Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Phong trào thể dục thể thao trong một số trường đại học công lập ở thành phố hồ chí minh hiện nay thực trạng và giải pháp quản lý​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.18 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Phúc Nguyện

PHONG TRÀO THỂ DỤC THỂ THAO TRONG
MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY: THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
Chuyên ngành:
Quản lý Giáo dục
Mã Số:
60 14 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. TRẦN TUẤN LỘ

Thành Phố Hồ Chí Minh - 2006


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn
là trung thực, khách quan và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả

NGUYỄN PHÚC NGUYỆN




DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Thứ tự
1

TD

2

CL

3

GD

4

GD

5

ĐH

6

KT

7


KH

8

SV

9

TP

10

CT

11

TN

12

CL

13

NX

14

TH


15

DN


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sức khỏe của mỗi người không chỉ là vấn đề riêng của từng người mà
còn là tài sản chung của xã hội. Xã hội cần đến sức khỏe của từng người
phát triển. Toàn xã hội cũng có trách nhiệm đối với sức khỏe của từng người.
Do đó, việc giáo dục thể dục thể thao với chức năng làm biến đổi thể chất của
con người theo một xu hướng nhất định là vô cùng cần thiết và cũng là một bộ
phận quan trọng không thể thiếu của giáo dục Đại học để phát triển toàn diện về
nhân cách và về sức khỏe cho thế hệ trẻ cũng như là để đào tạo cán bộ, giáo
viên, huấn luyện viên và vận động viên cho nền thể dục thể thao Việt Nam.
Ngày 17/04/93 Liên Bộ Giáo dục và Đào tạo – Tổng Cục Thể dục thể thao đã ra
thông tư Liên Bộ số 04/04/GDĐT- Thể dục thể thao về việc đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng giáo dục thể chất trong sinh viên, đưa hoạt động ngoại khóa thể dục thể thao vào
trường học để phát động phong trào luyện tập rộng khắp trong nhà trường các cấp với
mục tiêu : “Mỗi sinh viên, học sinh biết chơi một môn thể thao”.
Ngày 24/03/1994, Ban Bí Thư TW Đảng đã ra chỉ thị 36/CT-TW về công tác thể dục
thể thao trong giai đoạn mới hiện nay, với một trong các chỉ tiêu cần phải phấn đấu là: “…
Thực hiện giáo dục thể chất trong tất cả các trường học. Làm cho việc tập luyện thể dục
thể thao trở thành nếp sống hằng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên…”.
Thể dục thể thao là một hoạt động khoa học, vừa mang tính khoa học vừa mang tính
chuyên nghiệp, vừa mang tính nghệ thuật và vừa mang tính xã hội, quần chúng. Sự đa dạng về
hình thức, đối tượng và phương pháp tập luyện của các hoạt động thể dục thể thao đã tạo
điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia rèn luyện nhằm nâng cao sức khỏe và cũng là môi
trường để phát hiện tài năng thể thao đóng góp cho ngành Thể dục thể thao nước nhà. Ủy
Ban Thể dục thể thao nêu rõ “ Thể dục thể thao” là sự nghiệp của toàn dân, của toàn xã

hội. Nhân dân là nguồn sáng tạo, ngøi thực hiện và người thưởng thức các thành quả hoạt
động thể dục thể thao. Do vậy, cần phải tạo điều kiện cho mọi tổ


chức, tập thể, cá nhân có trách nhiệm tự nguyện và bình đẳng hỗ
trợ, đóng góp nhân lực, tiền tài, trí tuệ để phát triển thể dục thể thao.
Hoạt động thể dục thể thao là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong công
cuộc đổi mới hiện nay. Tuy nhiên muốn đạt được hiệu quả cao nó cần phải có một hệ thống
tổ chức với đầy đủ cơ sở pháp lý, cơ sở lý luận thực tiễn để đảm bảo khả năng chỉ đạo,
tổ chức thực hiện, tập hợp mọi tầng lớp quần chúng tham gia và huy động được các nguồn lực
trong xã hội để đóng góp sự nghiệp phát triển phong trào thể dục thể thao một cách vững
chắc và lâu dài. Vì vậy, chúng ta cần nhanh chóng ổn định bộ máy quản lý và điều hành
như Nghị quyết 20/NQTU của Ban thường vụ Thành ủy đã ghi về phát triển thể dục thể thao :
“…. Chấn chỉnh tổ chức bộ máy của ngành Thể dục thể thao, đảm

bảo sự ổn định, đoàn kết sự thống nhất, đủ sức tổ chức quản lý
và điều hành nền Thể thao Thành phố trong giai đoạn phát triển mới”.
Tuy nhiên, thực trạng công tác giáo dục thể dục thể thao tại các trường Đại
học trong thời gian hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn; Mặc dù vẫn tiến hành
giảng dạy theo nội dung và chương trình của Bộ quy định nhưng trên thực tế cơ sở
vật chất phục vụ cho công tác giảng dạy - tập luyện thể dục thể thao tại nhiều
trường vẫn còn rất hạn chế về sân bãi, trang thiết bị tập luyện thể dục thể thao
và ngay cả về hình thức, phương pháp giảng dạy cũng chưa được sinh động, hấp
dẫn nên chưa tạo được sự thu hút và chưa phát huy được tính tự giác, tích cực đối
với phần lớn các sinh viên tham gia học tập và rèn luyện các môn thể thao.
Xuất phát từ các vấn đề trên, với tư cách là một giáo viên và làm cán bộ quản lý
tôi chọn để nghiên cứu đề tài là: “Phong trào thể dục thể thao trong một số trường Đại
học công lập ở Thành Phố Hồ Chí Minh hiện nay: Thực trạng và giải pháp quản lý.”

Đó là lý do chọn đề tài.

2. Mục đích nghiên cứu
a. Đánh giá đúng thực trạng phong trào thể dục thể thao ở các trường
Đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và thấy được những
nguyên nhân của thực trạng đó, nhất là những nguyên nhân quản lý.


b. Tìm ra được một số biện pháp quản lý được dư luận đánh giá là
cần thiết và khả thi để góp phần nâng cao chất lượng của phong trào.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
a. Khảo sát và điều tra thực trạng và nguyên nhân của thực trạng phong trào TDTT
trong một số trường Đại học công lập ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.

b. Đề xuất các biện pháp quản lý có thể góp phần nâng cao chất lượng
phong trào TDTT trong các trường Đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
a. Khách thể nghiên cứu:
Tiến hành phỏng vấn các Trưởng Khoa, giảng viên bộ môn Giáo dục
Thể dục Thể thao, Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch
Hội sinh viên, Chủ tịch Hội Thể thao,Trưởng Phòng Quản lý Sinh viên, sinh
viên đang học tập (300 sinh viên và 30 cán bộ, giáo viên thể dục thể thao).

b. Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng quản lý phong trào thể dục thể thao trong một số
trường Đại học công lập ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bao gồm: Các loại
hình hoạt động và quản lý phong trào thể dục thể thao (Hội thể thao,
câu lạc bộ đội tuyển.....). Các giải thi đấu trong và ngoài trường.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Một số trường Đại học công lập ở Thành phố Hồ Chí Minh.

- Lý do chọn trường công lập để nghiên cứu là vì:
Đề tài có nhiệm vụ phát hiện những yếu kém cần khắc phục
của phong trào thể dục thể thao các trường Đại học.
Trường Đại học công lập mà còn yếu kém thì các trường Đại
học ngoài công lập nói chung cũng không thể không yếu kém.
Do đó từ kết quả nghiên cứu phong trào ở Đại học công lập
cũng suy ra được thực trạng của các trường Đại học ngoài công lập.


-

Tiến hành nghiên cứu đề tài tại: 3 trường Đại học công lập ở TP.Hồ Chí Minh gồm

trường Đại học Kinh tế, trường Đại học Khoa học Tự nhiên và trường Đại học Luật.

6. Phương pháp và tổ chức nghiên cứu
Trong quá trình tổ chức, triển khai thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu
của đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau:

6.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu
Dùng phương pháp này nhằm mục đích tổng hợp, phân tích hệ
thống các thông tin, tài liệu thu thập được và những kiến thức có liên
quan đến đề tài như cơ sở lý luận, xác định và giải quyết các nhiệm
vụ nghiên cứu. Các tài liệu tham khảo bao gồm các vấn đề sau:
- Một số nghị quyết của Trung ương Đảng, văn kiện Đại hội Đảng VIII,
IX.
- Các văn bản của ngành như luật giáo dục 2005, điều lệ trường Đại
học.
-


Báo cáo tổng kết của Hội Thể thao Việt Nam và Thành phố Hồ Chí Minh.

- Tài liệu giảng dạy về môn lý luận phương pháp giáo dục thể
chất trong nhà trường – Môn Quản lý Nhà nước.
- Các tuyển tập công trình khoa học giáo dục thể chất, sức khỏe
trong trường học các cấp.
- Các báo chí có liên quan đến phong trào TDTT.
6.2. Phương pháp điều tra sư phạm
Chúng tôi tiến hành điều tra sư phạm (bằng phiếu) trên 2 dạng đối tượng:

- Các nhà quản lý và giáo viên TDTT
- Sinh viên đang học tập


6.3. Phương pháp phỏng vấn chuyên gia
Sử dụng phương pháp này chúng tôi thu thập và xử lí các thông tin qua ý kiến
đánh giá dự báo của các nhà quản lý, nhà khoa học, các chuyên gia có trình độ và kinh
nghiệm trong lónh vực quản lý các họat động phong trào TDTT trong nhà trường thông qua
các hình thức như trao đổi, phân tích góp ý qua các tài liệu tổng hợp để có cơ sở đánh
giá và lựa chọn các vấn đề nghiên cứu cũng như các giải pháp sát thực.

6.4. Phương pháp toán học thống kê để xử lý số liệu thu được


CHƯƠNG 1
VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
CHO VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. Vài nét về lịch sử phát triển phong trào TDTT

Trong quá khứ các hoạt động thể dục thể thao đã xuất hiện và gắn liền với đời
sống, sinh hoạt con người từ rất sớm. Nó là là một hiện tượng xã hội, ra đời cùng với
sự hình thành và phát triển của xã hội loài người. Qua quá trình lao động sáng tạo loài
người mà những hình thức rèn luyện thân thể cũng được phát sinh, hình thành và phát
triển nhằm đáp ứng nhu cầu giữ gìn sức khỏe, nâng cao năng lực vận động và góp phần
phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, phát triển xã hội. Như vậy, tính tất yếu và mối
quan hệ thiết thực giữa thể dục thể thao và con người từ trước đến nay đã được thời gian
minh chứng. Các hoạt động thể dục thể thao đơn giản ở buổi sơ khai đã và sẽ là nền
móng để hình thành nền giáo dục thể dục thể thao hôm nay cũng như trong tương lai.
Trong thời đại hiện nay, thể dục thể thao giữ vai trò rất quan trọng đối với đời sống
xã hội của con người. Thật vậy, các hoạt động thể dục thể thao không những đem lại sự
nghỉ ngơi giải trí nâng cao sức khỏe cho quần chúng mà còn là một phương tiện tối ưu
trong việc giao lưu văn hóa, mở rộng quan hệ giữa các nước trên thế giới với nhau. Mặt
khác, trong thực tiễn thể thao là một hình thức giáo dục rất hiệu quả. Với tính chất giải trí
lành mạnh, thể dục thể thao đã góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng lối sống
mới, con người mới và đẩy lùi tệ nạn xã hội.
Đảng và Nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghóa Việt Nam luôn quan tâm đến
mục tiêu giáo dục toàn diện thế hệ trẻ. Trong các văn kiện Đại hội VIII và Nghị quyết TW
khoá 2 của Đảng về giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ khẳng định: “Giáo dục đào
tạo cùng với khoa học và công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu… Muốn
xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh phải có con người phát triển toàn diện,


không chỉ phát triển về trí tuệ, trong sáng về đạo đức lối sống mà
còn phải là con người cường tráng về thể chất…”.
Điều này càng xác định tầm quan trọng của hoạt động giáo dục thể dục thể
thao mà hơn nữa là công tác quản lý phong trào thể dục thể thao trong các trường
Đại học. Quản lý phong trào thể dục thể thao thuộc loại hình quản lý tập thể
những con người. Loại hình này rất đa dạng nên nhất thiết phải từng bước quản lý
một cách khoa học và chặt chẽ theo điều kiện thực tế của mỗi trường.


1.2. Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài
1.2.1. Một số khái niệm thường dùng trong công tác giáo dục thể dục thể thao

1.2.1.1. Thể dục thể thao
“Thể dục thể thao là một bộ phận của nền văn hóa chung, là sự tổng hợp
những thành tựu xã hội trong sự nghiệp sáng tạo và sử dụng hợp lý những phương
tiện, phương pháp, biện pháp chuyên môn để nâng cao sức khỏe, bồi dưỡng thể
lực của nhân dân, góp phần giáo dục và phát triển con người toàn diện”. [14]

1.2.1.2.Giáo dục thể dục thể thao
Giáo dục thể dục thể thao là một quá trình giáo dục nhằm hoàn thiện
về mặt thể chất và chức năng của cơ thể con người, nhằm hình thành và
cũng cố những kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản quan trọng trong đời
sống, cùng những hiểu biết có liên quan đến kỹ năng, kỹ xảo đó [14].
Đặc điểm riêng biệt của giáo dục thể dục thể thao ở chỗ nó là một phương tiện
phục vụ xã hội, chủ yếu nhằm nâng cao thể chất, đồng thời nó tác động mạnh mẽ đến
cả sự phát triển tinh thần cho con người. Trong thực tế đời sống xã hội, không có giáo
dục thể dục thể thao chung chung, tồn tại ngoài những điều kiện lịch sử cụ thể. Trong mỗi
chế độ kinh tế xã hội nhất định đều có từng loại giáo dục thể dục thể thao tương ứng.

1.2.1.3. Phong trào thể dục thể thao
Phong trào là hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội lôi cuốn được đông
đảo quần chúng tham gia. Phong trào cách mạng, phong trào thể dục [11].


Phong trào thể dục thể thao là cuộc vận động và tổ chức để
ngày càng có nhiều người tham gia tập luyện hoặc đóng góp vào sự
phát triển của hoạt động TDTT trong trường học nhằm tăng cường sức
khỏe, thỏa mãn nhu cầu rèn luyện của cá nhân và trong giao tiếp [7].

1.2.1.4. Quản lý
Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với
quy luật, đạt tới mục đích đã đề ra và đúng ý chí của người quản lí [12].

1.2.1.5. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là quản lý hoạt động giáo dục của ngành giáo dục trên phạm vi
cả nước, hoặc một địa phương và hoạt động của giáo viên, nhân viên, sinh viên trong một
trường học để mỗi trường học, mỗi địa phương và cả nước đạt được mục tiêu giáo dục và
đào tạo người học thành những con người có nhân cách (phẩm chất và năng lực) cần
thiết để cá nhân họ có thể sống hạnh phúc và cống hiến nhiều cho xã hội [15].

1.2.1.6. Quản lý thể dục thể thao
Quản lý thể dục thể thao là việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, giám sát và
điều tiết đối với công tác thể dục thể thao để thu được hiệu quả xã hội tốt hơn. (Trong
mục thể dục thể thao của Bách khoa toàn thư Trung Quốc xuất bản năm 1983)[9].

1.2.1.7. Quản lý phong trào thể dục thể thao
Quản lý phong trào thể dục thể thao là sự tác động tổng hợp về vật chất và tinh
thần mang tính xã hội của hệ thống các cơ quan, các tổ chức quần chúng được tiến hành
có kế hoạch, khoa học và phù hợp với quy luật khách quan, tạo nên những tập thể người
tập Thể dục thể thao theo hướng phát triển toàn dân nhằm tăng cường sức khỏe và bồi
dưỡng thể lực của nhân dân để xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc. [7]

1.2.2. Lý luận về giáo dục thể dục thể thao và về quản lý
giáo dục thể dục thể thao trong các trường học
Đất nước ta đang ở giai đoạn “tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn



minh, vững bước đi lên chủ nghóa xã hội” thì giáo dục và đào tạo phải thực sự trở thành
quốc sách hàng đầu trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Giáo dục thể dục thể thao phải là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh
tế xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, làm
cho con người được phát triển toàn diện như đã nêu ở phần trên”.
1.2.2.1. Các nhà giáo dục, kể cả người làm công tác giáo dục thể dục thể thao
phải nhận thức đầy đủ tư tưởng chỉ đạo này để đưa nó được thực thi trong cuộc sống.
Trong khi hình thành kinh nghiệm vận động và phát triển các năng lực thể chất cho người
tập, người làm công tác giáo dục thể thao đồng thời phải giáo dục để họ có lý tưởng,
mở ra cho họ viễn cảnh tham gia tích cực trong lao động sản xuất, giúp họ lựa chọn con
đường trong cuộc sống và thực hiện nghóa vụ của người công dân đối với Tổ quốc.

Muốn đào tạo sinh viên của mình thành vận động viên ưu tú, thì chính
bản thân huấn luyện viên phải là người nắm vững công việc mình làm
Muốn giáo dục cho sinh viên tinh thần cần cù lao động, ý chí chiến thắng, thì bản
thân người thầy giáo phải thể hiện trong việc làm của mình là cần phải yêu lao động như
thế nào, cần phải khắc phục khó khăn, gian khổ ra sao để đạt được mục đích đề ra.

Muốn cho sinh viên trung thực, thật thà, kỷ luật và khiêm tốn thì nhà sư
phạm phải thật sự gương mẫu, thật sự và tấm gương sáng cho sinh viên noi theo.
Muốn phát triển thị hiếu thẩm mỹ trong sinh viên thì bản thân nhà sư phạm phải có
hiểu biết về nghệ thuật, phải biết cách giáo dục tình cảm, thị hiếu, quan điểm, tư tưởng
thẩm mỹ trong phạm vi thể dục thể thao, phải biết giáo dục khát vọng hướng tới cái đẹp
của cơ thể, tới sự giản dị, uyển chuyển và sức lôi cuốn của động tác, bản thần phải
là người khoẻ mạnh, biết tập luyện để giữ gìn cơ thể mình được hài hoà và cân đối.
1.2.2.2. Nghệ thuật sư phạm cũng như bản thân quá trình giáo dục là rất đa dạng. Nó
đòi hỏi người làm công tác giáo dục thể dục thể thao phải biết giảng dạy và hoàn thiện
năng lực thể chất người tập, biết phát triển lòng ham hiểu biét và khả năng độc lập tư
duy trong hoạt động thể dục thể thao, biết nhìn nhận một cách tinh tế những đặc điểm



cá nhân, những động cơ hành vi của người tập và khéo léo hướng
dẫn ý thích, đòi hỏi, nhu cầu và nguyện vọng của họ.
Các Mác nói: “Nhà giáo dục phải là người được giáo dục”. Thật vậy, để thực hiện
được mục đích, nhiệm vụ và nguyên tắc giáo dục thể dục thể thao nêu trên đòi hỏi người
làm công tác giáo dục phải được giáo dục và đào tạo với trình độ cao để có khả năng
tạo cho sinh viên những điều kiện tương ứng với nó nhằm phát triển và củng cố đầy đủ
tất cả những năng lực trí tuệ và thể lực cần thiết cho con người. Đó chính là lý tưởng
người làm công tác giáo dục nói chung và thể dục nói riêng.

1.2.2.3. Người làm công tác giáo dục thể dục thể thao cần phải yêu mến
việc làm của mình, cần phải là người được rèn luyện thể chất, có sức khoẻ
cường tráng và có trình độ điêu luyện về kỹ thuật thể dục thể thao. Trình độ
càng cao, tri thức chuyên môn trong lónh vực thể dục thể thao càng rộng, thì nhà
giáo dục càng có nhiều khả năng giải quyết tốt các nhiệm vụ giáo dục.
1.2.2.4. Do đặc thù của đối tượng thể dục thể thao nên phong thái bề
ngoài của giáo viên trong quá trình có ý nghóa rất đặc biệt. Trong khi cố gắng
hoàn thiện thể chất cho sinh viên của mình, bản thân nhà giáo dục cần có cơ
thể phát triển cân đối, cần có phong cách vận động đẹp, đơn giản và hấp
dẫn, cần có tư thế ngay ngắn, cách đi đứng nhẹ nhàng và tự nhiên.
Ngoài sự hoàn thiện về thể chất, người làm công tác giáo dục thể dục thể thao phải
có trình độ văn hoá chung. Chỉ có những người tự mình được rèn luyện về thẩm mỹ và trau
dồi về nghệ thuật mới có thể phát triển óc thẩm mỹ, lòng ham hiểu biết và tính tích cực
sáng tạo của sinh viên trong quá trình giáo dục thể dục thể thao. Điều quan trọng là cần phải
có tâm hồn phong phú, đồng thời phải vui tươi hoà nhã, có tính hài hước và biết lịch thiệp sư
phạm. Cần hết sức chú ý đến ngôn ngữ có văn hoá. Tác động ngôn ngữ của nhà sư phạm
phụ thuộc trực tiếp vào kết cấu hợp lôgic, vào sự thông hiểu văn học, vào tính chính xác, rõ
ràng và tính diễn cảm của ngôn ngữ. Vì vậy biết sử dụng ngôn ngữ, có giọng nói tốt và
âm điệu phong phú, đó là những vấn đề thuộc về kỹ thuật giáo dục. Không có kỹ thuật đó
thì không thể có trình độ điêu luyện về giáo dục. Ngôn ngữ có sức



truyền cảm mạnh và ấm cùng đầy sức thuyết phục sẽ có sức mạnh
truyền thụ kiến thức và giáo dục rất lớn.
1.2.2.5. Phẩm chất của nhà giáo dục có ảnh hưởng sâu sắc đối với
việc hình thành nhân cách và đạo đức của sinh viên như: tinh thần cần cù lao
động, tính thân tình, cởi mở, tính thẳng thắn, thật thà, trung thực và kỷ luật…
Những lầm lỗi nhỏ thuộc về thói quen của thầy giáo như hút thuốc chẳng hạn
cũng có thể để lại những ấn tượng không hay trong sinh viên vì các em thường
để ý đến hành vi, tư cách hơn là chú ý đến lời nói của giáo viên.
Vì vậy để giải quyết tốt nhiệm vụ giáo dục, người giáo viên thể dục thể
thao trước hết phải tự rèn luyện mình về đạo đức, phong cách, về năng lực
chuyên môn và nghiệp vụ để thật sự là tấm gương sáng cho sinh viên noi theo.
Tóm lại: Xuất phát từ các quan điểm và cũng là mục đích hành động của ngành thể
dục thể thao nêu trên, có thể kết luận rằng: Ngay từ lúc chưa có Chính quyền đến khi lãnh
đạo toàn dân đánh giặc ngoại xâm giành được độc lập và thống nhất đất nước và ngày nay
đang chuyển sang thời kỳ phát triển mới – đẩy mạnh công nghiệp – hiện đại hóa. Đảng và
Nhà nước ta trước sau như một rất quan tâm đến việc chăm lo sức khỏe của nhân dân. “Sự
cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo ra
tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội”. Chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm
của toàn xã hội nói chung, của ngành thể dục thể thao nói riêng. Đó cũng chính là mục đích
cơ bản, quan trọng nhất của giáo dục thể dục thể thao ở nước ta.

Dựa trên mục đích và điều kiện thực hiện (lứa tuổi người tập, trạng
thái sức khoẻ, trình độ huấn luyện, đặc điểm ngành nghề…) mà chúng
ta đặt ra những nhiệm vụ cụ thể của giáo dục thể dục thể thao. Dưới đây
là những nhiệm vụ chung nhất của giáo dục thể dục thể thao.

a. Phát triển cân đối về hình thái và chức năng của cơ thể con
người nhằm hoàn thiện toàn diện những năng lực thể chất, giữ gìn

sức khoẻ và nâng cao tuổi thọ của nhân dân lao động.


b. Hình thành những kỹ năng, kỹ xảo, vận động chủ yếu của con
người trong cuộc sống cùng những hiểu biết chuyên môn.
c. Giáo dục phẩm chất đạo đức, ý chí, thẩm mỹ và trí lực.
1.2.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước và cơ sở pháp lý
về công tác giáo dục thể dục thể thao trong trường Đại học
1.2.3.1. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về công
tác giáo dục thể dục thể thao trong nhà trường các cấp
Bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân là một việc rất quan trọng và cần
thiết gắn liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghóa xã hội, với hạnh phúc của nhân
dân. Đó là một trong những mối quan tâm hàng đầu của chế độ ta, là trách nhiệm cao quý
của Đảng và Nhà nước mà trực tiếp là ngành Thể dục Thể thao và ngành Y tế.

Tinh thần đó được xuyên suốt trong cả quá trình lãnh đạo Cách Mạng của Đảng và
Chính phủ. Cứ mỗi bước ngoặt của Cách Mạng, Đảng và Nhà nước đều có Chỉ thị,
Nghị quyết cần thiết hướng dẫn tổ chức các hoạt động thể dục thể thao cho phù hợp.
Ngày 27/03/1946: Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục, Người
khẳng định vị trí sức khỏe dưới chế độ mới “giữ gìn dân chủ xây dựng nước nhà, gây đời
sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công. Mỗi một người dân yếu ớt, tức
là làm cho cả nước yếu ớt, mỗi một người dân khoẻ mạnh tức là cả nước mạnh khỏe”. Và
vì thế “luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”.
Lời lẽ rất ngắn gọn, dễ hiểu nhưng khái quát cả quan điểm, chủ trương, đường lối,
phương châm và đặt nền tảng cho lý luận và thực tiễn công tác thể dục thể thao của nước
nhà thích hợp với mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng. Khi tiếp xúc với nhân dân hoặc qua thư gửi
đồng bào các giới, lúc nào Bác Hồ cũng nhắc nhở đến việc phải tập thể dục, phải rèn
luyện sức khoẻ, vì đó vừa là bổn phận, vừa là trách nhiệm của mỗi người dân yêu nước.
Cùng với Bác, các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta cũng hết sức quan tâm đến thể


dục.
Sự quan tâm đến thể dục thực chất là sự quan tâm đến con người, vì con người là vốn
quý nhất của xã hội, là tài sản vô giá của quốc gia, thể dục là biện pháp mầu nhiệm


đem lại sức khoẻ cho mọi người nên Đảng và Nhà nước đã có nhiều
chỉ thị, nghị quyết quan trọng để lãnh đạo và chỉ đạo.
“Trong tình hình mới, miền Bắc trực tiếp có chiến tranh, công tác
thể dục thể thao càng cần được duy trì và đẩy mạnh hơn nữa nhằm
phục vụ sản xuất, chiến đấu và đời sống”.
Khi đất nước hoàn toàn giải phóng, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai
đoạn mới, Ban Bí Thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 227/CT-TW ngày 18/11/1975. [2]
Trong phần đầu, chỉ thị nhận định: “Trong những năm qua, nhất là từ khi có
Chỉ thị số 180/CT-TW ngày 28/08/1970 của Ban Bí Thư Trung ương Đảng, công tác thể
dục thể thao đã phát triển đúng hướng, góp phần tích cực phục vụ sản xuất, chiến
đấu, đời sống và xây dựng con người mới:. Trong tình hình mới. Chỉ thị yêu cầu
ngành thể dục thể thao: “Phấn đấu vươn lên đưa phong trào quần chúng rèn luyện
thân thể vào nề nếp, phát triển công tác thể dục thể thao có chất lượng, có tác
dụng thiết thực nhằm mục tiêu: khôi phục và tăng cường sức khỏe của nhân dân,
góp phần xây dựng con người mới phát triển toàn diện...”
Để thực hiện mục tiêu, cần nắm vững 4 phương châm đã nêu trong chỉ thị.
-

Kết hợp thể dục với thể thao, lấy thể dục làm cơ sở; Kết hợp thể dục thể thao với

vệ sinh phòng bệnh; Kết hợp những thành tựu hiện đại của Thế giới với kinh nghiệm
truyền thống của dân tộc; Tập trung sức phục vụ cho phong trào ở cơ sở.

-


Tập luyện thể dục thể thao phải phù hợp với từng lứa tuổi, nam,

nữ, ngành nghề, sức khỏe của từng người và phù hợp với điều kiện
kinh tế, hoàn cảnh địa lý tự nhiên và truyền thống của từng vùng.
Thực hiện kiểm tra y học và bảo đảm an toàn trong tập luyện và thi
đấu.

- Kết hợp việc phát triển phong trào quần chúng với việc xây dựng
lực lượng nòng cốt, bao gồm cán bộ, huấn luyện viên, trọng tài,
giáo viên, hướng dẫn viên và vận động viên thể dục thể thao.


- Triệt để sử dụng những điều kiện thiên nhiên, cơ sở vật chất
sẵn có dựa vào lực lượng của nhân dân là chính để xây dựng cơ
sở vật chất, đồng thời có sự giúp đỡ thích đáng của Nhà nước.
Trải qua gần 20 năm thực hiện Chỉ thị 227/CT-TW. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nêu
lên nhận định quan trọng tại Chỉ thị 36/CT-TW ngày 24/03/1994 như sau: “Những năm gần
đây, công tác thể dục thể thao đã có tiến bộ: Phong trào thể dục thể thao từng bước
được mở rộng với nhiều hình thức nhiều môn thể thao dân tộc được khôi phục và phát
triển, một số môn thể thao ở một số địa phương và ngành đã được chú ý đầu tư nâng
cấp, xây dựng mới … Tuy nhiên, thể dục thể thao của nước ta còn ở trình độ rất thấp. Số
người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao còn rất ít. Đặc biệt là thanh niên chưa tích
cực tham gia tập luyện. Hiệu quả giáo dục thể chất trong trường học và trong các lực lượng
vũ trang còn thấp …”. Để khắc phục yếu kém trên. Chỉ thị 36/ CT-TW nhấn mạnh: “Trước
tình hình mới, sự nghiệp thể dục thể thao cần được phát triển đúng hướng theo những quan
điểm sau đây:
-

Phát triển thể dục thể thao là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển


kinh tế – Xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con
người, công tác thể dục thể thao phải góp phần tích cực nâng cao sức khoẻ, thể lực,
giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh: làm phong phú đời sống văn hóa,
tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến đấu của
lực lượng vũ trang. Xây dựng nền thể dục thể thao có tính dân tộc, khoa học và nhân
dân. Giữ gìn phát huy bản sắc và truyền thống dân tộc, đồng thời nhanh chóng tiếp
thu có chọn lọc những thành tựu hiện đại. Phát triển rộng rãi phong trào thể dục thể
thao quần chúng với khẩu hiệu: “Khoẻ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Từng bước
xây dựng lực lượng thể thao chuyên nghiệp đỉnh cao”. Trước mắt, từ nay đến năm 2000,
chỉ thị có ghi rõ phải phấn đấu đạt được các mục tiêu sau đây:
-

Thực hiện giáo dục thể chất trong tất cả các trường học, làm cho việc học tập thể

dục thể thao trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết sinh viên, sinh vieân, thanh
nieân,


chiến só các lực lượng vũ trang, cán bộ, công nhân viên chức và
một bộ phận nhân dân.
-

Hình thành hệ thống đào tạo tài năng thể thao quốc gia. Đào tạo được một lực lượng

vận động trẻ có khả năng nhanh chóng tiếp cận các thành tựu thể thao tiên tiến của thế
giới. Tham gia và đạt kết quả ngày càng cao trong các hoạt động thể dục thể thao khu vực,
Châu Á và Thế giới, trước hết ở các môn thể thao mà ta có nhiều khả năng.
-

Kiện toàn hệ thống đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, huấn luyện, giáo viên


thể dục thể thao. Kiện toàn tổ chức ngành thể dục thể thao các cấp. Nâng cấp, xây dựng
mới và hiện đại hóa một số cơ sở vật chất, kỹ thuật thể dục thể thao, hình thành các cơ
sở nghiên cứu, ứng dụng khoa học, y học, thể thao; tạo điều kiện cho sự phát

triển mạnh mẽ nền thể thao Việt Nam vào đầu thế kỷ 21”. [3]
1.2.3.2. Cơ sở pháp lý để thực hiện quan điểm của Đảng và
Nhà nước về công tác giáo dục TDTT trong nhà trường các cấp.
Các văn bản, Quyết định, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và nhà nước ban hành đã tạo
ra hành lang pháp lý cho tất cả mọi người, tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế có điều
kiện để tham gia, phát triển cũng như sự đóng góp về tài lực và nguồn lực cho sự phát triển
và quản lý phong trào TDTT trong trường học.
Tháng 1/1946 thành lập Nha thể dục. Trung ương thuộc Bộ Thanh niên (sắc
lệnh số 14, ngày 30/1/1946 của Chủ Tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa), có nhiệm vụ phối hợp với Bộ Y t và Bộ Giáo dục chỉ đạo công
tác giáo dục thể chất và phát triển thể thao trong mọi tầng lớp nhân dân. Sau đó,
tháng 3/1946 thành lập Nha Thanh niên và Thể dục trong Bộ Quốc gia Giáo dục.

Để tăng cường tổ chức và lãnh đạo các cơ quan Thể dục Thể thao từ
Trung ương đến địa phương (kể cả các ngành) Chỉ thị 181/CT-TW ngày
13/1/1960, quyết định đổi Ban Thể dục Thể thao Trung ương thành Ủy ban Thể
dục Thể thao Trung ương thuộc Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
Ngày 28/9/1962, lần đầu tiên để chỉ đạo phong trào Thể dục Thể thao toàn quốc.
Hội đồng Chính phủ ra chỉ thị số 110/TTg ban hành “Điều lệ tạm thời về tiêu chuẩn rèn


luyện thân thể” cho các lứa tuổi nam từ 18 – 45 tuổi, nữ từ 13-28 tuổi.
Trong các trường Đại học bắt đầu việc xây dựng các tiêu chuẩn kiểm
tra, đánh giá thể lực sinh viên dựa trên tiêu chuẩn rèn luyện thân thể .
Năm 1965, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Bộ Đại học và

THCN và để giúp Bộ chỉ đạo công tác Thể dục Thể thao và quân sự
trong các trường Đại học, THCN nên đã có Vụ Thể dục quân sự.

Ngày 24/6/1971 Bộ ra Chỉ thị số 14/TDQS về việc thực hành tiêu
chuẩn rèn luyện thân thể theo lứa tuổi, quy định sinh viên tốt nghiệp
Đại học phải đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cấp II.
Để nâng cao dần hiệu quả công tác giáo dục thể chất trong các
trường. Bộ Đại học và THCN và các trường đã tổ chức nghiên cứu và cho
ban hành chương trình thể dục thể thao trong các trường Đại học, THCN theo tinh
thần Chỉ thị 62/TDQS và 63/TDQS ngày 14 và 15/9/1966. Đây là chương trình
chính thức đầu tiên trong các trường Đại học và THCN, quy định giờ nội khóa
bắt buộc trong kế hoạch giảng dạy và học tập trong nhà trường.

Năm 1971 thành lập Vụ Thể dục đời sống thuộc Bộ Đại học và
THCN, có nhiệm vụ giúp Bộ chỉ đạo công tác thể dục thể thao, Y tế
và đời sống của sinh viên, sinh viên các trường.
Năm 1975, lần đầu tiên tổ chức biên soạn và xuất bản ba tập tài liệu giáo khoa
về lý thuyết và thực hành thể dục thể thao sử dụng trong các trường Đại học và THCN.

Ngày 9/2/1982 sau khi giải thể Vụ Thể dục và đời sống. Bộ Đại học và
THCN đã quyết định thành lập Phòng Thể dục thể thao trực thuộc Bộ, có chức
năng giúp Bộ chỉ đạo về nội dung, phương pháp giáo dục thể chất và phát
triển thể thao trong sinh viên và học sinh các trường Đại học và THCN.
Để đảm bảo cho hoạt động thể dục thể thao đi đúng hướng và có hiệu quả thiết
thực, Chỉ thị số 227/CT-TW ngày 18/11/1975 cũng đề cập đến những biện pháp chính yêu
cầu các cấp ủy Đảng “Các cấp Chính quyền và cán bộ quản lý thể dục thể thao ở


các cấp, các ngành cần nắm vững và làm cho mọi người hiểu mục
đích của thể dục thể thao Cách Mạng...”.

Quyết định số 230/BT ngày 6/11/1982 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)
thành lập Hội thể thao Đại học Việt Nam. Một tổ chức thể thao quần chúng tình nguyện
đầu tiên ở nước ta và ngay từ khi nó ra đời nó đã được sự ủng hộ tích cực của đông
đảo cán bộ, sinh viên các trường, của các cơ quan quản lý Nhà nước và của các tổ
chức quần chúng khác, đồng thời được nhiều tổ chức thể thao sinh viên các nước quan
tâm giúp đỡ. Hội đã trở thành thành viên chính thức của Liên đoàn Thể thao Đại học
Quốc tế (FISU) từ năm 1981 (khi còn trong thời kỳ hoạt động trù bị để thành lập Hội).

Năm 1986 theo Quyết định của Hội đồng Nhà nước thành lập Bộ Đại học
Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (ĐH-THCN và DN), trên cơ sở sáp nhập
Tổng Cục dạy nghề vào Bộ Đại học và THCN cũ. Cũng trong năm này Bộ đã
ban hành chương trình giáo dục thể chất đầu tiên trong các trường dạy nghề và
sư phạm kỹ thuật (quy định 09/DN-ĐT ngày 16/1/1986) . Chương trình bao gồm 60 tiết
nội khóa và một số giờ hoạt động ngoại khóa, tùy theo thời hạn khóa học.

Năm 1989 Ban hành chương trình mới trong các trường Đại học thay
cho chương trình cũ đã ban hành năm 1986 [16].
Từ khi thành lập, Hội thể thao Đại học Việt Nam đã phối hợp cùng Bộ Đại
học, THCN và DN tổ chức nhiều hoạt động TDTT quy mô ở khu vực và toàn ngành.

Điều lệ trường Đại học công lập năm 2003 [6].
Luật giáo dục do Quốc hội thông qua ngày 2/12/1998 [10].
1.2.4. Vai trò của nhà trường và các tổ chức đoàn thể xã
hội trong trường Đại học công lập
Nhà trường là một hệ thống xã hội thu nhỏ, bao gồm có Đảng, chính quyền, Đồn,
Cơng đồn, phịng, ban, khoa .... Mục tiêu là quản lý đều do mục tiêu giáo dục chi phối. Mục
tiêu thể dục thể thao của nhà trường gồm có hai mặt: Mục tiêu giáo dục và mục tiêu quản
lý. Mục tiêu giáo dục là cụ thể hóa phương châm giáo dục, đào tạo, bao gồm tri thức thể
dục thể thao, phát triển thể chất, bồi dưỡng kỹ năng vận động, giáo dục phẩm chất cho sinh
viên. Mục tiêu quản lý được con người nhận thức trước và tạo nên .



1.2.4.1. Với vai trò của giáo dục thể dục thể thao thì sự phát triển của phong trào
TDTT nhằm góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đồng thời cần chủ động
tận dụng tổng hợp những nhân tố ưu việt về chế độ chính trị, về kinh tế - Xã hội hiện tại
mang lại hiệu quả phát triển cho phong trào TDTT.
Phong trào TDTT phát triển có quan hệ với các mặt hoạt động văn hóa khác, giáo dục
khác vì TDTT thuộc phạm trù văn hóa. Giáo dục TDTT là một mặt khơng thể thiếu được
trong việc đào tạo con người phát triển toàn diện (đức dục, trí dục, thể dục, mĩ dục và lao
động). Trong lĩnh vực về phương pháp đào tạo con người . C.Mác viết : “Giáo dục trong
tương lai sẽ thống nhất lao động sản xuất với giảng dạy và thể dục, sự thống nhất đó sẽ
khơng chỉ là phương pháp nâng cao sản xuất xã hội, mà còn là phương pháp độc nhất để đào
tạo những con người phát triển toàn diện”.
Phạm Văn Đồng nguyên là Thủ tướng nước Cộng Hịa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam đã
nói: “Các đồng chí ở ngành giáo dục thường nói phải giáo dục con em chúng ta về đức dục,
trí dục, mĩ dục, thể dục… Muốn đào tạo con người mới, con người tồn diện, ngồi các mục
tiêu phấn đấu trên, khơng còn mục tiêu nào khác. Đức dục là tư tưởng, trí dục là sự hiểu biết
và văn hóa, khoa học, kỹ thuật. Mĩ dục là sự hiểu biết về những cái hay, cái đẹp. Cuối cùng
là thể dục, một mục tiêu khơng thể thiếu được theo quan điểm go dục của chúng ta là cơ sở
tiếp thu tốt đức dục, trí dục, mĩ dục..”
Sự phát triển phong trào TDTT khơng chỉ giúp sinh viên tăng cường sức khỏe để học
tập lâu dài mà cùng với phong trào văn hóa, văn nghệ, tạo ra cơ hội vui chơi, giải trí, thư giản
lành mạnh sau những giờ học căng thẳng. Việc tham gia rèn luyện TDTT để không bị cuốn
hút bởi các tệ nạn xã hội (hút chích, cờ bạc) nhằm góp phần gia tăng kết quả học tập của sinh
viên. Như chúng ta đã biết, một tinh thần minh mẫn luôn ở trong một thân thể khỏe mạnh .
1.2.4.2. Vai trò của nhà trường công lập là đào tạo nhân lực có phẩm chất chính trị,
đạo đức tốt có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo,
có sức khỏe, có năng lực thích ứng với việc làm trong xã hội, tự tạo việc làm cho mình và
cho những người khác, có khả năng hợp tác bình đẳng trong quan hệ quốc tế, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phát hiện và bồi dững nhân tài trong những người học và trong đội ngũ cán bộ giảng
viên của trường.


Tổ chức cho giảng viên, cán bộ, nhân viên và người học tham gia các hoạt động xã hội
phù hợp với ngành nghề đạo tạo và nhu cầu của xã hội.
Trên đây là một số nhiệm vụ của trừơng đại học cơng lập cần thực hiện trong q trình
hoạt động giáo dục của nhà trường đồng thời cịn có trách nhiệm huy động, quản lý, sử dụng
các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục, hợp tác, liên kết với các tổ chức kinh tế,
giáo dục, văn hóa, thể dục thể thao, y tế, nghiên cứu khoa học trong nước và nước ngoài
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, gắn đào tạo với việc làm, phục vụ sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội.
Ngồi ra nhà trường cịn có mối quan hệ và phối hợp với các cơ sở văn hóa, nghệ
thuật, TDTT, cơ quan thơng tin đại chúng để tạo môi trường giáo dục lành mạnh, phát hiện
và bồi dưỡng những người học có năng khiếu về hoạt động TDTT tạo điều kiện về cơ sở vật
chất, tài chính phục vụ hoạt động TDTT cho người học.
1.2.4.3. Hoạt động thể thao được coi như một điều kiện chuyên biệt để xúc tiến sự
phát triển của nhân cách XHCN và các chức năng của việc huấn luyện và thi đấu cũng như
các hình thức hoạt động thể thao khác phục vụ cho phát triển con người. Do đó cần phải phát
triển TDTT để nó trở thành một điều kiện của q trình phát triển con người tồn diện và các
hoạt động thể thao phải là một yếu tố để cũng cố lối sống ngay từ xuất phát điểm của phong
trào.
Phong trào TDTT là phong trào có tính chất xã hội được tạo bởi hệ thống các cơ quan,
trường học, các tổ chức tình nguyện của quần chúng, là sự hoạt động xã hội tổng hợp về vật
chất lẩn tinh thần nhằm tận dụng các chức năng đa dạng của TDTT theo hứơng phát triển
toàn dân.
1.2.4.4. Đối với người tập luyện thể dục thể thao là những người tình nguyện tham
gia luyện tập một cách tự giác hứng thú và có tình cảm đối với bộ mơn mình ham thích ở các
đội, nhóm, có người huấn luyện hoặc hứơng dẫn theo kế hoạch, có ngày giờ tập luyện được
ấn định một cách cụ thể, có nội dung, phương pháp và mục đích nhằm để tăng cường sức

khỏe. Người tập chỉ có thể hoạt động tự giác một khi họ có nhu cầu, nhờ vào trình độ nhận
thức về các lĩnh vực khoa học có liên quan đến giáo dục thể chất và huấn luyện thể dục
thể thao.
1.2.4.5. Hoạt động thể dục thể thao trong trường học là một bộ phận quan trọng của
tồn bộ cơng tác giáo dục, là cơ sở thể thao để phát triển tài năng đóng góp nhân tài cho quốc


gia, các nước có nền kinh tế, văn hóa phát triển đều coi thể dục thể thao là sự “đầu tư cho
con người” nhằm cải thiện tố chất sức lao động.
Vì vậy việc giáo dục thể chất trong các trường đại học là góp phần thực hiện mục tiêu
đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội, có thể chất cường tráng đáp ứng
yêu cầu chun mơn và nghề nghiệp trong đời sống thực tiễn.
Nói chung phong trào TDTT quần chúng là cơ sở để phát triển tài năng, phong trào
càng rộng lớn thì càng có nhiều người tham gia, quan tâm, ửng hộ, tạo thêm nguồn tuyển
chọn và bồi dưỡng tài năng thể thao, đại diện cho nhà trường tham gia thi đấu hoặc cung cấp
vận động viên có trình độ cao về kỹ năng và kỹ xảo để đại diện cho đất nước tham gia giao
lưu và thi đấu quốc tế. Mặt khác hoạt động thể thao đỉnh cao với sức thu hút mạnh mẽ dư
luận xã hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa lành mạnh, là nguồn kích thích có hiệu quả
đối với TDTT quần chúng đồng thời không thể xem nhẹ vai trò quản lý của cán bộ phong
trào vì nó đã đóng góp một phần rất lớn trong cơng tác tổ chức, điều khiển q trình giáo dục
và tập luyện TDTT.


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHONG TRÀO
THỂ DỤC THỂ THAO MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC
CÔNG LẬP Ở TP.HCM HIỆN NAY
Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố lớn của cả nước, một thành phố trung
tâm về kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật. Qua quá trình phấn đấu quyết liệt trong 10
năm đổi mới, kể từ sau Đại hội VI của Đảng, điều kiện sống và chất lượng cuộc sống

của nhân dân thành phố (vật chất, tinh thần…) đã cải thiện và được nâng cao. Trong đó
nhu cầu tập luyện TDTT của sinh viên thành phố cũng ngày càng mở rộng do mức sống
vật chất tăng lên. Nên lónh vực giáo dục TDTT trong nhà trường là mối quan tâm nhiều
nhất và lâu dài nhất của các nhà khoa học. Chính vì vậy để có sự nhìn nhận về sự phát
triển của hoạt động phong trào TDTT trong nhà trường Đại học công lập, chúng ta cần xem
xét thực trạng và giải pháp quản lý về công tác phong trào TDTT ở một số trường Đại
học công lập hiện nay tại thành phố Hồ Chí Minh.

2.1. Thực trạng phong trào TDTT của 3 trường ĐHCL ở thành
phố Hồ Chí Minh được giới hạn trong các vấn đề sau đây
2.1.1. Thực trạng việc thực hiện mục tiêu của giáo dục
Ba trường Đại học Công Lập ở Thành Phố Hồ Chí Minh hiện nay được nghiên
cứu về thực trạng phong trào thể dục thể thao đều có thuận lợi là được đóng ở
ngay vị trí trung tâm Thành Phố Hồ Chí Minh là một trung tâm Kinh tế – xã hội lớn
nhất nước nên có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp cận với các thành tựu khoa học
thể dục thể thao tiên tiến, đồng thời đều được sự quản lý trực tiếp của Bộ giáo
dục và đào tạo và có cùng một chương trình giáo dục TDTT. Đó là các trường:

-

Đại học Kinh Tế

-

Đại học Luật

-

Đại học Khoa học Tự nhiên



Phát huy những kết quả đạt được trong việc thực hiện Chỉ thị số 36/CT –
TW của Ban Bí Thư Trung ương Đảng; Chỉ thị 133/TTg và Chỉ thị 274/TTg của Thủ
tướng Chính phủ về công tác thể dục thể thao trong giai đoạn mới; đặc biệt trong
công tác giáo dục thể dục thể thao và các hoạt động thể thao trong nhà trường
các cấp; Chỉ thị số 17/ CT-TW 23/10/2003, Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục
và Đào Tạo số 12/2005/CT-BGD&ĐT ngày 07/04/2005 về việc hưởng ứng năm
quốc tế giáo dục thể chất và thể thao của Liên Hiệp Quốc; tiếp tục hưởng
ứng cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vó đại”.
Mục tiêu của giáo dục Đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính
trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực
hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc (Điều 39- khoản 1 – Luật giáo dục 2005).
Để thực hiện được mục tiêu của giáo dục Đại học về mặt nâng cao sức
khỏe cho sinh viên thì việc giáo dục thể dục thể thao trong nhà trường là không
thể thiếu được, góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học
kỹ thuật, quản lý kinh tế và văn hoá xã hội, phát triển hài hoà, có thể
chất cường tráng, đáp ứng yêu cầu chuyên môn, nghề nghiệp và có khả
năng tiếp cận với thực tiễn lao động, sản xuất… của nền kinh tế thị trường.
Giáo dục thể dục thể thao trong trường Đại học là một bộ phận hữu cơ của
mục tiêu giáo dục, đồng thời là một trong năm mặt giáo dục toàn diện cho thế
hệ trẻ nhằm tạo ra lớp người tri thức mới, có năng lực, phẩm chất, có sức khỏe
đó là lớp người trẻ “phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú
về tinh thần, trong sáng về đạo đức” (Nghị quyết TW II – Khoá VIII).

Đến nay mục tiêu của giáo dục nói chung và công tác giáo dục thể
dục thể thao cũng được khẳng định ở vị trí quan trọng thông qua các hướng
dẫn thực hiện công tác học sinh, sinh viên, giáo dục thể chất và y tế
trường học năm học 2005-2006 của Bộ giáo dục và đào tạo như:



×