Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiền quận 4, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.34 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN ĐIỀU

TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 4, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN ĐIỀU

TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 4, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH XUÂN NAM

Hà Nội, năm 2020


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ..................................................8
1.1. Khái niệm về tội tàng trữ trái phép chất ma t..................................... 8
1.2. Q trình hình thành và hồn thiện các quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam đối với tội tàng trữ ma túy nói chung và tội tàng trữ trái phép chất
ma túy nói riêng...........................................................................................14
1.3. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tàng trữ trái phép chất ma túy
dùng để phân biệt với một số tội phạm khác về ma túy có các yếu tố tương
đồng..............................................................................................................33
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY...............41
2.1. Diễn biến tình hình tội phạm nói chung, tội phạm về ma túy và tội tàng
trữ trái phép chất ma túy xảy ra trên địa bàn quận 4 Thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 2015 đến năm 2019................................................................41
2.2. Đánh giá thực trạng việc áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về
tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn Quận 4 Thành phố Hồ Chí
Minh.............................................................................................................47
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TÀNG TRỪ TRÁI PHÉP CHẤT MA
TUÝ................................................................................................................63
3.1. Các giải pháp.........................................................................................63
3.2. Một số kiến nghị và đề xuất..................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:


Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

TA:

Tồ án

TAND:

Tồ án nhân dân

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 2.1. Bảng thống kê kết quả khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự xảy ra trên địa bàn Quận 4........................................................42
Bảng 2.2. Bảng thống kê kết quả khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm tội
phạm về ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn Quận 4
Thành phố Hồ Chí Minh................................................................................. 44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới cơ cấu kinh tế, đất nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên, đồng thời vị trí, vai trị
của Việt Nam ngày càng được đề cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên dưới tác động
tiêu cực của nền kinh tế và mở rộng quan hệ quốc tế với các nước trên thế giới và
trong khu vực, đã tác động ảnh hưởng đến tình hình tội phạm nói chung, đặc biệt là
tình hình tội phạm về ma túy, trong đó có tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Tội phạm về ma túy là loại tội phạm mới xuất hiện trong thời kỳ phát triển
kinh tế thị trường hội nhập quốc tế nhưng hậu quả và hệ lụy để lại cho gia đình
người phạm tội cũng như xã hội ngày càng lớn chính vì vậy, quan điểm đấu tranh
phịng chống loại tội phạm này đã được thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng và
Nhà nước và Thể chế hòa các quan điểm của Đảng và lần đầu tiên được quy định tại
điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi bổ sung năm 2009) với tính chất là một
loại hành vi của tội ghép (tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy và được tách ra với tính chất là một tội phạm độc lập được quy
định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) loại tội phạm
này ngày càng phát triển gia tăng cả về số lượng tội phạm và cả về số lượng người
phạm tội.
Cũng như thực trạng tình hình tội phạm về ma túy nói chung và về tội tàng
trữ trái phép chất ma túy nói riêng trên địa bàn cả nước, trong những năm vừa qua,
trên địa bàn quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh, tình hình tội tàng trữ trái phép chất ma

túy vẫn diễn ra hết sức phức tạp và phát triển theo xu thế ngày càng gia tăng gây ra
bức sức lo lắng trong quần chúng nhân dân. Trước tình hình đó các cơ quan trực tiếp
đấu tranh bảo vệ pháp luật như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án
nhân dân đã phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và quần chúng
nhân dân tích cực phát động và áp dụng các biện pháp phòng ngừa ngăn chặn cũng
như phát hiện, điều tra, truy tố và đưa ra xét xử kịp thời nghiêm minh các hành
1


vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy được dư luận đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên
trên thực tế tội tàng trữ trái phép các chất mà túy khi phát hiện, CQĐT, VKSND,
TAND gặp rất nhiều khó khăn do các đối tượng phạm tội và sử dụng nhiều phương
thức thủ đoạn xạo quyệt và chống đối hết sức quyết liệt. Việc chứng minh hành vi
phạm tội đặc biệt là giữa hành vi tàng trữ trái phép với hành vi mua ma túy để trực
tiếp sử dụng; giữa hành vi vận chuyển trái phép các chất ma túy với hành vi tàng trữ
trái phép chất ma tuý cũng hết sức phức tạp do các đối tượng phạm tội tìm mọi cách
chối tội; Việc xác định các chất ma túy, trọng lượng, hàm lượng các chất ma túy
phải trải qua giai đoạn giám định trong một số trường hợp cũng phải kéo dài thời
gian và gặp những khó khăn nhất định. Chính vì vậy việc lựa chọn vấn đề "Tội tàng
trữ trái phép chất ma túy từ thực tiền Quận 4, thành phố Hồ Chí Minh" Làm đề tài
luận văn thạc sĩ là đáp ứng yêu cầu cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ma túy, tội phạm về ma túy trong đó có tội tàng trữ trái phép chất ma túy
cũng như hệ lụy của nó cho đối tượng phạm tội, gia đình của họ và đối với xã hội
luôn luôn được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân, đặc biệt là
những nhà nghiên cứu lý luận và những người làm cơng tác thực tiễn áp dụng pháp
luật có liên quan đối với tội phạm về ma túy. Chính vì vậy đã có nhiều cơng trình,
đề tài khoa học, bài viết và các luận án tiến sĩ, thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề này. Có
thể viện dẫn một số cơng trình, đề tài, bài viết, luận án, ln văn sau đây:
- Trần Văn Kiệm, hình phạt đối với tôi tàng trữ trái phép chất ma túy. Báo

bảo vệ pháp luật ngày 20/11/2019.
- Nguyễn Thị Ngà, Nguyễn Văn A Phạm tội tàng từ trái phép chất ma túy
theo điểm a, c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, Tạp chí Tịa án điện tử ngày
25/3/2020.
- Tìm hiểu nội dung về tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại Điều 249
BLHS, .
- Nguyễn Duy Hội, tội tàng trữ trái phép chất ma tuý. hinhsu.luật việt.com
ngày 13/7/2018.
2


- Nguyễn Đức Hùng, Điều 249 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm
2017) quy định tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, htts://côngtyluattgs.vn ngày
06/5/2019.
- Lê Hồng Minh đánh giá lời khai nhận của người có ma túy để xác định tội
danh và lần phạm tội. Cổng thông tin điện tử VKSNDTC, vksndtc.gov.vn ngày
10/5/2020.
- Kiều Phong - Tuấn Vũ, Thành phố Hồ Chí Minh bàn giải pháp chặt vịi
bạch tuộc ma túy, báo Sài Gịn giải phóng 4/10/2019.
- Phan Anh, Thành phố Hồ Chí Minh dốc tồn lực trị tội phạm ma túy, bảo
người lao động ngày 05/11/2019.
- Triệu Thị Ngân Hà (2017) “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo pháp
luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang” Luận văn Thạc sĩ Học viện khoa
học xã hội.
- Phạm Phương Trang (2019), “ Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực
tiễn tỉnh Bắc Ninh” Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
- Ngô Quỳnh Thanh (2018), Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội, Học viện khoa học xã hội.
- Nguyễn Thị Mai Nga (2010), hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm

sát điều tra của VKSND trong điều tra các vụ án về ma túy, luận án tiến sĩ, học viện
cảnh sát nhân dân.
Do BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2018 tách Điều 194 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) từ bốn
hành vi độc lập là tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma tuý thành bốn tội độc lập là tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (Điều 249), tội vận
chuyển trái phép chất ma tuý (Điều 250); tội mua bán trái phép các chất ma tuý
(Điều 251); tội chiếm đoạt các chất ma tuý do đó các cơng trình nghiên cứu về tội
tàng trữ trái phép chất ma tuý không nhiều. Tuy nhiên qua nghiên cứu các cơng
trình trên đây cho thấy, các tác giả đã nghiên cứu trên nhiều phương diện và dưới
3


nhiều góc độ khác nhau về loại tội phạm này. Tuy nhiên chưa có một cơng trình cụ
thể nào nghiên cứu về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý từ thực tiễn quận 4, Thành
phố Hồ Chí Minh vì vậy đề tài luận văn là đề tài hoàn toàn mới và khơng trùng với
bất kỳ một cơng trình khoa học nào đã công bố. Mặc dù vậy kết quả nghiên cứu của
các cơng trình nêu trên có thể được kế thừa một số vấn đề trong quá trình thực hiện
đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Đề tài luận văn nghiên cứu những lý luận, các quy định của pháp luật và thực
tiễn áp dụng pháp luật trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án tàng
trữ trái phép chất ma tuý trên địa bàn Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời
gian 5 năm kể từ năm 2015 đến năm 2019 luận văn đã đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao áp dụng các quy định của tội phạm này trong khởi tố, điều tra, truy
tố, và xét xử sơ thẩm trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
- Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đặt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài luận văn thực hiện những
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau đây:

+ Nghiên cứu và phân tích những vấn đề lý luận về ma tuý, tàng trữ trái phép
chất ma tuý, các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.
+ Nghiên cứu và phân tích các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tội tàng trữ trái phép các chất ma tuý.
+ Phân biệt tội tàng trữ trái phép chất ma tuý với một số tội phạm khác về ma
tuý.
+ Khảo sát thu thập số liệu, thông tin về tội tằng trữ trái phép chất ma tuý
trên địa bàn Quận 4, thành phố Hồ Chí Minh.
+ Đánh giá thực trạng tình hình định tội danh và quyết định hình phạt trong
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm loại tội phạm này tìm ra những kết quả đặt
được, những tồn tại, khó khan vướng mắc.

4


+ Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa việc áp dụng
các quy định của pháp luật về tội phạm này trong khởi tố, điều tra, truy tố, và xét xử
sơ thẩm trong giai đoạn hiện nay và những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là những vấn đề lý luận, pháp luật
về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý và trực tiếp áp dụng các quy định của tội phạm
này trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm từ thực tiễn Quận 4, Thành phố
Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
+ Phạm vi về nội dung: đề tài luận văn nghiên cứu những vấn đề pháp luật và
thực tiễn áp dụng các quy định của tội phạm này tại quận 4, Thành phố Hồ Chí
Minh.
+ Phạm vi về khơng gian: đề tài luận văn khảo sát thu thập, nghiên cứu số
liệu vụ án tàng trữ trái phép chất ma tuý do khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trên địa
bàn quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.

+ Phạm vi về thời gian: đề tài luận văn nghiên cứu số liệu trong khoảng thời
gian 5 năm kể từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp luận: đề tài luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận là phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về đấu tranh phịng chống tội phạm nói chung và tội phạm về ma tuý
nói riêng. Nhằm đảm bảo cho việc nghiên cứu đề tài luận văn đi đúng hướng và đạt
được mục đích đã đề ra.
- Phương pháp cụ thể: đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp
các phương pháp cụ thể như: phương pháp diễn giải, quy nạp; phương pháp phân
tích, đánh giá, tổng hợp, so sánh; phương pháp khảo sát, thu thập thông tin, số liệu;
phương pháp trao đổi, toạ đàm trực tiếp với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán có năng lực, kinh nghiệm trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án về
tội tàng trữ trái phép chất ma tuý đang công tác tại CQĐT, VKSND, TAND quận 4,
5


Thành phố Hồ Chí Minh. Việc sử dụng cac Phương pháp này nhằm bảo đảm cho
việc viết các nội dung của các chương theo đúng yêu cầu đã đề ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về mặt lý luận
Là cơng trình khoa học được nghiên cứu, phân tích toàn diện và sâu sắc
để làm sáng tỏ về mặt lý luận cũng như cơ sở pháp lý của tội Tàng trữ trái phép chất
ma túy theo Bộ luật hình sự Việt Nam.
Luận văn là cơng trình nghiên cứu khoa học đầu tiên, có tính hệ thống và
tương đối tồn diện về tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn Quận 4, thành
phố Hồ Chí Minh ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học. Kết quả nghiên cứu của
luận văn sẽ giúp xác định được khái niệm, các đặc điểm riêng có, cũng như nội hàm
của vụ án tội tàng trữ trái pháp chất ma túy, từ đó đưa ra những kiến nghị về mặt lập
pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật TTHS về vấn đề này.

- Về mặt thực tiễn
Tổng kết, rút ra được những kinh nghiệm về tội tàng trữ trái phép chất ma
túy ở giai đoạn điều tra từ năm 2015 đến năm 2019 do Cơ quan điều tra Công an
Quận 4 thụ lý điều tra, truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, xét xử của Tòa
án nhân dân Quận 4. Kết quả nghiên cứu của luận văn giúp các Cơ quan THTT nói
chung, Viện kiểm sát nói riêng xác định, áp dụng đúng đắn trình tự, thủ tục để truy
tố trong vụ án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bên cạnh đó, tác giả cũng hy
vọng luận văn có thể được sử dụng trong công tác nghiên cứu của các cơ sở đào tạo
chuyên ngành luật, các cơ quan bảo vệ pháp luật… Những người có thẩm quyền
THTT và những người tham gia tố tụng có thể nghiên cứu nhằm áp dụng pháp luật
vào q trình cơng tác thực tiễn, nâng cao chất lượng hiệu quả trong công tác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội tàng trữ trái phép chất
ma tuý.
6


Chương 2: Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về tội tàng trữ trái
phép chất ma tuý từ thực tiễn Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm bảo đảm áp dụng đúng các quy định
của pháp luật về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI TÀNG TRỮ
TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

1.1. Khái niệm về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
1.1.1. Khái niệm về chất ma tuý
Ngày nay thuật ngữ về ma tuý được sử dụng rộng rải trong nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm, thuật ngữ, ma
túy, chất ma túy, tội phạm về ma túy được quy định trong các công ước của Liên
hiệp quốc và trong các văn bản pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Trong lĩnh
vực đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội, ma túy thường được hiểu với các nghiệm
như: tình trạng nghiện ma túy, người nghiện ma túy, tiêm chích ma túy... Tuy nhiên
do phát triển của khoa học công nghệ dẫn đến đời sống vật chất tinh thần của con
người ngày càng được nâng lên, đặc biệt là từ những năm giữa thế kỷ XX đến nay
nhu cầu vui chơi, giải trí của các tầng lớp nhân dân đáng chú ý là giới trẻ ngày càng
cao do đó xuất hiện tình trạng lạm dụng việc sử dụng các loại cây cỏ có tính chất
gây nghiện trước đây. Xuất phát từ nhu cầu ngày càng lớn của xã hội, các đối tượng
phạm tội đã sử dụng những thành tựu của khoa học để điều chế, chế suất các lồi
cây cỏ, hoa, quả, nhựa có tính năng chữa bệnh và vui chơi giải trí thành các chất gây
nghiện, chất hướng thần có lượng độc tố cao, tạo thuận lợi cho việc sử dụng, tàng
trữ, vận chuyển, mua bán và thuật ngữ ma túy được hình thành và ra đời. Vậy ma
túy là gì?
- Theo từ điển Hán Việt thì “ma” Có nghĩa là tê liệt hoặc “làm mê mẫn” hoặc
làm cho “tê liệt”, “tuý” có nghĩa là say “ma túy” là một danh từ dùng để chỉ chất
thuốc có khả năng gây ra hiện tượng thần kinh tê liệt dùng nhiều sẽ bị nghiện.
Nghiên cứu khái niệm ma túy nêu trên mặc dù được giải nghĩa theo nghĩa Hán Việt
mang tính nơm na dễ hiểu và còn sai nghĩa và khái quát được tác hại của ma túy là
làm tê liệt hệ thần kinh và nếu dùng nhiều sẽ bị nghiện... [3, tr.14]. Tuy nhiên hạn
chế của khái niệm này là chỉ đề cập đến hậu quả của việc sử dụng ma túy, chưa làm
rõ được chất ma túy là gì.
8


- Theo Từ điển Tiếng việt thì ma túy là tên gọi chung các chất có tác dụng

gây trạng thái ngây ngất, đờ đẫn, dùng quen thành nghiện [21, tr.583]. Nghiên cứu
khái niệm này cho thấy, khi nói đến ma túy có đề cập đến cách gọi chung của các
chất có tác dụng gây ra trạng thái ngây ngất, đờ đẫn dùng quen sẽ thành nghiện
nhưng cũng chưa làm rõ được các chất đó là chất gì.
- Theo Cơng ước Thống nhất về các chất ma túy năm 1901 Đã sửa đổi bổ
sung theo nghị định thư 1972 Sửa đổi Công ước Thống nhất về các chất ma túy năm
1961 của Liên Hiệp quốc thì sau khi đưa ra định nghĩa về một số loại cây, lá nhựa
có chất ma túy thì tại điểm J khoản 1 Cơng ước có đưa ra khái niệm “ma tuý” nghĩa
là bất kỳ chất liệu nào trong bảng I và II dù dưới dạng tự nhiên hay tổng hợp. Cách
đưa ra khái niệm của công ước về ma túy là dựa trên cơ sở tổng hợp các chất ma túy
đã được quy định trong hai bảng của Công ước dù bất kỳ dưới dạng tự nhiên hay đã
qua điều chế. Khái niệm này còn tiếp tục được quy định tại điểm r khoản 1 Điều 1
Công ước của Liên hiệp quốc tế về chống buôn bán bất hợp pháp của chất ma tuý và
chất hướng thần năm 1988.
- Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định các tội
phạm về ma tuý tại Chương XX gồm 13 Điều (từ Điều 247 đến Điều 259 không đưa
ra khái niệm chất ma tuý mà các chất ma tuý được liệt kê một số chất có tên gọi cụ
thể và các loại cây khác có chứa chất ma tuý, các chất ma tuý khác ở thể rắn, thể
lỏng. Theo đó các chất ma tuý theo quy định của BLHS là:
+ Cây thuốc phiện, cái Coca, cây Cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất
ma túy do Chính phủ quy định; Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cây Coca; lá
khát, lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây Cần sa, quả thuốc phiện khô, tươi,
+ Heroine, cocaine, methamphetamine, amphetamine, MDMA, hoặc XLR-11
+ Các chất ma túy khác ở thể lỏng, thể rắn.

- Luật Phòng chống ma túy năm 2000 (sửa đổi bổ sung năm 2008) đã đưa ra
một số định nghĩa liên quan đến ma túy cụ thể như sau:
+ Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong
các danh mục do Chính phủ ban hành.


9


+ Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng
nghiện đối với người sử dụng.
+ Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu
sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
+ Tiền chất ma túy là hóa chất cần thiết trong quá trình điều chế, sản xuất
chất ma túy, được quy định trong danh mục của Chính phủ ban hành.
+ Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp
có chứa hợp chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất là các loại
thuốc chữa bệnh được quy định trong các danh mục do Bộ y tế ban hành có chứa
các chất quy định tại Khoản 2,3,4 Điều này. Đồng thời, Luật Phòng chống ma túy
cũng quy định về các loại cây có chứa chất ma túy và đưa ra khái niệm về người
nghiện ma túy như sau:
Cây có chứa chất ma túy bao gồm cây thuốc phiện (cây Anh túc), cây Coca,
cây Cần sa hoặc cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định. Đến thời
điểm hiện nay, danh mục các chất ma túy do Chính phủ ban hành được quy định cụ
thể trong các Nghị định gồm: Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của
Chính phủ quy định danh mục các chất ma túy và tiền chất; Nghị định
số133/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 06/11/2003 của Chính phủ quy định bổ
sung một số chất vào Danh mục các chất ma túy và tiền chất theo Nghị định
67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ và Nghị định số 163/2007/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 12/11/2007 quy định sửa tên, bổ sung, chuyển, loại bỏ một số
chất thuộc danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định số
67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ; Nghị định số 17/2011/NĐ-CP
ngày 22/02/2011 quy định về bổ sung, sửa tên chất, tên khoa học đối với một số
chất thuộc danh mục các chất ma túy và tiền chất ma túy ban hành kèm theo Nghị
định số 67/2001/NĐ-CPngày 01/10/2001 của Chính phủ và Nghị định số
163/2007/NĐ-CP ngày 12/11/2007của Chính phủ; Nghị định số 82/2013/NĐ-CP

ngày 19/7/2013 của Chính phủ ban hành các Danh mục chất ma túy và tiền chất;
Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chất ma túy
10


và tiền chất; gần đây nhất ngày 29/5/2020 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
60/2020/ NĐ-CP sửa đổi, bổ sung danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành
kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Theo đó,
các chất ma túy được chia thành ba danh mục gồm:
Danh mục I: các chất ma túy rất độc, tuyệt đối cấm sử dụng trong lĩnh vực y
tế, việc sử dụng các chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học và
điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền (có trong Bảng
IV Cơng ước của Liên hiệp quốc năm 1961 và Bảng I Công ước của Liên hiệp quốc
năm 1971 (gồm 45 chất.
Danh mục II: các chất ma túy độc hại, được dùng hạn chế trong phân tích,
kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo
yêu cầu điều trị (có trong Bảng I và Bảng II Công ước của Liên hiệp quốc năm
1971) gồm 121 chất.
Danh mục III: các chất ma túy độc dược dùng trong phân tích, kiểm nghiệm,
nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo yêu cầu điều trị
(có trong Bảng III và Bảng IV Công ước của Liên hiệp quốc năm 1971) gồm 69
chất.
Từ sự phân tích các quan điểm, các quy định của pháp luật về ma túy, chất
ma túy có thể rút ra khái niệm như sau:
Ma túy là các chất có nguồn gốc từ tự nhiên hoặc tổng hợp, khi được đưa vào
cơ thể con người dưới bất kỳ hình thức nào sẽ gây kích thích mạnh hoặc ức chế thần
kinh và làm thay đổi trạng thái ý thức cũng như sinh lý của người sử dụng. Nếu lạm
dụng, con người sẽ bị lệ thuộc vào ma túy và dẫn đến tình trạng nghiện đối với
người sử dụng ma túy.
Việc nghiên cứu về ma túy và chất ma túy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối

với CQĐT, VKS, TA trong đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đảm cho việc khởi
tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng người đúng tội, đúng quy định của pháp luật,
không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, không làm oan người vô tội.
1.1.2. Khái niệm về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

11


Tàng trữ theo nghĩa thông thường là cất giữ cẩn thận những thứ có giá trị.
Theo đó thì tàng trữ cũng đồng nghĩa với tích trữ nhưng thường đi liền với hành vi
cất giữa những thứ bị cấm và được hiểu theo nghĩa là tàng trữ trái phép.
Khái niệm này chỉ đề cập đến hành vi tàng trữ như là hành vi cất dấu những
đồ vật có giá trị như cất dấu vàng, bạc, tiền… tàng trữ còn đồng nghĩa với tích trữ
nhưng thường được đặt trong những điều kiện, hồn cảnh nhất định và có mục đích
thu được những mối lợi nhất định cho người tích trữ hoặc để phịng ngừa lúc gặp
khó khăn như tích trữ lương thực, thực phẩm…
Theo Từ điển Luật học thì “tàng trữ trái phép là hành vi cất giữ trái phép đối
tượng cụ thể trong người, nơi ở, nơi làm việc hoặc ở một nơi nào khác. Do tính chất
đặc biệt của một số đối tượng nên hành vi tàng trữ trái phép một trong những đối
tượng này bị pháp luật hình sự Việt Nam coi là tội phạm. Đó là: Tội tàng trữ trái
phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; Tội tàng trữ trái phép vật liệu
nổ; Tội tàng trữ trái phép chất ma túy [20, tr.693,694].
Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần tội phạm) do GS.TSKH Lê
Cảm chủ biên thì khái niệm về hành vi vận chuyển, tàng trữ trái phép các chất ma
túy cụ thể như sau: “hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi cất giữ trái
phép chất ma túy trong người, trong nhà hoặc ở nơi nào khác không kể thời gian
bao lâu”.
Quan điểm trên đây đã mô tả được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là
hành vi cất giấu trái phép ở những địa điểm nhất định nhưng hạn chế là chưa nêu
được mục đích của hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Theo bình luận khoa học BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) phần
các tội phạm của tác giả Đinh Văn Quế thì khái niệm về tội phạm theo quy định tại
Điều 194 như sau “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy là hành vi cất giữ, chuyển dịch hay mua để bán lại, cướp, bắt cóc nhằm
chiếm đoạt, cưỡng bức, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, tham ô, lừa
đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chất ma túy [11, tr.78].
Nghiên cứu khái niệm trên cho thấy, mặc dù khái niệm đã khái quát hóa được
các hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
12


chất ma túy nhưng đây là tội ghép bốn hành vi phạm tội do chưa làm rõ được khái
niệm về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Theo bình luận khoa học BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 do
GS.TS Trần Văn Luyện chủ biên thì tàng trữ trái phép chất ma túy được hiểu là
“tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi cất giữ, dấu trái phép chất ma túy ở bất kỳ
nơi nào như: trong nhà, ngồi vườn, chơn dưới đất, để trong valy, cho vào thùng
xăng xe, cất trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc mang theo người mà
không nhằm mục đích mua bán hay sử dụng trái phép chất ma túy khác.
Quan điểm trên đây đã đề cập tương đối toàn diện về hành vi tàng trữ trái
phép chất ma tuý như: Tàng trữ trái phép chất ma tuý là hành vi cất giữ, dấu bất hợp
pháp ở nhiều vị trí, địa điểm khác nhau đồng thời nêu được mục đích của tội tàng
trữ trái phép chất ma tuý.
Tuy nhiên, nghiên cứu tất cả các khái niệm về tàng trữ, tàng trữ trái phép,
tàng trữ trái phép chất ma tuý vẫn chưa đưa ra được khái niệm, mang tính tổng quát
với tính khái quát cao về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Theo quan điểm của
chúng tôi để đưa ra khái niệm mang tính khái quát cao về tội tàng trữ trái phép chất
ma túy phải trên cơ sở nghiên cứu, phân tích quy định của BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017 về khái niệm tội phạm được quy định tại (Điều 8); Tội tàng
trữ trái phép chất ma túy (Điều 249) đồng thời phải nghiên cứu, phân tích khái niệm

chất ma túy; khái niệm tàng trữ, tàng trữ trái phép chất ma túy. Từ đó có thể đưa ra
khái niệm về tội tàng trữ trái phép chất ma túy như sau:
Tội tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực
hiện bằng hành vi cất giữ, cất dấu trái phép chất ma túy ở bất cứ nơi nào như: trong
nhà, ngồi sân, vườn, chơn dưới đất để trong vali, thùng xe, cất giấu trong quần áo,
tư trang mặc trên người hoặc mang theo người… mà không nhằm mục đích mua
bán hay sản xuất trái phép các chất ma túy khác do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm đến chính sách và quy định của Nhà
nước về thống nhất quản lý các chất ma túy.

13


1.2. Q trình hình thành và hồn thiện các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam đối với tội tàng trữ ma túy nói chung và tội tàng trữ trái phép
chất ma túy nói riêng
1.2.1. Thời kỳ trước khi ban hànhBộ luật hình sự năm 1985
2

Nước ta có diện tích tự nhiên là 332,212 km trong đó đồi núi chiếm ¾ diện
tích lãnh thổ nhưng chủ yếu là đồi núi thấp, địa hình thấp dưới 1000 m chiếm 85 %
diện tích lãnh thổ tạo thành một cánh cung ln hướng ra biển đơng chạy dài
1400km. Khí hậu nhiệt đới gió mùa thích hợp với phát triển của các lồi thực vật.
Trước đây ở nước ta khơng có thuật ngữ “ma túy” mà chỉ tồn tại thuật ngữ “thuốc
phiện” nhựa cây thuốc phiện hay còn gọi là cây “Anh túc”. Cho đến nay chưa có thể
biết chính xác cây thuốc phiện từ đâu được đưa vào Việt Nam trồng từ năm nào mà
chỉ xác định vào khoảng đầu thế kỷ thứ XVII đã được trồng phổ biến ở các tỉnh
miền núi phía bắc và bắc trung bộ (Thanh Hóa, Nghệ An), đặc biệt được trồng nhiều
nhất ở các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Hịa Bình, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng.
Tương tự như vậy, cây Cần sa, cây Coca cũng là hai loại cây có chứa chất ma

túy được đưa vào trồng ở Việt Nam muộn hơn so với cây thuốc phiện. Cây Cần sa
và cây Coca được trồng ở các tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh miền Tây Nam bộ. Do
hai loại cây này có tính chất và đặc điểm giống cây thuốc phiện nên được liệt vào
cây thuốc phiện.
Ban đầu, cây Thuốc phiện, cây Coca, cây Cần sa được trồng và khai thác, sử
dụng như một loại thảo dược dùng trị các bệnh phong thấp, tiêu hóa hoặc dùng làm
thuốc giảm đau, sau đó được dùng để hút trong các lễ hội, đám ma, đám cưới và trở
thành có nhiều người nghiện. Người nghiện thuốc phiện khơng chỉ ảnh hưởng đến
sức khỏe, giảm sút sức lao động mà cịn có nhiều biểu hiện bất thường về thần kinh
và có những hành động đáng lo ngại, thậm chí là hành động nguy hiểm cho xã hội
dẫn đến nhiều hệ lụy xấu cho gia đình và xã hội. Để ngăn chặn tệ nạn nghiện hút và
trồng cây thuốc phiện một số làng, bản đã lập ra các Hương ước quy định về việc
cấm sử dụng thuốc phiện.
14


Nhận thức được sự nguy hiểm của việc trồng và sử dụng cây Thuốc phiện,
cây Cần sa, cây Coca đối với con người và xã hội. Năm bành trị thứ III, triều
Nguyễn đã ban hành đạo luật đầu tiên về việc cấm trồng cây thuốc phiện vì cho
rằng: “con trai, con gái dùng thuốc phiện để thỏa lòng dâm dục, trộm cướp; dùng nó
để dịm ngó nhà người ta trong kinh thành, ngồi thì thơn xóm vì nó mà có khi hỏa
hoạn, khánh kiệt tài sản; vì nó mà thân tàn người chẳng ra người”. Đạo luật này
cũng quy định rõ: từ nay về sau, quan lại và dân chúng không được trồng và mua
bán thuốc phiện, ai đã trồng thì phải phá đi, người nào chứa, giữ thì phải hủy đi .
Nhận thức được tác hại của việc trồng cây thuốc phiện và sử dụng nhựa cây
thuốc phiện không chỉ đối với người nghiện mà còn mang lại nhiều tác hại xấu cho
tồn bộ xã hội. Chính vì vậy, ngày 03/9/1945, chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, trong bài nói chuyện
về "Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói:

Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta vơi rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi
thủ đoạn nhằm hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng gian giảo,
tham ơ và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại
nhân dân chúng ta… Cuối cùng tôi đề nghị tuyệt đối cấm thuốc phiện .
Thực hiện chỉ thị này của Hồ Chủ Tịch, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Nghị định số: 150/TTg ngày 05/3/1952 quy định việc xử lý đối với những hành vi vi
phạm thể lệ quản lý thuốc phiện với những nội dung cụ thể sau đây:
Điều 5 - Ngoài các cơ quan chuyên trách, không ai được tàng trữ và chuyển
vận nhựa thuốc phiện hay thuốc phiện đã nấu rồi.
Điều 6 - (Do Nghị định số 225-TTg ngày 22/12/1952 của Chính phủ sửa đổi
và bổ sung Nghị định số 150/TTg ngày 5/3/1952 quy định những hành vi phạm
pháp sẽ bị phạt như sau:
- Tịch thu thuốc phiện tàng trữ hoặc chuyển vận trái phép;
- Phạt tiền từ 1 đến 5 lần giá trị số thuốc phiện lậu.
Ngoài ra, người phạm pháp cịn có thể bị truy tố trước Tịa án nhân dân.

15


Tuy nhiên, những người đã bán lậu thuốc phiện cho người khác mà sau lại tố
cáo với các cơ quan chun trách và giúp bắt được người bn lậu thì sẽ được coi là
lập công chuộc tội và không phải phạt.
Tiếp theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số: 225/TTg ngày
22/12/1952 quy định những người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện sẽ
bị xử lý bằng các hình thức cụ thể như: tịch thu thuốc phiện tàng trữ hoặc vận
chuyển trái phép; phạt tiền từ một đến năm lần trị giá số thuốc phiện lậu. Ngồi ra,
người vi phạm cịn có thể bị truy tố trước TAND.
Năm 1945, sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hịa bình được
lập lại và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng và Nhà
nước Việt Nam tiếp tục quan tâm đến việc xây dựng hệ thống pháp luật mới, trong

đó có cơng tác đấu tranh chống bn lậu thuốc phiện và các chất ma túy khác. Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 580/TTg ngày 15/9/1995 quy định
những Trường hợp cụ thể đưa ra Tòa án để xét xử như:
Điều 2 - Các Nghị định quy định những người vi phạm Nghị định số 150TTg ngày 05/3/1952 trong những trường hợp sau đây có thể đưa ra Tịa án nhân dân
xét xử:
- Bn thuốc phiện lậu có nhiều người tham dự và có thủ đoạn gian lậu;
- Tang vật trị giá trên 1 triệu đồng;
- Buôn nhỏ hoặc làm mơi giới nhưng có tính chất thường xun, chuyên môn
hoặc đã bị phạt tiền nhiều lần.
- Các vụ có liên quan đến nhân viên chính quyền hoặc bộ đội;
- Không thi hành quyết định phạt tiền của cơ quan Thuế vụ hoặc Hải quan.
Điều 3 của Nghị định quy định bị can sẽ bị phạt như sau:
Phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm.
- Phạt tiền như đã quy định ở Điều 6 nghị định số 150-TTg ngày 05/3/1952.
- Tịch thu tang vật
Các phương tiện như thuyền, xe… dùng để chuyển vận thuốc phiện lậu có
thể bị tịch thu, nếu người chủ những phương tiện đó có liên quan đến việc buôn lậu.
16


Điều 4 - Các nghị định quy định trường hợp kẻ buôn lậu dùng vũ lực chống
cự lại nhà chức trách khi bị bắt giữ thì sẽ chiếu hình luật chung mà xử phạt thêm về
tội ấy.
Để cụ thể hóa đường lối xét xử đối với những hành vi phạm tội về thuốc
phiện, Bộ Tư pháp cũng đã ban hành các Thông Tư số: 635/VVH-HS ngày
29/3/1958 và Thông Tư số: 33/VHH-HS ngày 05/7/1958 hướng dẫn đường lối truy
tố và xét xử những vụ án về buôn lậu thuốc phiện. Theo Thơng tư này, Bộ Tư pháp
cịn hướng dẫn việc xử lý đối với hành vi vi đặt tiền cọc mua thuốc phiện lậu.
Về đường lối và chủ trương truy tố, xét xử đối với những vụ buôn thuốc
phiện lậu, Thông tư số 33/VHH-HS ngày 05/7/1958 quy định:

Khi xét xử cần phân biệt: Loại tổ chức thường xuyên và tổ chức nhất thời;
phạm vi hoạt động trong một tỉnh hay liên tỉnh; loại cầm đầu tồn bộ tổ chức bn
lậu và loại cầm đầu từng bộ phận: Xuất vốn, mua hàng, chuyên chở, tàng trữ, tiêu
thụ hàng lậu. Phân biệt sự nguy hiểm của từng loại cầm đầu ấy mà xử lý; Loại
chuyên nghiệp đã có tiếng từ hồi Pháp thuộc và loại mới vào nghề; Loại phần tử xấu
có tội ác, loại phần tử địch và những kẻ phạm pháp có tính chất cơ hội; Loại vũ khí
hành hung cán bộ và loại thường.
Về mức án, Thông tư số: 33/VHH-HS ngày 05/7/1958 quy định một số hình
phạt tù được áp dụng đối với từng người phạm tội cụ thể và quy định một số biện
pháp tư pháp khác như phạt tiền và tịch thu tài sản của người phạm tội.
Sau khi giải phóng hồn tồn miền Nam và thống nhất đất nước, Hội đồng
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số: 76-CP ngày 25/3/1977 về vấn đề hướng dẫn
thi hành và xây dựng pháp luật thống nhất cho cả nước, trong đó có nếu quan điểm
chống bn lậu thuốc phiện của Đảng và Nhà nước ta. Trong thời kỳ này, TAND tối
cao, VKSND tối cao, Bộ Nội vụ cũng đã ban hành các Thông tư hướng dẫn, áp
dụng pháp luật khi điều tra, truy tố, xét xử tội phạm nói chung và tội phạm bn lậu
thuốc phiện nói riêng trên cơ sở của Nghị quyết này. Tuy nhiên trong thời kỳ này,
pháp luật hình sự Việt Nam chưa được hệ thống hóa một cách chính thức mà chỉ
bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành. Do đó khơng thể hiện
được tình tồn diện, đầy đủ và chung nhất chính sách hình sự của Đảng và Nhà
17


nước ta trong việc xử lý tội phạm nói chung, tội tàng trữ trái phép chất ma túy nói
riêng. Vì vậy, việc ban hành một BLHS mới là vấn đề khách quan, cấp thiết và có ý
nghĩa quan trọng trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược lúc bấy giờ là xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo về Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1999
Đến những năm đầu thập kỷ 90, do ảnh hưởng và tác động của các nước

trong khu vực đặc biệt là các nước có đường biên giới trên bộ với nước ta, tình hình
tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng ma túy ở nước ta có chiều hướng gia tăng.
Đặc biệt, tình trạng tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép thuốc phiện và các chất
ma túy khác qua biên giới đang ngày càng trở nên phổ biến. Trước tình hình đó và
do u cầu thực tế của đời sống xã hội, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VII đã thông
qua BLHS năm 1985. Đây là BLHS đầu tiên của nước ta quy định về tội phạm và
hình phạt và cũng là lần đầu tiên thuật ngữ "Chất ma túy" được đưa vào sử dụng
trong hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, BLS năm 1985 mới chỉ
có duy nhất một điều luật quy định tội phạm về ma túy (Điều 203. Tội tổ chức sử
dụng chất ma túy) và hai điều luật có liên quan đến ma túy (Điều 97. Tội buôn lậu
hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới) và (Điều 166. Tội buôn
bán hàng cấm). Khi mới ban hành việc áp dụng hai điều luật của BLHS về "Tội
bn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới" và "Tội buôn
bán hàng cấm" này được thực hiện theo hướng: hành vi buôn bán vận chuyển ma
túy trong nước thì bị áp dụng Điều 166 BLHS, cịn hành vi bn bán vận chuyển
ma túy qua biên giới thì bị áp dụng Điều 97 BLHS. Vì vậy, tội phạm vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy vẫn chưa được ngăn chặn một cách quyết liệt và hiệu
quả trong thời kỳ này.
Trước tình hình bn bán, tàng trữ, vận chuyển ma túy ngày càng gia tăng cả
về số lượng tội phạm và người phạm tội và diễn biến rất phức tạp, việc áp dụng
Điều 97 và 166 BLHS năm 1985 để xử ký các hành vi phạm tội về ma túy như trên
đã không thể đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống đối với loại tội phạm
18


nguy hiểm này. Chính vì vậy, ngày 28/12/1989, Quốc hội đã bổ sung Điều 96a quy
định về "Tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy" quy
định mức hình phạt cao nhất là tử hình. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được sửa
đổi bổ sung như vậy, tình hình phạm tội về ma túy không những không giảm đi, mà
tiếp tục gia tăng với những diễn biến ngày càng phức tạp hơn. Mặc dù các cơ quan

tiến hành tố tụng ở Trung ương đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn xử lý hành vi
có liên qua đến ma túy nhưng cũng khơng thể ngăn chặn được tệ nạn ma túy và tội
phạm về ma túy.
Đến năm 1992, cuộc đấu tranh phòng chống ma túy đã chính thức được quy
định trong Hiến pháp năm 1992. Điều 61 của Hiến pháp năm 1992 quy định:
"Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc
phiện và các chất ma túy khác. Nhà nước quy định về chế độ bắt buộc cai nghiện và
chữa các bệnh xã hội nguy hiểm".
Cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 1992, Đảng và Nhà nước ta
đã đổi mới chính sách hình sự đối với tội phạm về ma túy. Ngày 22/12/1992, Quốc
hội khóa IX thơng qua Luật sủa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1985. Trên
cơ sở đó, các cơ quan có thẩm quyền cũng đã ban hành nhiều văn bản dưới luật để
tiếp tục ngăn chặn một cách có hiệu quả hơn sự gia tăng của tội phạm về ma túy.
Song, hệ thống pháp luật vẫn chưa hoàn chỉnh nên đã gây ra nhiều khó khăn cho
thực tiễn đấu tranh phòng, chống ma túy và tội phạm về ma túy. Do đó, có thể nói
rằng việc sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985 lần này cũng chỉ là biện pháp mang tính
tình thế. Theo hướng dẫn tại thơng tư liên ngành số 02/TTLN ngày 20/3/1993 của
TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp về một số quy định của
BLHS thì:
Đối với những người bn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên
giới hàng hóa là vũ khí qn dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, chất nổ, chất cháy,
chất độc, chất phóng xạ, các chất ma túy, văn hóa phẩm đồi trụy, từ nay chỉ được
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng

19


hóa qua biên giới" theo Điều 97 mà khơng truy cứu thêm về tội phạm tương ứng
theo quy định tại các điều 05, 96, 96a, 99 như hướng dẫn trước đây.
Tiếp theo liên ngành tư pháp trung ương tiếp tục ban hành Thông tư liên

ngành số 06/TTLN ngày 14/2/1995 của TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Nội vụ,
Bộ Tư pháp hướng dẫn lại cụ thể như sau:
Sau một thời gian thực hiện thơng tư liên tịch số 05/TTLT nói trên, thực tiễn
công tác điều tra, truy tố, xét xử cho thấy đối với các hành vi buôn bán trái phép
hoặc vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hóa là các chất ma túy thì tội danh
bn bán hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy theo Điều 96a BLHS là đúng hơn
và đề cao hơn ý nghĩa của cuộc đấu tranh chống loại tội phạm này. Vì vậy, đối với
mọi hành vi buôn bán trái phép, vận chuyển trái phép qua biên giới chất ma túy chỉ
truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 96a BLHS năm 1985.
Tuy nhiên, theo quy định của BLHS năm 1985 (sau khi luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLHS được Quốc hội khóa IX thơng qua ngày 22/12/1992) thì: Các
hành vi khác như tàng trữ, chiếm đoạt, sản xuất, sử dụng, vận chuyển trong nước
đối với các chất ma túy chưa bị coi là tội phạm. Chính vì vậy, năm 1997 Quốc hội
đã tiếp tục sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985, trong đó tội phạm về ma túy được quy
A

định thành một chương riêng: Chương VII “Các tội phạm về ma túy” để bổ sung
vào “Phần các tội phạm” của BLHS năm 2985 gồm 14 điều với 13 tội danh cụ thể.
Trong lần sửa đổi, bổ sung này, các hành vi phạm tội “sản xuất”, “tàng trữ”, “mua
bán”, “vận chuyển” trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 96a Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của BLHS năm 1985 đã được tách ra thành các tội danh riêng
biệt (Điều 185b. Tội sản xuất trái phép chất ma túy, Điều 185c. Tội tàng trữ trái
phép chất ma túy, Điều 185d. Tội vận chuyển trái phép chất ma túy và Điều 185đ.
Tội mua bán trái phép chất ma túy). Như vậy, có thể nói đây là lần đầu tiên pháp
luật hình sự Việt Nam quy định “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy” thành những tội danh riêng biệt. Đặc biệt là trong số các Điều 185b, Điều
186c, Điều 186d, Điều 186đ này, trọng lượng, số lượng, thể tích, loại ma túy cũng
như chất ma túy đã được quy định một cách cụ thể tương ứng với từng khung
20



×