng viên, sinh
viên nhằm làm rõ hơn những kết quả thu được qua phiếu hỏi, đồng thời bổ sung
thêm những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài.
7.2.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Nghiên cứu sản phẩm hoạt động dạy của GV như nội dung, chương trình
giảng dạy, tài liệu học tập,…và sản phẩm hoạt động học của sinh viên như kết
quả học tập, tính tích cực tham gia các hoạt động giáo dục liên quan đến giáo
dục giá trị nghề nghiệp.
7.2.2.5. Phương pháp chuyên gia
Thu thập các thông tin và xin ý kiến của chuyên gia về những vấn đề có
liên quan và biện pháp giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao
đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng.
7.3. Phương pháp thống kê tốn học
Chúng tơi sử dụng phương pháp thống kê toán học và, phần mềm xử lý

dữ liệu SPSS để rút ra những nhận xét, kết luận có giá trị khách quan.
8. Cấu trúc của đề tài
Đề tài có cấu trúc là ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Khuyến nghị, Danh
mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên
theo tiếp cận cộng đồng.
Chương 2. Thực trạng giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường
Cao đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng.
Chương 3. Biện pháp giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường
Cao đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng.
6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ NGHỀ NGHIỆP CHO SINH
VIÊN THEO TIẾP CẬN CỘNG ĐỒNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Giáo dục giá trị đang được xem như một xu thế của giáo dục hiện đại.
Mặc dù, trên thế giới, việc nghiên cứu về giáo dục giá trị và tổ chức giáo dục giá
trị trong nhà trường đã được tiến hành từ trước đó khá lâu.
Có thể xác định lịch sử giáo dục giá trị được bắt đầu ở Mỹ vào năm 1776,
khi những người trong Ban soạn thảo Tuyên ngôn độc lập Mỹ đã đặt ra trách
nhiệm của nhà trường là giáo dục cho thế hệ tương lai các phẩm chất đạo đức,
truyền đạt cho họ các giá trị, đặc biệt là các giá trị dân chủ.
Ở châu Á, từ những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, vấn đề giáo dục giá trị
cũng đã được bàn đến. Trong cuốn Soka Kyoibugaku Taikei (Tổng luận về giáo
dục học sáng tạo giá trị) được xuất bản năm 1930, nhà giáo dục Nhật Bản
Tsunesaburo Makiguchi đã nêu lên quan điểm của mình về việc xây dựng một
nền giáo dục tam phương. Mục đích của của nền giáo dục này là đào tạo học

sinh thành những con người năng động, hạnh phúc, phát triển toàn diện và biết
tạo ra giá trị. Để thực hiện được nền giáo dục tam phương, T.Makiguchi đề nghị
phải chuyển đổi các chức năng của người giáo viên từ chỗ là người truyền thụ tri
thức thành người hướng dẫn hữu ích cho tiến trình tìm tịi và học tập của học
sinh [33].
Trong hoạt động điều tra nghiên cứu về định hướng giá trị của thanh niên,
có các cơng trình đáng chú ý như: Chương trình nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo
đức cho thanh niên do Trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh niên của
Bungari thực hiện vào những năm 1977 – 1978; các cuộc điều tra do Phòng
nghiên cứu thanh niên thuộc viện nghiên cứu thế giới của Nhật Bản thực hiện
đối với lứa tuổi từ 18 – 24 tuổi ở 11 nước trên thế giới và cuộc điều tra do Viện
khảo sát xã hội Châu Âu thực hiện đối với lứa tuổi 15 – 24 tuổi ở mức 10 nước
7


Châu Âu được tiến hành vào năm 1985; Cuộc điều tra quốc tế về giá trị đạo đức
của con người chuẩn bị bước vào thế kỷ XXI, so The Club of Rome thực hiện
theo đề nghị của UNESCO, được tiến hành vào năm 1986… [36]
Bên cạnh các cuộc điều tra nghiên cứu định hướng giá trị của thanh niên,
nhiều hội nghị khoa học về giáo dục giá trị cũng đã được tổ chức. Điển hình là:
Hội nghị khoa học với chủ đề “Đẩy mạnh giáo dục giá trị đạo đức nhân
văn, văn hóa quốc tế” được tổ chức tại Tokyo, Nhật Bản vào tháng 2 năm 1994.
Hội nghị đã tổng kết kinh nghiệm giáo dục giá trị đạo đức nhân văn và thống
nhất đưa ra 8 nhóm giá trị được xác định trên cơ sở có liên quan đến 8 chủ đề:
Quyền con người; Dân chủ; Hợp tác và Hòa bình; Bảo vệ mơi trường; Bảo vệ di
sản văn hóa; Bản thân và những người khác; Tính dân tộc; Tâm linh [31];
Tháng 8 năm 1996, một cuộc hội thảo của 20 nhà giáo dục đến từ khắp
nơi trên thế giới diễn ra tại trụ sở của UNICEF ở thành phố New York. Hội thảo
bàn về nhu cầu cảu trẻ em và những trải nghiệm khi tiếp xúc với các giá trị, về
Giáo dục Giá trị sống. Đặc biệt, đáng chú ý là bài Giáo dục giá trị trong nhà

trường phổ thong Mỹ do tác giả Dale N. Titut trình bày trong Hội thảo khoa học
về giáo dục tại Đại học Kutztow vào tháng 9 năm 1994. Nội dung của bài tham
luận đã tổng kết Chiến lược giáo dục giá trị ở phổ thông của Mỹ gồm 12 điểm.
Trong mỗi điểm đều bao gồm các GTNN mà người giáo viên cần phải có [18,
tr. 12-20.].
Chương trình Giáo dục các Giá trị sống của LVEP (một tổ chức phi lợi
nhuận được UNESCO hỗ trợ, ủy ban UNICEF Tây Ban Nha và tổ chức Brahma
Kumaris tài trợ). Chương trình đưa ra các hoạt động giá trị khác nhau dựa trên
kinh nghiệm và những phương pháp thực hành nhằm trang bị cho trẻ em và
thanh thiếu niên các tri thức, giúp họ trải nghiệm và khám phá 12 giá trị căn bản
của các nhân, gồm: Hợp tác, Tự do, Hạnh phúc, Trung thực, Khiêm tốn, u
thương, Hịa bình, Tơn trọng, Trách nhiệm, Giản dị, Khoan dung, Đoàn kết [2].
Ở nhiều nước, giáo dục giá trị được gắn với giáo dục đạo đức hoặc giáo
dục công dân. Chẳng hạn, Scotland đã nhấn mạnh đến việc hình thành ở học
sinh các giá trị của niềm tin cơ bản, các giá trị giao lưu; Bang New South Wales
8


đã chủ trương nâng cao chất lượng giáo dục các thài độ và hành vi với 3 loại giá
trị: các giá trị của việc học tập, các giá trị về bản thân và về người khác; các giá
trị của tinh thần trách nhiệm công dân [16, ].
Một số nước ở khu vực Đông Nam Á cũng đưa giáo dục giá trị vào trong
nhà trường và toàn xã hội từ rất sớm. Năm 1988, Philippin tiến hành xây dựng
và phát triển “Chương trình giáo dục cho người Philippin”. Đồng thời, cũng
trong năm đó, Bộ Văn hóa giáo dục thể thao Philippin đã phát hành tài liệu
“Giáo dục giá trị cho người Philippin”. Vào năm 1992, Trung tâm canh tân và
công nghệ giáo dục thuộc Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á công bố tài
liệu “Giá trị trong hành động”. Tài liệu trình bày về quan điểm, mục tiêu,
chương trình, cách đưa giáo dục giá trị vào nhà trường và cộng đồng của các
nước Indonesia, Philippin, Singapo, Malaysia, Thái Lan [36].

Tóm lại, hiện nay giáo dục giá trị đã trở thành một xu thế chung trên thế
giới, hầu hết các nước đều rất quan tâm đến việc nghiên cứu và tổ chức giáo dục
giá trị trong nhà trường. Quan niệm chung của các nước khi nghiên cứu và triển
khai giáo dục giá trị đều hướng đến hình thành cho học sinh, sinh viên các giá trị
cốt lõi, mang tính thời đại nhằm giúp họ có thể thích ứng và hoạt động có hiệu
quả trong một thế giới đang biến đổi hết sức nhanh chóng. Tuy nhiên, do phần
lớn các nước đều mới bước đầu tiên triển khai giáo dục giá trị, nên những
nghiên cứu lí luận về vấn đề này mặc dù khá phong phú song vẫn chưa thật toàn
diện và sâu sắc. Việc nghiên cứu và triển khai chương trình giáo dục giá trị mới
chỉ tập trung vào các giá trị sống, giá trị đạo đức – nhân văn. Trong khi đó, vấn
đề giáo dục GTNN cho người học nghề, bao gồm cả nghề thống kê, cịn ít được
quan tâm.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở nước ta, vấn đề giáo dục giá trị cũng được các nhà khoa học bàn đến từ
khá sớm. Năm 1986, qua bài viết “Một số vấn đề phương pháp giáo dục về
giảng dạy đạo đức cho học sinh phổ thơng” đăng trên tạp chí Thơng tin khoa học
giáo dục, Hà Thế Ngữ đã chỉ ra nhân lõi của phương pháp giáo dục đạo đức là
9


phải chuyển hóa được những giá trị xã hội vào trong ý thức của người học, và do
đó, giáo dục giá trị phải là một phần hữu cơ của quá trình giáo dục đạo đức [29].
Bước vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX, giáo dục giá trị cùng với giá trị và
định hướng giá trị đã trở thành những vấn đề rất được quan tâm ở nước ta và
được bàn đến trong nhiều cơng trình nghiên cứu về con người, đặc biệt là trong
một số đề tài thuộc hai chương trình khoa học cơng nghệ cấp Nhà nước: Chương
trình KX-07 “Con người là mục tiêu và động lực phát triển kinh tế xã hội” (1991
– 1995) và Chương trình KHXH-04 “Phát triển văn hóa, xây dựng con người
trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” (1996 – 2000).
Ngồi các đề tài nằm trong khn khổ hai chương trình khoa học công

nghệ nêu trên, vấn đề định hướng giá trị và giáo dục giá trị còn được nhiều tác
giả nghiên cứu, bàn đến trong các đề tài khoa học, đề tài luận án tiến sĩ, trong
các hội thảo khoa học, các bài báo khoa học,… Qua khái quát, có thể nhận thấy,
những hướng chủ yếu được tác gả tập trung nghiên cứu hoặc bàn đến gồm:
- Xác định thực trạng định hướng giá trị của học sinh, sinh viên [3], [6],
[23], [25], [26], [28].
- Giáo dục giá trị sống cho thanh thiếu niên , [2], đặc biệt trong các năm
2005 và 2006, Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục đã biên soạn và phát
hành hai tài liệu về giảng dạy các giá trị sống trong nhà trường [37], [38].
- Trên thực tế, từ năm 2000, LVEP đã triển khai Chương trình giáo dục
các Giá trị sống vào nước ta. Trong khn khổ của Chương trình, nhiều hoạt
động như Tập huấn giáo viên, cung cấp tài liệu, hướng dẫn thực hành các giá trị
sống cho các đối tượng khác nhau đã được tổ chức. Tuy nhiên chương trình mới
chỉ được triển khai tại các cơ sở giáo dục – lao động – xã hội với các đối tượng
là học viên cai nghiện, trẻ em đường phố, trẻ em bị thiệt thịi, … và một số
trường phổ thơng dân lập ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh [2].
Tóm lại, giáo dục giá trị cho thế hệ trẻ là vấn đề đã được đặt ra từ cách
đây khá lâu, nhưng phải đến cuối thể kỷ XX, vấn đề này mới thực sự trở thành
mối quan tâm chung của các tổ chức quốc tế, của các quốc gia và của các nhà
khoa học. Qua những khảo cứu ở trên có thể nhận thấy, các hoạt động nghiên
10


cứu về giáo dục giá trị diễn ra rất đa dạng và ngày càng phát triển rộng rãi. Trên
phạm vi toàn cầu, nhiều cuộc hội thảo khoa học với các tầm mức khác nhau đã
được tổ chức, nhiều chương trình giáo dục giá trị với các quy mô khác nhau đã
được xây dựng và triển khai. Mặc dù vậy, trong nghiên cứu cũng như trong thực
tiễn, vấn đề giáo dục GTNN cho sinh viên cịn ít được bàn đến.
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Giá trị nghề nghiệp

1.2.1.1. Giá trị
Từ thời cổ đại, những hiểu biết đầu tiên về giá trị đã có trong các tư tưởng
triết học. Đến cuối thế kỉ XIX, với sự xuất hiện của giá trị học, thuật ngữ giá trị
được dùng để chỉ về một khái niệm khoa học và được nghiên cứu ngày càng sâu
rộng trong triết học, đạo đức học, văn hóa học, xã hội học, tâm lý học… Với
mỗi ngành học đều có những hướng tiếp cận riêng đối với khái niệm “giá trị”.
Vì thế, xung quanh khái niệm “giá trị” có khá nhiều cách định nghĩa khác nhau.
Theo một số từ điển Việt Nam và từ điển nước ngoài, khái niệm “giá trị”
được định nghĩa “là phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hay
của con người, là cái làm cho vật có ích lợi, đáng quý, là tính ý nghĩa tích cực
hay tiêu cực của khách thể đối với con người, giai cấp, nhóm, xã hội nói chung,
được phản ánh vào các nguyên tắc và chuẩn mực đạo lý, lý tưởng, tâm thế, mục
đích. Có giá trị vật chất và giá trị tinh thần” [7. tr. 123]
Nhà xã hội học J. H. Ficher (Hoa Kỳ) coi: “Tất cả những gì có ích lợi,
đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân hoặc nhóm xã hội đều có một
giá trị” [24].
Nhà văn hóa học C. Kluckholn (Hoa Kỳ) cho rằng: “Người ta nhận thấy ở
giá trị những quan niệm thầm kín hoặc bộc lộ cái ao ước riêng của một cá nhân
hay của một nhóm. Những quan niệm ấy chi phối sự lựa chọn các phương thức,
phương tiện và mục đích khả thi của hành động” 4. tr. 31].
Còn theo quan niệm của nhà giáo dục học T. Makiguchi (Nhật Bản) thì:
“Giá trị là sự thể hiện có tính định lượng của mối quan hệ giữa chủ thể đánh
giá và đối tượng của việc đánh giá” [33. tr. 104].
11


Trong những thập kỷ gần đây, ở nước ta cũng đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu về giá trị. Nhìn chung, tác giả của các cơng trình này đều quan niệm
giá trị là tính có ý nghĩa tích cực, tốt đẹp, đáng quy, có ích của các đối tượng đối
với chủ thể. Chẳng hạn, theo tác giả Thái Duy Tuyên thì giá trị là: “Cái đáng

q, cái cần thiết, có ích, có nghĩa, thỏa mãn những nhu cần về vật chất và tinh
thần của con người, giai cấp, nhóm xã hội nói chung” [34, tr. 106].
Như vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về giá trị. Qua các định
nghĩa có thể nhận thấy những quan điểm chung sau đây:
Thứ nhất, giá trị là tính ích lợi, tính ý nghĩa tích cực của các sự vật, hiện
tượng trong hiện thực khách quan đối với cuộc sống của con người. Nó nói lên
khả năng của sự vật, hiện tượng trong việc thỏa mãn những nhu cầu vật chất hay
tinh thần của từng người, từng nhóm người, của cộng đồng, xã hội và của toàn
nhân loại. Giá trị của một khách thể (sự vật, hiện tượng) hoàn toàn khác với cái
gọi là bản chất và quy luật của chính bản thân khách thể đó. Cái bản chất và quy
luật của khách thể luôn tồn tại một cách khách quan, không phụ thuộc vào nhu
cầu của con người. Còn giá trị của khách thể lại chỉ có thể tồn tại trong mối liên
hệ với nhu cầu của chủ thể (cá nhân, nhóm, cộng đồng…). Nhờ nhu cầu mà chủ
thể xác định được một đối tượng có giá trị hay khơng và giá trị ấy cao hay thấp.
Thứ hai, giá trị là sự biểu hiện mối quan hệ lợi ích, đánh giá của chủ thể
đối với sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. Điều đó có nghĩa, giá trị
có mặt khách quan và mặt chủ quan. Mặt khách quan của giá trị là những đối
tượng trong hiện thực chứa đựng những đặc tính có khả năng thỏa mãn nhu cầu
vật chất hoặc tinh thần nào đó của con người. Cịn mặt chủ quan của giá trị là
thái độ, quan điểm, tiêu chuẩn lựa chọn giá trị cũng như phương thức đánh giá
đối tượng của xã hội và cá nhân. Sự phân biệt hai mặt cấu thành của giá trị đã
cho thấy giá trị chỉ nảy sinh và tồn tại thông qua sự đánh giá của chủ thể, mà chủ
thể bao giờ cũng là con người nên giá trị là một phạm trù mang bản chất xã hội.
Giá trị là cái thuộc về xã hội, chỉ có trong xã hội lồi người. Các giá trị giúp con
người định hướng hoạt động và góp phần tạo dựng nên xã hội loài người. Tuy
nhiên, sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó khơng phụ thuộc
12


vào ý thức của con người mà phụ thuộc vào những yêu cầu và điều kiện thực

tiễn trong đó họ sống và hoạt động. Do vậy, trong mỗi thời đại lịch sử, mỗi chế
độ xã hội, mỗi cộng đồng dân tộc, tơn giáo, giai cấp,… đều có những giá trị
riêng của mình. Nói khác đi, giá trị là một phạm trù mang tính xã hội, tính xã
hội, tính lịch sự - cụ thể, luôn biến đổi theo không gian và thời gian.
Thứ ba, Giá trị được hình thành trong hoạt động thực tiễn, gắn liền với
hoạt động của con người. Khi đã hình thành, giá trị có vai trị là chỗ dựa để con
người xác định mục đích, phương hướng cho hoạt động của mình. Mọi cách
thức và hành động của con người trong hoạt động đều được chỉ đạo bởi các giá
trị. Vì thế, giá trị là cái chi phối con người trong việc lựa chọn các phương thức,
phương tiện và mục đích hoạt động.
Từ những quan điểm trên, có thể hiểu một cách khái quát: Giá trị là tính
ích lợi, tính có ý nghĩa tích cực của sự vật, hiện tượng đối với sự thỏa mãn nhu
cầu của con người, có tác dụng chi phối con người trong việc lựa chọn mục
đích, phương thức và phương tiện hoạt động.
Trong xã hội lồi người có vơ số các giá trị khác nhau. Thông thường, các
giá trị được phân chia thành hai loại tương ứng với hai lĩnh vực cơ bản trong đời
sống con người, đó là giá trị vật chất (thỏa mãn các nhu cầu vật chất) và giá trị
tinh thần (thỏa mãn các nhu cầu tinh thần). Người ta cũng thường phân biệt các
giá trị xã hội với các giá trị cá nhân. Giá trị cá nhân là giá trị mà một con người,
với tư cách là một chủ thể của hoạt động, đã tiếp thu hoặc tạo ra được cho chính
bản thân mình. Cịn giá trị xã hội là giá trị được đa số người trong cộng đồng
thừa nhận và cần đến nó như một nhu cầu thực sự. Các giá trị xã hội là các giá
trị căn bản của con người, là cơ sở của giá trị cá nhân. Do đó, việc giáo dục giá
trị cho cá nhân phải dựa trên nền tảng của các giá trị xã hội.
Các giá trị, dù là giá trị cá nhân hay giá trị xã hội, bao giờ cũng tồn tại và
vận đọng trong mối liên hệ chặt chẽ với các giá trị khác. Khi một tổ hợp các giá
trị khác nhau được cấu trúc theo những vị trí thứ bậc khác nhau, tạo thành một
chỉnh thể thống nhất, phù hợp với việc thực hiện các chức năng đặc thù của xã
hội thì được gọi là hệ giá trị (hệ thống giá trị). Mỗi hệ giá trị đều có một cấu trúc
13



riêng, trong đó các giá trị được sắp xếp theo từng nhóm tương ứng với từng lĩnh
vực hoạt động của con người. Các nhóm giá trị này có vị trí độc lập tương đối và
có sự tương tác với nhau trong quá trình thực hiện các chức năng xã hội.
Hệ thống giá trị là một hình thức của hệ thống xã hội nói chung, của cấu
trúc xã hội nói riêng, trong đó thể hiện các cấp độ giá trị và mối liên hệ giữa các
cấp độ giá trị. Nói đến cấp độ giá trị là nói đến sự hệ thống hóa các giá trị theo
tầng bậc của cộng đồng. Cụ thể là, có cấp độ giá trị của quốc gia - dân tộc, cấp
độ giá trị của một giai cấp, của tộc người, của từng nhóm xã hội, cấp độ giá trị
của từng cá nhân. Giữa các cấp độ giá trị có nhiều nét đồng nhất với nhau,
nhưng cũng có những điểm khác biệt thể hiện ở các giá trị đơn lẻ và đặc biệt là ở
sự xếp đặt thứ tự các giá trị trong tổng thể bảng giá trị.
Hệ giá trị ln có tính lịch sử - cụ thể và chịu sự chế ước bởi lịch sử. Trong
cấu trúc của hệ giá trị có chứa đựng các nhân tố của quá khứ và của hiện tại, có
các giá trị đương đại và các giá trị truyền thống, các giá trị của quốc tế, của khu
vực, của dân tộc, của giai cấp… Cấu trúc đó là kết quả của quá trình hình thành,
phát triển và chuyển hóa các giá trị dưới tác động của các điều kiện lịch sử cụ thể.
Do đó, trong mỗi thời kỳ lịch sử, hệ giá trị lại có một cấu trúc tương ứng. Khi
điều kiện lịch sử biến đổi thì cấu trúc của hệ giá trị cũng biến đổi theo, có những
giá trị cũ bị mất đi và có những giá trị mới được nảy sinh. Điều đó đã nói lên khả
năng thích ứng cũng như tính phát triển nội tại của hệ giá trị.
Hệ giá trị khác nhau thì trật tự sắp xếp các giá trị cũng khác nhau. Việc
sắp xếp các giá trị (hay nhóm giá trị) theo một thứ tự ưu tiên nhất định được gọi
là thang giá trị (hay thước đo giá trị). Thang giá trị được hình thành và thay đổi
theo thời gian cùng với sự phát triển, biến đổi của xã hội loài người, của dân tộc,
của cộng đồng, của từng nhóm người và của từng cá nhân. Thang giá trị không
tồn tại tự thân mà vận động và phát triển thơng qua q trình con người, với tư
cách là chủ thể của hoạt động và giao lưu, vận dụng vào thực tiễn để nhận thức,
đánh giá, lựa chọn và chấp nhận các giá trị cũng như để sáng tạo ra các giá trị

mới. Vì thế, nói đến thước đo giá trị là nói đến mặt thực tiễn của thang giá trị.
14


Thang giá trị, thước đo giá trị được dùng để đánh giá về các giá trị. Trên
thực tế, mỗi cá nhân hay cộng đồng xã hội đều có những thước đo giá trị riêng.
Tuy nhiên, dù là thước đo giá trị nào thì trong nó cũng có những giá trị giữ vị trí
là giá trị cốt lõi, chuẩn mực chung cho nhiều người, chiếm vị trí ở bậc cao hoặc
vị trí then chốt. Những giá trị đó được coi là giá trị chuẩn hay chuẩn giá trị.
Chuẩn giá trị là một giá trị cụ thể, được cộng đồng xã hội lựa chọn, đánh
giá trong quá trình họ tham gia vào các loại hình hoạt động và giao lưu. Khi giá
trị được chọn lọc lên đến cấp độ chung cho mọi người thì nó trở thành chuẩn giá
trị nằm trong hệ giá trị xã hội, giữ vị trí là giá trị cốt lõi, thực hiện vai trò của
một giá trị hạt nhân để điều chỉnh các giá trị khác, đảm bảo cho mối quan hệ
tương tác trong nhóm giá trị cũng như trong cả hệ thống giá trị luôn đa dạng và
ổn định. Vai trò hạt nhân của chuẩn giá trị được thể hiện rõ nét nhát khi nó nằm
trong cấu trúc của thang giá trị. Ở đây, chuẩn giá trị được lấy làm căn cứ, làm
tiêu chuẩn để phân định các giá trị vào từng tang bậc phù hợp. Bởi thế, chuẩn
giá trị chính là thang bậc chuẩn trong thước đo giá trị.
Chuẩn giá trị có vị trí độc lập tương đối. Tuy nhiên, trong đời sống của
mỗi cộng đồng xã hội, các giá trị chuẩn không tách rời nhau, mà liên hệ mật
thiết với nhau tạo thành hệ chuẩn giá trị của cộng đồng. Hệ chuẩn giá trị giữ vị
trí là nhân lõi của hệ giá trị xã hội. Nội dung của hệ giá trị xã hội được biểu hiện
một cách cô đọng nhất ỏ hệ chuẩn giá trị. Vì vậy, qua hệ chuẩn giá trị của một
cộng đồng có thể xác định được những đặc trưng cơ bản trong hệ giá trị của
cộng đồng đó. Đây là vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng đối với
việc xây dựng nội dung giáo dục giá trị cho học sinh, sinh viên hiện nay.
Giá trị luôn gắn liền với sự thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần
của con người. Do đó, nó có vai trò hết sức to lớn trong đời sống cá nhân và
cộng đồng. Giá trị là nguồn động lực thôi thúc con người hành động và nỗ lực

vươn tới lý tưởng chân, thiện, mỹ. Nó có tác dụng như những biểu tượng định
hướng cho hoạt động của con người, đồng thời cũng lại như những chuẩn mực,
quy tắc để điều chỉnh hành động của họ. Mỗi nhóm xã hội và giai tầng xã hội
đều có một hệ giá trị đặc thù đóng vai trị điều chỉnh mọi hoạtđộng của cộng
15


đồng. Hệ giá trị này là hạt nhân tạo nên tâm thức chung của cộng đồng, định
hướng cho các thành viên công đồng cùng thống nhất hành động theo mục tiêu
chung mà xã hội đã đề ra. Chính vì thế, xây dựng các hệ thống giá trị để định
hướng cho xã hội nói chung, cho từng lĩnh vực giáo dục và đào tạo nói riêng là
một nhiệm vụ hết sức quan trọng.
1.2.1.2. Giá trị nghề nghiệp
Giá trị nghề nghiệp là một bộ phận của hệ thống giá trị xã hội, là một loại
giá trị gắn liền với hoạt động nghề nghiệp của con người. Bởi vậy, khái niệm
“giá trị nghề nghiệp” chỉ trở nên rõ ràng khi nó được xem xét trong mối quan hệ
với khái niệm “nghề nghiệp”.
Nghề nghiệp, theo tài liệu “Dân số - lao động - việc làm - giải pháp” của
Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, được xác định là: “một lĩnh vực mà trong đó
con người sử dụng sức lao động của mình để tạo ra những cái cần thiết cho xã
hội, nhờ đó con người có thể thỏa mãn những nhu cầu cần thiết cho việc tồn tại
và phát trienr của mình” [39, tr. 68].
Trong Từ điển Tiếng Việt thông dụng, “nghề” được định nghĩa là: “Công
việc chuyên môn theo sở trường hoặc theo sự phân cơng của xã hội” [42, tr.
702], cịn “nghiệp” là: “Nghề làm ăn, sinh sống” [42, tr. 710].
Vậy, có thể xác định nghề nghiệp là cơng việc chun môn trong một lĩnh
vực hoạt động nhất định, là dạng lao động địi hỏi ở người làm việc phải có
những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, những phẩm chất, đạo đức phù hợp với yêu
cầu của công việc chuyên môn. Nhờ q trình hoạt động nghề nghiệp, con người
có thể tạo ra các sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội, đồng thời thỏa mãn

được những nhu cầu cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của bản thân.
Trong đời sống xã hội luôn tồn tại nhiều nghề khác nhau. Bất cứ nghề nào
cũng hàm chứa trong nó một hệ thống giá trị nghề nghiệp. Các GTNN nằm
trong khái niệm “giá trị” nên nó cũng mang đầy đủ các dấu hiệu bản chất của giá
trị. Nghĩa là, GTNN cũng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với nhu cầu của con
người và chỉ được hình thành thơng qua sự đánh giá của chủ thể. Tuy nhiên, bên
16


cạnh những dấu hiệu chung ấy, ở GTNN cịn có những đặc điểm riêng biệt sau
đây:
- Giá trị nghề nghiệp là cái có khả năng giúp con người thỏa mãn những
nhu cầu liên quan đến việc thực hiện các chức năng chuyên môn trong một lĩnh
vực hoạt động nhất định. Với các nghề khác nhau thì GTNN cũng khác nhau.
Song, nhìn chung, các GTNN trong mỗi nghề đều bao gồm: các phẩm chất nghề
nghiệp, truyền thống của nghề, các tri thức lý thuyết của nghề, các kỹ năng, kỹ
xảo, hiệu quả lao động… Các GTNN đóng vai trị định hướng và điều chỉnh
hoạt động chuyên môn của nghề, chi phối người lao động trong việc lựa chọn
mục đích, phương thức và phương tiện khi tiến hành các hoạt động chuyên môn.
Tổng thể các GTNN trong một nghề tạo nên văn hóa của nghề đó. Việc lĩnh hội
các GTNN từ nền văn hóa nghề sẽ giúp con người hình thành được nhân cách
nghề nghiệp ở bản thân. Nhờ vậy, họ có thể tham gia lao động trong nghề và
khẳng định được giá trị của mình trong hoạt động nghề nghiệp cũng như trong
cộng đồng xã hội. Vì thế, GTNN chính là giá trị nhân cách nghề nghiệp của
người lao động, là giá trị của con người.
- Nguồn gốc của GTNN nằm trong thực tiễn của nghề, nó vốn là đặc tính
của những đối tượng nhất định. Đặc tính này trở thành GTNN khi nó được
người lao động nhận thức, đánh giá là có ý nghĩa tích cực cho hoạt động nghề
nghiệp của bản thân và mong ước chiếm lĩnh lấy nó. Như vậy, GTNN chỉ được
hình thành trong thực tiễn nghề và thông qua sự đánh giá của chủ thể hoạt động

trong nghề (cá nhân, nhóm người hoặc cộng đồng người lao động).
- Các GTNN luôn gắn kết chặt chẽ với công việc chuyên môn trong một
lĩnh vực hoạt động nhất định. Chúng chỉ hình thành và tồn tại trong mối quan hệ
với những nhu cầu có liên quan đến cơng việc chuyên môn của người lao động.
Mỗi nghề là một lĩnh vực chuyên môn đặc thù với những chức năng, mục đích,
nội dung, phương thức, phương tiện và điều kiện thực hiện riêng biệt. Tính đặc
thù về chun mơn của nghề đã tạo ra tính đặc thù trong nhu cầu về chun mơn
của người lao động, và do đó, tạo ra tính đặc thù của các GTNN nằm trong nghề.
Nói khác đi, GTNN bao giờ cũng là giá trị đặc trưng cho một nghề cụ thể.
17


Từ những đặc điểm trên, tác giả luận án sử dụng khái niệm “giá trị nghề
nghiệp” với hàm nghĩa là giá trị (phẩm chất, tri thức, kỹ năng…) đặc trưng của
người lao động trong một nghề, có khả năng thỏa mãn những nhu cầu liên quan
đến công việc chuyên môn của người lao động, chi phối họ trong việc lựa chọn
mục đích, phương thức và phương tiện để tiến hành các hoạt động chuyên môn.
Như vậy, khái niệm “giá trị nghề nghiệp” hoàn toàn khác với khái niệm
“giá trị của nghê nghiệp”. Khái niệm “Giá trị của nghề nghiệp” được dùng để
chỉ về những ích lợi mà nghề đó mang lại cho cá nhân và xã hội. Còn khái niệm
“giá trị nghề nghiệp” lại được dùng để chỉ về những phẩm chất, đức tính, các tri
thức lý thuyết, các kỹ năng, kỹ xảo… mang tính đặc trưng của một nghề. Các
GTNN là các giá trị con người, giúp con người thực hiện tốt chức năng nghề
nghiệp của mình. GTNN có quan hệ mật thiết với giá trị của nghề nghiệp. Nhờ
GTNN mà người lao động đã làm cho nghề nghiệp của mình trở nên có giá trị
đối với cộng đồng, xã hội. Nói cách khác, GTNN tạo nên giá trị của nghề
nghiệp.
Khi bàn đến khái niệm GTNN cũng cần phân biệt nó với khái niệm chuẩn
nghề nghiệp. Trên thực tế, hai khái niệm này thường đi liền với nhau, nhiều khi
ý nghĩa của chúng trùng khít với nhau, rất khó tách bạch. Tuy nhiên, nếu xem

xét đầy đủ thì GTNN và chuẩn nghề nghiệp có nhiều điểm khác biệt. GTNN là
biểu tượng tinh thần có tác dụng thúc đẩy người lao động tích cực thực hiện các
chức năng của nghề, còn chuẩn nghề nghiệp là quy ước chung về những điều mà
người lao động trong nghề nên làm, phải làm và những điều khơng nên làm,
khơng được làm, nó nhắc nhở mỗi người cần phải ứng xử như thế nào trong
từng tình huống cụ thể. GTNN là cái quy định mục đích hoạt động của người lao
động, cịn chuẩn nghề nghiệp là sự vận dụng cụ thể GTNN vào việc định hướng
các khuôn mẫu ứng xử và quy tắc hành động để đạt đến mục đích ấy. Giá trị và
chuẩn nghề nghiệp có quan hệ mật thiết với nhau. GTNN là nền tảng tạo nên
chuẩn nghề nghiệp, còn chuẩn nghề nghiệp lại là sự hiện thực hóa của các
GTNN. Vì thế, trên cơ sở khái quát các chuẩn nghề nghiệp có thể rút ra các
GTNN tương ứng.
18


Trong thực tiễn nghề nghiệp luôn hàm chứa vô số các GTNN khác nhau.
Tùy theo mục đích nghiên cứu mà có thể đưa ra những tiêu chí khác nhau để
phân loại các GTNN. Chẳng hạn:
+ Dựa vào hiệu quả của GTNN về phương diện lợi ích có thể phân thành
giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
+ Căn cứ vào thời điểm hình thành GTNN và thời gian tồn tại của nó
trong lịch sử phát triển nghề có thể phân thành giá trị truyền thống và giá trị hiện
đại.
+ Phân loại các GTNN theo chức năng của nó trong hoạt động nghề, ta có
giá trị mục đích và giá trị cơng cụ.
Sự phân loại GTNN chính là sự sắp xếp các giá trị theo những quan hệ
nhất định. Căn cứ vào sự phân loại GTNN cũng như căn cứ vào chức năng, mức
độ phổ biến hoặc mức độ tác dụng của giá trị, có thể xác địn được các hệ thống
GTNN và thang GTNN.
Hệ giá trị nghề nghiệp là một tổ hợp các GTNN khác nhau được sắp xếp,

hệ thống lại theo những nguyên tắc nhất định tạo thành một chỉnh thể thống nhất
để thực hiện các chức năng chuyên môn trong hoạt động nghề nghiệp.
Một hệ GTNN bao giờ cũng có một cấu trúc cụ thể. Trong đó, các giá trị
được sắp xếp thành từng nhóm. Các nhóm này có vị trí độc lập tương đối và có
sự tương tác qua lại với nhau. Hệ GTNN có cấu trúc như thế nào là tùy thuộc
vào cách sắp xếp các giá trị tồn tại bên trong nó. Chẳng hạn, nếu sắp xếp giá trị
theo các mặt hoạt động thì cấu trúc của hệ GTNN gồm có các nhóm giá trị: đạo
đức nghề nghiệp, tri thức nghề nghiệp, kỹ thuật lao động. Còn khi sắp xếp giá trị
theo các mặt trong nhân cách nghề nghiệp thì cấu trúc của hệ GTNN lại bao
gồm các nhóm giá trị: đạo đức nghề, trình độ tay nghề, phong cách nghề.
Nghề nghiệp là một lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực
nghề nghiệp luôn tồn tại nhiều nghề, nhiều chuyên mơn khác nhau. Mỗi nghề,
mỗi chun mơn đều có những hệ GTNN riêng, mang tính đặc thù. Việc hệ
thống hóa các giá trị trong một hệ GTNN theo tầng bậc cộng đồng sẽ xác định
được các cấp độ giá trị trong hệ GTNN đó. Ví dụ, trong hệ thống GTNN của
19


nghề dạy học có các cấp độ giá trị từ tồn cầu, quốc gia,.. đến từng trường, từng
bộ mơn, từng cá nhân. Một GTNN được xác định nằm ở cấp độ giá trị nào tức là
nó có ý nghĩa với mọi người trong cộng đồng đó. Các cấp độ giá trị trong một hệ
GTNN có quan hệ bao hàm nhau, nằm trong nhau. Bởi vậy, giữa các cấp độ giá
trị trong một hệ GTNN có nhiều nét đồng nhất với nhau thể hiện ở những giá trị
chung cho nhiều cấp độ, nhưng cũng có những điểm khác biệt thể hiện ở các giá
trị đơn lẻ và đặc biệt là ở sự xếp đặt thứ tự các giá trị trong tổng thể bảng
GTNN.
Bất cứ hệ GTNN nào cũng mang tính lịch sử - cụ thể, chịu sự chế ước bởi
những điều kiện phát triển xã hội - lịch sử. Trong sự biến đổi của xã hội từ thời
kỳ này sang thời kỳ khác, hệ GTNN cũng biến đổi theo. Có những giá trị mới
được nảy sinh, có những giá trị cũ bị mất đi, đồng thời là sự chuyển hóa cho

nhau giữa các GTNN và các nhóm GTNN. Bởi vậy, trong một hệ GTNN ln
bao gồm cả những giá trị có tính truyền thống và tính thời đại, cả những giá trị
mang tính nhân loại, tính dân tộc và tính cộng đồng…
Thang giá trị nghề nghiệp là một hệ thống GTNN được sắp xếp theo một
trật tự ưu tiên nhất định. Trong thực tế, tùy theo đặc điểm phát triển của nghề ở
từng thời điểm lịch sử nhất định, mà giá trị này được ưu tiên hơn giá trị khác,
giá trị này được cần đến hơn giá trị kia. Bởi vậy, thang GTNN cũng thay đổi
cùng với sự thay đổi của xã hội cả về thời gian và không gian. Khi thang GTNN
được một chủ thể nào đó (người lao động hoặc người quản lý lao động trong
nghề…) vận dụng vào quá trình thực hiện hay đánh giá các hoạt động trong mối
quan hệ với công việc, với đồng nghiệp, với tập thể, với xã hội và với chính bản
thân mình, hoặc để sáng tạo, nhận thức đánh giá, lựa chọn và chấp nhận các giá
trị cần cho nghề nghiệp của mình thì được gọi là thước đo giá trị nghề nghiệp.
Vấn đề thang GTNN và thước đo GTNN là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với
sự tồn tại và phát triển của nghề, nó định hướng và thúc đẩy sự phát triển nhân
cách của người lao động, giúp họ hình thành được các phẩm chất và năng lực
nghề nghiệp cần thiết. Do đó, việc chuyển hóa thang GTNN, thước đo GTNN
thành thang giá trị, thước đo giá trị của từng người lao động sẽ tạo nền tảng
20


vững chắc để họ gắn bó với nghề, hồn thành tốt các chức năng nghề nghiệp của
mình.
Trong một hệ GTNN nói chung, một thang GTNN nói riêng bao giờ cũng
có các giá trị chuẩn (hay chuẩn GTNN). Đó là những giá trị cốt lõi, giữ vị trí
then chốt và có thứ tự ưu tiên cao trong hệ thống GTNN. Các chuẩn GTNN
được hình thành, xác định trong quá trình cá nhân hoặc cộng đồng những người
lao động tham gia vào các hoạt động và các mối quan hệ nghề nghiệp với tư
cách là chủ thể của các hoạt động và các mối quan hệ đó. Vì vậy, các chuẩn
GTNN ln đóng vai trị là cơ sở định hướng cho đạo đức, lối sống nghề nghiệp

của mỗi cá nhân và cộng đồng người lao động.
1.2.2. Định hướng giá trị nghề nghiệp
1.2.2.1. Định hướng giá trị:
Khái niệm “định hướng giá trị” được sử dụng phổ biến trong các nghành
khoa học xã hội và nhân văn. Đây là một khái niệm phức tạp và có nhiều định
nghĩa khác nhau. Theo “Từ điển tâm lý học tóm tắt” của Liên Xơ thì: “Định
hướng giá trị là phương thức chủ thể sử dụng để phân biệt các sự vật theo ý
nghĩa của chúng đối với chính mình, từ đó hình thành nội dung cơ bản của xu
hướng, động cơ hoạt động” [36, tr. 67].
Trong cuốn “Những cơ sở nghiên cứu xã hội học”, các tác giả đã quan
niệm: “Định hướng giá trị là khuynh hướng chung đã được quy định về mặt xã
hội được ghi lại trong tâm lý cá nhân, nhằm vào mục đích và phương tiện hoạt
động trong lĩnh vực nào đó” [40, tr.59].
Ở nước ta, khi thực hiện hai chương trình khoa học công nghệ cấp nhà
nước KX - 07 và KHXH - 04, các nhà khoa học đã tiến hành thao tác với khái
niệm này và đã đưa ra những định nghĩa khá cụ thể. Trong đề tài KX - 07 - 10,
các tác giả đã cho rằng: “Định hướng giá trị là thái độ, là sự lựa chọn các giá
trị vật chất và tinh thần, là một hệ thống tâm thế, niềm tin, sở thích của con
người đối với một giá trị nào đó” [34, tr.3]. Cũng vậy, các tác giả đề tài KHXH
- 04 - 03 đã quan niệm: “Định hướng giá trị là sự lựa chọn các giá trị vật chất
và tinh thần trên cơ sở hệ thống thái độ, niềm tin, sở thích và tâm thế, nhằm
21


phân biệt các sự vật theo ý nghĩa của chúng đối với chính mình, từ đó hình
thành nội dung cơ bản của động cơ và xu hướng hoạt động và ứng xử” [34,
tr.59]. Cịn Phạm Minh Hạc thì định nghĩa một cách ngắn gọn: “Sự sắp xếp, lựa
chọn giá trị gọi là định hướng giá trị” [7, tr. 125].
Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về định hướng giá trị. Qua các
định nghĩa có thể nêu lên những điểm chung sau đây:

- Thứ nhất, định hướng giá trị là thái độ lựa chọn giá trị của con người, là
một dạng hoạt động tinh thần giúp con người phân biệt được cái có ý nghĩa, có
giá trị với những cái vô nghĩa, vô giá trị đối với họ. Nội dung cơ bản của định
hướng giá trị là niềm tin mang tính chất thế giới quan, niềm tin đạo đức của con
người, là những khát vọng sâu xa và liên tục, những nguyên tắc chân, thiện, mỹ
của hoạt động xã hội và hành vi ứng xử. Nghĩa là định hướng giá trị có liên hệ
mất thiết với các quy trình nhận thức, ý chí và cảm xúc của con người.
- Thứ hai, định hướng giá trị diễn ra trên cái nền của tâm thế, thái độ,
niềm tin và sở thích của con người. Bởi vậy, định hướng giá trị có quan hệ hữu
cơ với các yếu tố này. Trong định hướng giá trị có sự thể hiện thái độ, đó là thái
độ đánh giá, thái độ cảm xúc, thái độ lựa chọn giá trị mà chủ thể chấp nhận.
Cũng vậy, tâm thế, niềm tin và sở thích là một bộ phận tố thành của định hướng
giá trị. Nhờ các thành tố này mà chủ thể thực hiện sự lựa chọn giá trị một cách
có chủ đích và ln sẵn sàng hành động, ứng xử phù hợp với các giá trị đã lựa
chọn.
- Thứ ba, định hướng giá trị là thành tố cốt lõi trong cấu trúc nhân cách.
Tập hợp những định hướng giá trị ổn định và không mâu thuẫn tạo nên những
nét đặc trưng của ý thức, đảm bảo tính mục đích, tính tích cực và kiên định của
nhân cách khi hoạt động theo phương hướng nhất định. Chúng cũng biểu thị nhu
cầu, hứng thú cá nhân là những yếu tố quyết định và điều chỉnh hệ động cơ của
nhân cách. Định hướng giá trị gắn liền với việc giải quyết những mâu thuẫn,
những xung đột trong hệ động cơ, trong cuộc đấu tranh giữa hành vi đạo đức và
những kích thích thực dụng. Sự phát triển các định hướng giá trị là dấu hiệu
trưởng thành của nhân cách, là chỉ tiêu đo đạc tính xã hội của nhân cách.
22


Tóm lại, định hướng giá trị là một dạng hoạt động tinh thần, thực hiện
việc lựa chọn và sắp xếp các giá trị trên cơ sở hệ thống thái độ, niềm tin, sở
thích và tâm thế của con người, nhằm phân biệt ý nghĩa của các đối tượng đối

với bản thân cũng như cộng đồng, từ đó hình thành nên nội dung cơ bản của xu
hướng và động cơ hoạt động.
Trong lĩnh vực giáo dục học, bên cạnh hàm nghĩa là một dạng hoạt động
tinh thần diễn ra trong ý thức của chủ thể, khái niệm “định hướng giá trị” còn
được dùng khá phổ biến với ý nghĩa là hoạt động giáo dục giá trị. Sự tồn tại ha
nghĩa này trong nội hàm của khái niệm định hướng giá trị đã được nhiều tác giả
đề cập đến với những cách nhìn khác nhau. Chẳng hạn, Thái Duy Tuyên cho
rằng: “Khái niệm định hướng giá trị thường được hiểu theo hai nghĩa:
- Mỗi cá nhân hay cộng đồng nào đó định hướng giá trị cho mình có
nghĩa là lựa chọn cho mình một giá trị hoặc hệ thống giá trị nào đấy.
- Mỗi cá nhân hay cộng đồng định hướng giá trị cho một người hay một
tập thể nào đấy có nghĩa là giáo dục giá trị” [35, tr. 124].
Không tách bạch thành hai nghĩa độc lập như cách hiểu trên mà xem
chúng là hai mặt không thể thiếu của một quá trình định hướng giá trị, các giả
của giáo trình “Đạo đức học quân sự” đã quan niệm: “Định hướng giá trị bao
hàm sự hướng dẫn từ bên ngoài và sự định hướng của chủ thể” [32, tr. 178].
Cũng có tác giả lại nhấn mạnh đến nghĩa hoạt động giáo dục giá trị trong nội
hàm của khái niệm định hướng giá trị, còn hàm nghĩa hoạt động định hướng giá
trị (hoạt động tinh thần) của chủ thể chỉ được đề cập đến như là kết quả của hoạt
động giáo dục giá trị [20].
Hoạt động giáo dục giá trị là hoạt động có tính định hướng. Đó là sự định
hướng của nhà giáo dục đối với quá trình nhận thức, lựa chọn giá trị của người
được giáo dục, giúp họ hình thành nên ở bản thân một hệ thống giá trị phù hợp
với sự mong đợi của xã hội. Vì thế, việc đưa giáo dục giá trị vào trong nội hàm
của định hướng giá trị là phản ánh đúng bản chất của giáo dục giá trị và mối
quan hệ gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời giữa giáo dục giá trị với sự định
hướng giá trị của cá nhân. Tuy nhiên, trong nghiên cứu, cần có sự phân biệt rõ
23



ràng giữa giáo dục giá trị với hoạt động định hướng giá trị của nhân cách. Riêng
trong đề tài này, khái niệm định hướng giá trị được dùng với hàm nghĩa là một
thành tố cốt lõi trong cấu trúc nhân cách để phân biệt với hàm nghĩa là một quá
trìn xã hội hình thành địn hướng giá trị cho cá nhân (nghĩa là giáo dục chính trị).
Định hướng giá trị là một thành phần cấu tạo nên nhân cách, là hoạt động
tâm lý diễn ra trong ý thức của chủ thể theo các quá trình với những giai đoạn
khác nhau. Việc phân chia các giai đoạn này được dựa trên cơ sở những tiêu
chuẩn xác định giá trị cụ thể. Theo các tác giả Paths, Harmin và Simon [36], có
bảy tiêu chuẩn để xác định giá trị. Do đó, một hoạt động định hướng giá trị
thường trải qua bảy giai đoạn dựa trên cái nền của ba quá trình cơ bản là: lựa
chọn, cân nhắc và hành động. Trong đó, q trình lựa chọn gồm có các giai
đoạn: lựa chọn tự do, lựa chọn từ các khả năng khác nhau, lựa chọn sau khi cân
nhắc; Quá trình cân nhắc bao gồm: giai đoạn cân nhắc và tâm niệm, giai đoạn
khẳng định; Q trình hành động có các giai đoạn: hành động theo lựa chọn và
lặp lại hành động. Kết quả của hoạt động định hướng giá trị là con người khẳng
định được một giá trị nào đó, lấy nó làm cái để bản thân hướng tới trong cuộc
sống.
1.2.2.2. Định hướng giá trị nghề nghiệp
Cho đến nay, vẫn chưa có ai đưa ra định nghĩa cụ thể về “định hướng giá
trị nghề nghiệp”. Tuy nhiên, dựa vào khái niệm “định hướng giá trị” và khái
niệm “giá trị nghề nghiệp” ở trên, tác giả luận án quan niệm định hướng GTNN
là sự lựa chọn, sắp xếp các giá trị nghề nghiệp trên cơ sở tâm thế, thái độ, niềm
tin và sở thích của người lao động, nhằm phân biệt ý nghĩa của chúng đối với
việc thực hiện các chức năng nghề nghiệp, từ đó hình thành nên nội dung cơ
bản của xu hướng và động cơ trong nhân cách nghề nghiệp của bản thân.
Khái niệm “định hướng GTNN”, với quan niệm như vậy, hoàn toàn khác
với khái niệm “định hướng giá trị của nghề”. Sự khác biệt này thể hiện ở chỗ,
“định hướng GTNN” là sự lựa chọn, sắp xếp các phẩm chất, tri thức, kỹ năng và
kỹ xảo theo ý nghĩa của chúng đối với việc thực hiện một hoạt động nghề nghiệp
nào đó, cịn “định hướng giá trị của nghề” lại là sự lựa chọn, sắp xếp của con

24


người đối với những ích lợi mà một nghề có thể mang lại cho cá nhân hoặc xã
hội. Những lợi ích đó có thể là nghề nhàn rỗi, nghề có thu nhập cao, nghề được
mọi người kính trọng… Định hướng GTNN có tác dụng giúp con người làm tốt
chức năng nghề nghiệp của mình, cịn định hướng giá trị của nghề đóng vai trị
là cơ sở để con người lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân hoặc người khác.
Định hướng GTNN được con người (cá nhân, cộng đồng người lao động
của một nghề) tạo ra khi họ chủ động vận hành hệ GTNN, thang GTNN trong
hoạt động và giao lưu về chuyên môn. Bản chất của định hướng GTNN là lấy
cách hiểu về giá trị, cách đánh giá về các đối tượng trong thực tiễn của nghề
làm cơ sở cho những gì liên quan đến việc thực hiện các chức năng nghề nghiệp:
một mục đích cần đạt đến, một quan điểm về chuyên môn, một nguyên tắc và
chuẩn mực ứng xử trong lao động, một niềm tin vào điều mình đang làm… Định
hướng GTNN được thể hiện ở việc con người đánh giá cao và ấp ủ những
GTNN nào đó, lấy chúng làm kim chỉ nam cho các hoạt động nghề nghiệp của
bản thân. Bởi vậy, định hướng GTNN là thành phần quan trọng nhất trong cấu
trúc nhân cách nghề nghiệp của người lao động. Nó quy định động cơ, phương
hướng hoạt động trí tuệ và sự nỗ lực ý chí của người lao động khi tiến hành các
hoạt động trong nghề. Sự phát triển các định hướng GTNN ở người lao động
chính là chỉ tiêu để đo đạc về trình độ phát triển hân cách nghề nghiệp của họ.
Quá trình hình thành và phát triển hệ thống định hướng GTNN của mỗi
người là một quá trìn lâu dài. Điều kiện cho sự hình thành và phát triển hệ thống
định hướng GTNN ở con người là họ phải được sống trong mơi trường văn hóa
của nghề với những giá trị mang tính đặc trưng được tạo ra, bảo tồn và chuyển
hóa trong suốt lịch sử phát triển của nghề. Nhìn chung, quá trình hình thành và
phát triển hệ thống định hướng GTNN ở con người trải qua các giai đoạn: từ khi
cịn học ở trường phổ thơng, được đào tạo nghề ỏ trường chuyên nghiệp, và thời
gian lao động trong nghề. Trong đó, giai đoạn được đào tạo ở trường chuyên

nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt, bởi nó tạo nền tảng vững chắc cho sự hình
thành hệ thống định hướng GTNN của người lao động.
1.2.3. Giáo dục giá trị nghề nghiệp
25


×