Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá từ thực tiễn thực hiện tại thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.79 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI TRONG LĨNH VỰC MUA BÁN HÀNG HÓA TỪ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

TÁC GIẢ: LỖ HOÀNG LINH

HÀ NỘI - 2020



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI TRONG LĨNH VỰC MUA BÁN HÀNG HÓA TỪ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
NGÀNH LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107
TÁC GIẢ: LỖ HOÀNG LINH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRIỀU DƯƠNG

HÀ NỘI - 2020



LỜI CAM ĐOAN


Tơi là: LỖ HỒNG LINH, học viên lớp 18A, khóa 2018- 2020 xin cam đoan
đây là cơng trình độc lập của riêng tôi mà không sao chép từ bất kỳ nguồn tài liệu
nào đã được công bố. Các tài liệu, số liệu sử dụng phân tích trong luận văn đều có
nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ, có xác nhận của cơ quan cung cấp số
liệu. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết quả nghiên cứu của tôi được thực
hiện một cách khoa học, trung thực, khách quan. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính
trung thực, chính xác của các nguồn số liệu cũng như các thơng tin sử dụng trong
cơng trình nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

LỖ HỒNG LINH


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
VIAC

Viet Nam International Arbitration Center

CCN

Cụm Công nghiệp

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

WTO

World Trade Organization


BTO, BT, BOT

Buid – Transfer – Operate, Build – Transfer, Build –
Operate – Transfer

EU

Liên minh Châu Âu

BLTTDS 2015

Bộ luật tố tụng dân sự 2015

BLDS 2015

Bộ luật Dân sự năm 2015

LTM 2005

Luật thương mại 2005

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

UNCITRAL


Uỷ ban thương mại quốc tế của Liên hợp quốc

GATT

Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch

DSM

DiskStation Manager

SEOM

Hội nghị quan chức kinh tế cấp cao của các quốc gia
ASEAN

CHLB

Cộng hòa liên bang

SIAC

Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore

HĐTP

Hội đồng Thẩm phán

VKSNDTC


Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VKSDNCC

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

KDTM

Kinh doanh thương mại


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ....................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................3
3.1. Mục đích nghiên cứu ..............................................................................................3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................3
4.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................................3
4.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................3
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ............................................................4
5.1. Phương pháp luận ...................................................................................................4
5.2. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .....................................................................4
7. Kết cấu của luận văn ......................................................................................................4

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TRONG LĨNH VỰC MUA BÁN HÀNG HOÁ ..5
1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp kinh doanh, thương mại trong lĩnh vực mua bán
hàng hóa.....................................................................................................................5
2. Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh vực mua
bán hàng hoá. .............................................................................................................9
3. Ý nghĩa của các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong
lĩnh vực mua bán hàng hoá ......................................................................................15
4. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại ....................................................................................................16
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TRONG LĨNH VỰC MUA BÁN HÀNG HOÁ
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ..........................19
1. Thực trạng các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá .....................................................................19
2. Khái quát chung về tình hình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ở Việt
Nam hiện nay ...........................................................................................................40
3. Thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán
hàng hoá trên địa bàn thành phố Hà Nội .................................................................42


CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TRONG LĨNH VỰC MUA
BÁN HÀNG HỐ HIỆN NAY ...........................................................................................55
1. Phương hướng hồn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá trong giai đoạn hiện nay .............................55
2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá ..............................................56
KẾT LUẬN ..........................................................................................................................66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................68



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã khiến tranh chấp kinh doanh
thương mại trở thành một hiện tượng khách quan tất yếu và ngày càng trở nên
phong phú, đa dạng và phức tạp. Tranh chấp kinh doanh thương mại đã trở thành
thuật ngữ quen thuộc trong nền kinh tế thị trường ở nước ta đã và đang được diễn ra
trong bối cảnh sự phát triển theo chiều rộng và chiều sâu của các quan hệ kinh tế
với tốc độ nhanh chóng chưa từng có để từng bước khẳng định nó là bộ phận không
thể thiếu được của thị trường thế giới. Tranh chấp trong kinh tế nói chung và tranh
chấp trong kinh doanh thương mại nói riêng với tính chất là hệ quả tất yếu của quá
trình này cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại và gay gắt phức tạp hơn về tính
chất và quy mơ. Hiện tượng này là tất yếu đòi hỏi những cách thức giải quyết cho
phù hợp nhằm bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, góp phần duy trì
ổn định và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Dưới quan điểm của các nhà kinh tế học, nền kinh tế thị trường đã tạo điều
kiện cho việc thu hút các ngành đầu tư trong và ngoài nước để thúc đẩy nền sản
xuất hàng hoá nước ta phát triển. Song dưới quan điểm của các nhà luật học thì
chính nền sản xuất hàng hoá phát triển cao đã làm phát sinh nhiều mối quan hệ kinh
tế phức tạp giữa các đơn vị sản xuất, kinh doanh với nhau. Trong những biểu hiện
của nó là các tranh chấp kinh tế khi mà hai bên không thể thoả thuận được. Trong
trường hợp đó, việc giải quyết tranh chấp này ở đâu? và được thực hiện bởi cơ quan
nào? để cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh đó yên tâm, tin tưởng vào đường lối
phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới mà Đảng, Nhà nước ta đã đặt ra là vấn đề
hết sức cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Hiện nay, tranh chấp kinh doanh thương mại có thể được giải quyết bằng các
phương thức: thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc Tòa án. Mỗi phương thức đều
có những ưu điểm và hạn chế riêng và việc lựa chọn phương thức nào để giải quyết
tranh chấp tùy thuộc vào hiệu quả mà phương thức đó có thể đem lại cho những bên

trong cuộc đối với mỗi vụ việc cụ thể. Do vậy, việc nghiên cứu thực tiễn về giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại được nhiều người quan tâm. Đồng thời
việc giải quyết vấn đề này cũng góp phần đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự,
đảm bảo mơi trường kinh doanh lành mạnh và an ninh quốc gia.
Trên quan điểm đó khơng ít những cơng trình nghiên cứu đã và đang được
nghiên cứu, tìm hiểu để đưa ra những giải pháp hữu ích quan trọng đối với vấn đề
giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh doanh hiện nay. Tuy vậy, tất cả những
cơng trình vẫn chủ yếu là nêu lên những quan điểm chung và trong phạm vi rộng
thiếu tính cụ thể tại một địa phương nhất định để tìm hiểu được những vấn đề được
nêu lên và nhận xét tìm ra một giải pháp, hướng đi cụ thể cho công tác giải quyết
tranh chấp kinh tế, thương mại tại một thành phố.
Hà Nội là một thành phố có số lượng doanh nghiệp rất lớn so với các tỉnh, thành
khác trong phạm vi cả nước, trong những năm gần đây các tranh chấp kinh doanh,
thương mại nói chung và giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực mua bán hàng hố nói
e1


riêng đang có xu hướng tăng dưới nhiều hình thức khác nhau. Thực tiễn giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại trong những năm qua ở thành phố Hà Nội cho
thấy bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong việc giải quyết các tranh chấp
kinh doanh thương mại, thì cịn có những tồn tại, vướng mắc cần phải khắc phục.
Xuất phát từ vị trí, vai trị và ý nghĩa của phương thức giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu
quả giải quyết loại tranh chấp này trên địa bàn thành phố Hà Nội, tác giả lựa chọn
nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
trong lĩnh vực mua bán hàng hoá từ thực tiễn thực hiện tại thành phố Hà Nội ” làm
đề tài cho luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước đây khi giải quyết các vụ án tranh chấp kinh tế, nguồn quy định chủ
yếu để giải quyết chỉ quy định trong các hợp đồng kinh tế, pháp lệnh về thủ tục giải

quyết các vụ án kinh tế, hay là các tranh chấp thương mại trong Luật thương mại
1997…. Từ khi Luật Thương mại năm 2005 và Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 ra đời,
nó quy định một cách cụ thể và chi tiết việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh
thương mại.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này cũng đã có nhiều tác giả nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau, tiêu biểu có thể kể đến như: Luận án Tiến sĩ của tác giả
Đào Văn Hội “Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế”; Luận án Tiến sĩ của
tác giả Nguyễn Thị Kim Vinh “Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con
đường Tòa án ở Việt Nam”; Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thu Hoài:
“Hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại của trọng tài và tồ án ở Việt Nam
hiện nay nhìn từ góc độ so sánh”…Bên cạnh đó cịn có nhiều bài nghiên cứu đăng
tải trên các tạp chí chuyên ngành như: “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam
hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật - Viện
Nhà nước và Pháp luật, Số 11/2014; “Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của
ASEAN” của tác giả Nguyễn Thị Thuận đăng tải trên tạp chí Luật học, Số đặc san
"Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế" năm 2012; Bài viết: “Hòa giải trong
giải quyết tranh chấp kinh tế tại Việt Nam” của TS Dương Thanh Mai, Tạp chí
Khoa học pháp lý số 5/2012; bài viết: “Pháp luật và thực tiễn của Australia về hòa
giải – một số kiến nghị áp dụng cho Việt Nam” của tác giả Đặng Hồng Oanh
(nguồn: Cơng thơng tin Bộ Tư pháp)…
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu hay các bài viết mới chỉ đi nghiên cứu
chung chưa đi sâu vào nghiên cứu, phân tích cụ thể vấn đề. Hoạt động giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá trên địa bàn
thành phố Hà Nội chưa có một đề tài nào, bài viết nào cụ thể, sâu sắc. Vì vậy đề tài
nghiên cứu “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán
hàng hố trên địa bàn thành phố Hà Nội” là cơng trình nghiên cứu đầu tiên, làm rõ
cả về lý luận và thực tiễn và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá tại thành phố Hà
Nội.

e2


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm nhằm sáng tỏ cơ sở lý luận của công tác giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá trên địa bàn thành phố Hà
Nội thông qua thực tiễn giải quyết các vụ án tranh chấp trong lĩnh vực mua bán
hàng hoá trên địa bàn thành phố Hà Nội và hướng tới những phương hướng giải
pháp để góp phần hồn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng trong công tác xử lý
tại Tịa án nhân dân nói riêng và các phương thức giải quyết tranh chấp nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ các vấn đề tranh chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh vực mua
bán hàng hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội với những nhiệm vụ cơ bản:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại tại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa hiện nay
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng tại Tòa án nhân dân.
- Thu thập các thông tin tài liệu, các số liệu cơ bản trong công tác giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hố tại Tịa án nhân
dân thành phố Hà Nội từ năm 2015 - 2018.
- Nhận xét, đánh giá và nêu phương hướng cũng như một số biện pháp cụ thể
nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về việc giải quyết các tranh chấp kinh
doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy
định của BLDS 2015, BLTTDS 2015, Luật Thương mại 2005 và các văn bản hướng
dẫn thi hành liên quan đến việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại
trong lĩnh vực mua bán hàng hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung và tại

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu xoay quanh những vấn đề lý luận
và thực tiễn các quy định của pháp luật đối với việc giải quyết tranh chấp về kinh
doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá, các phương thức được áp dụng
trong quá trình giải quyết tranh chấp mua bán hàng hóa, ý nghĩa của việc giải quyết
tranh chấp về kinh doanh thương mại cũng như kinh nghiệm của một số quốc gia
trên thế giới trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại đối với
lĩnh vực mua bán hàng hóa
Trong phạm vi nghiên cứu đó, Luận văn chỉ giới hạn trong việc phân tích,
bình luận các quy định của pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án bao
gồm các quy định pháp luật về khởi kiện và thụ lý vụ án; giai đoạn chuẩn bị xét xử;
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án, xét xử phúc thẩm và thủ tục xét lại bản án đã có
e3


hiệu lực cũng như thực tiễn áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của đề tài là dựa vào quan
điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách, quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng, Nhà nước và pháp luật, các báo cáo tổng hợp, các tài
liệu của toà án nhân dân thành phố Hà Nội từ năm 2008 đến nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là dựa trên các phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tiễn, số liệu thu thập được liên quan
đến pháp luật và thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá trên địa bàn thành phố Hà Nội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Đề tài góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội
nói chung và tại Tịa án nhân dân thành phố Hà Nội nói riêng..
Với kết quả nghiên cứu đạt được của đề tài có thể áp dụng vào cơng tác giải
quyết các tranh chấp về kinh doanh thương mại tại Tòa án cũng như các chủ thể có
thẩm quyền khác theo luật định
Đề tài có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho các cơ quan thực thi pháp luật,
sinh viên, học viên cao học chuyên ngành luật, chính trị luật và tất cả những ai quan
tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá.
Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trong
lĩnh vực mua bán hàng hố tại tịa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá hiện nay.

e4


CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TRONG LĨNH VỰC MUA
BÁN HÀNG HOÁ
1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp kinh doanh, thương mại trong lĩnh
vực mua bán hàng hóa.
1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh vực
mua bán hàng hóa
Sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trong thời gian gần đây được

diễn ra trong bối cảnh sự phát triển theo chiều rộng và chiều sâu của các quan hệ
kinh tế với một tốc độ nhanh chóng chưa từng có để từng bước khẳng định nó là bộ
phận khơng thể thiếu được của thị trường thế giới. Tranh chấp trong kinh tế nói
chung và trong kinh doanh, thương mại nói riêng với tính cách là hệ quả tất yếu của
quá trình này cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại, và gay gắt, phức tạp hơn
về tính chất và quy mơ. Bởi vậy, yêu cầu phải áp dụng các hình thức và phương
thức giải quyết tranh chấp phù hợp, có hiệu quả là một đòi hỏi khách quan để bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế, bảo đảm ngun tắc pháp
chế, thơng qua đó góp phần tạo lập môi trường pháp lý lành mạnh để thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế - xã hội.
Về mặt học thuật, tranh chấp kinh tế và tranh chấp trong kinh doanh, thương
mại là những khái niệm có nội hàm rộng hẹp khác nhau, mặc dù chúng đều được
hiểu là sự bất đồng chính kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột lợi ích, về quyền và
nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế. Hệ thống pháp luật Việt
Nam đã từng tồn tại những khái niệm khác nhau để biểu đạt loại hình tranh chấp
này. Mặc dù không xây dựng được một khái niệm chuẩn mực về tranh chấp kinh tế
nhưng Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế từ ngày 16/3/1994 và Nghị
định số 116/CP ngày 5/9/1994 cũng đã liệt kê các tranh chấp được coi là tranh chấp
kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án kinh tế và trọng tài kinh tế.
Theo các văn bản pháp luật này, các tranh chấp kinh tế bao gồm:
- Các tranh chấp về Hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa
pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.
- Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty.
- Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
- Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Với nội dung như vậy, tranh chấp kinh tế cũng đã mở rộng hơn về các loại
tranh chấp so với thời kỳ kế hoạch hóa. Tuy nhiên hiện nay, cách tiếp cần này có
phạm vi nội hàm hẹp, khơng thể bao hàm được bản chất của các loại tranh chấp
phát sinh trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.

Theo Công ước New York năm 1958, hiệp định thương mại Việt Mỹ năm
2000 và WTO, tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, song đa số các nhà khoa học đều
thống nhất rằng, tranh chấp kinh tế được hiểu là sự bất đồng chính kiến, sự mâu
e5


thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào
các quan hệ kinh tế ở các cấp độ khác nhau. Theo đó, tranh chấp kinh tế có thể có
các dạng cơ bản sau:
- Tranh chấp trong kinh doanh, thương mại: Được diễn ra giữa các chủ thể
tham gia kinh doanh và các thương nhân. Cụ thể, đó là những tranh chấp phát sinh
trong các khoản đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên
thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
- Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia tiếp nhận đầu tư: Loại
hình tranh chấp này nảy sinh trong việc thực hiện các hợp đồng BTO, BT, BOT,
thực hiện các điều ước quốc tế về khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương và
đa phương.
- Tranh chấp giữa các quốc gia trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về
thương mại đa phương;
- Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế trong việc
thực hiện các Điều ước quốc tế trong khuôn khổ thương mại đa phương như: tranh
chấp giữa Mỹ và EU về nhập khẩu chuối tại Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Thực tế cho thấy, trong các loại hình tranh chấp kinh tế trên, tranh chấp trong
kinh doanh thương mại là loại hình tranh chấp phổ biến nhất và do đó trong một số
trường hợp khái niệm tranh chấp trong kinh doanh thương mại và khái niệm tranh
chấp kinh tế được sử dụng với ý nghĩa tương đương nhau. Mặt khác, tranh chấp
trong kinh doanh thương mại còn được hiểu là sự bất đồng về một hiện tượng pháp
lý phát sinh trong đời sống kinh tế giữa các chủ thể tham gia kinh doanh và thông
thường gắn liền với các yếu tố lợi ích về mặt tài sản.
Theo định nghĩa của từ điển Tiếng việt, “Tranh chấp là đấu tranh, giằng co

khi có mâu thuẫn, bất đồng thường là trong vấn đề quyền lực giữa hai bên”
Cùng với đó, khái niệm “kinh doanh” lần đầu tiên được đề cập trong Luật
Doanh nghiệp 1999, sau này cũng được quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật Doanh
nghiệp 2014 được xác định là một khái niệm rộng, bao hàm cả hoạt động kinh
doanh, thương mại của các thương nhân. Theo đó, “kinh doanh” được hiểu là việc
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn của q trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
sinh lợi.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 thì: “Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác”. Như vậy, khái niệm “kinh doanh” trong Luật Doanh nghiệp tương đồng với
khái niệm “hoạt động thương mại” quy định trong Luật Thương mại.
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ
giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh tốn; bên
mua có nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo
thỏa thuận. Hợp đồng mua bán hàng hóa về bản chất khơng khác gì so với hợp đồng
e6


mua bản tài sản nếu các bên thỏa thuận xác lập quyền và nghĩa vụ pháp lý, ghi nhận
quan hệ chuyển quyền sở hữu và có thanh tốn.
Từ nội dung xem xét nêu trên, có thể hiểu: “Tranh chấp kinh doanh thương
mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột)
về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động mua
bán hàng hoá hoặc các hoạt động có có liên quan đến việc mua bán hàng hố của
các bên chủ thể”.
Trên cơ sở khái niệm đã xây dựng, có thể khái quát những đặc điểm của
tranh chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá như sau:
Thứ nhất, chủ thể chủ yếu của tranh chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh

vực mua bán hàng hoá là thương nhân bởi quan hệ mua bán hàng hố có thể được
thiết lập giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với bên không phải
là thương nhân. Một tranh chấp được coi là tranh chấp kinh doanh thương mại khi
có ít nhất một bên là thương nhân. Ngồi ra cũng có một số trường hợp, các cá nhân
tổ chức khác cũng có thể là chủ thể của tranh chấp kinh doanh, thương mại: tranh
chấp giữa công ty – thành viên công ty; tranh chấp giữa các thành viên công ty với
nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, hợp nhất, giải thể, chia, tách…công
ty; …
Thứ hai, căn cứ phát sinh tranh chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh vực
mua bán hàng hoá là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật vì trong
nhiều trường hợp, tranh chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng
hoá phát sinh do các bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy
nhiên cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng khơng làm
phát sinh tranh chấp. Nội dung của tranh chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh
vực mua bán hàng hoá là những xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên
trong hoạt động mua bán hàng hoá. Các quan hệ kinh doanh thương mại trong lĩnh
vực mua bán hàng hố có bản chất là các quan hệ tài sản, nên nội dung tranh chấp
thương liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. Ngồi ra, tranh chấp kinh
doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hố cịn chịu chi phối của các yếu
tố cơ bản của hoạt động này như: mục đích sinh lợi, các yêu cầu về thời cơ kinh
doanh và yêu cầu giữ bí mật thơng tin liên quan đến hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, về hình thức thì hợp đồng kinh doanh thương mại trong lĩnh vực
mua bán hàng hoá được thực hiện theo cách thức mà hai bên thỏa thuận. Hợp đồng
có thể được thể hiện qua lời nói, bằng văn bản hay hành vi cụ thể của các bên giao
kết. Tuy nhiên, đối với một số trường hợp nhất định thì hợp đồng phải được thiết
lập bằng văn bản, ví dụ như hợp đồng quảng cáo, hợp đồng ủy thác mua bán hàng
hóa, …Thơng thường các hợp đồng kinh doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán
hàng hoá được xác lập bằng văn bản để đảm bảo sự an toàn và dễ giải quyết khi xảy
ra tranh chấp, nhưng đối với những hợp đồng đơn giản, việc mua bán cần diễn ra
nhanh chóng thì các bên có thể xác lập hợp đồng bằng lời nói hoặc bằng một hành

vi cụ thể. Như vậy, sự thỏa thuận của các bên thường quyết định đến hình thức của

e7


hợp đồng, tuy nhiên, đối với một số hợp đồng mà pháp luật quy định phải bằng hình
thức văn bản thì các bên phải xác lập hợp đồng bằng văn bản.
Thứ tư, về các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực
mua bán hàng hố, trong đó, việc giải quyết các tranh chấp này đòi hỏi được giải
quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên, giáo dục ý thức tôn trọng pháp
luật của công dân, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong lĩnh vực mua
bán hàng hoá, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội. Hiện nay tranh chấp kinh
doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá được giải quyết bằng các
phương thực: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tịa án. Mỗi phương
thức có sự khác nhau về tính chất pháp lý, nội dung của thủ tục, trình tự tiến hành.
Các bên có quyền tự do lựa chọn phương thức phù hợp, phụ thuộc vào lợi thế mà
mỗi phương thức có thể mang lại, mức độ phù hợp của phương thức so với nội dung
tính chất của tranh chấp và thiện chí của các bên.
Có thể thấy rằng, khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh
vực mua bán hàng hoá ở mỗi chế độ chính trị khác nhau, từng giai đoạn phát triển
kinh tế xã hội khác nhau và mỗi quốc gia khác nhau sẽ được hiểu một cách khác
nhau. Nói một cách khác, khái niệm tranh chấp KDTM trong lĩnh vực mua bán
hàng hố mang trong mình những điểm đặc trưng của cơ chế kinh tế và điều kiện cơ
sở vật chất của một xã hội, một nhà nước nhất định. Việc xây dựng khái niệm và
làm rõ đặc điểm của tranh chấp KDTM trong lĩnh vực mua bán hàng hoá sẽ giúp
chúng ta thấy được bản chất pháp lý của loại hình tranh chấp này, từ đó tìm ra biện
pháp hữu hiệu để giải quyết chúng một cách nhanh chóng, chính xác và đúng pháp
luật, từ đó sẽ bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp,
bảo đảm trật tự trong hoạt động kinh doanh và kỷ cương xã hội.
1.2. Khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.

Có thể nhận thấy, mối quan hệ trong hoạt động KDTM vừa mang tính xung
đột vừa hợp tác. Vì thế, khi xảy ra tranh chấp các bên ln tìm cách nhanh chóng để
giải quyết các xung đột, mâu thuẫn này để sớm đưa hoạt động kinh doanh, sản xuất
của mình trở lại bình thường, ổn định. Do đó, việc giải quyết tranh chấp KDTM địi
hỏi các bên tranh chấp cũng như cơ quan giải quyết tranh chấp phải tiến hành nhanh
chóng, kín đáo, khơng làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của các
bên đồng thời phải luôn đảm được sự hợp tác trong hoạt động KDTM.
Như vậy: “Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là việc các bên
tranh chấp thông qua hình thức, thủ tục thích hợp tiến hành các giải pháp nhằm
loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi ích kinh tế nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của mình”.
Khi xảy ra tranh chấp các bên có quyền tự lựa chọn phương thức giải quyết
tranh chấp của mình bằng các con đường khác nhau. Trên thực tế tranh chấp KDTM
có thể được giải quyết bằng con đường Tịa án hoặc các phương thức khác ngồi
Tịa án.

e8


2. Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong
lĩnh vực mua bán hàng hoá.
Dựa trên cơ sở tự do và tự chủ trong kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật,
việc giải quyết tranh chấp phải đảm bảo các nguyên tắc: nguyên tắc tự định đoạt,
nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, ngun tắc hịa giải và nguyên tắc giải quyết
tranh chấp nhanh chóng và kịp thời, đảm bảo hạn chế gián đoạn quá trình sản xuất
kinh doanh.
Trong nền kinh tế có nhiều phương thức và loại hình giải quyết tranh chấp
khác nhau, tất cả đều nhằm giải quyết một cách có hiệu quả nhất, quyền và lợi ích
của các bên đều được bảo đảm. Các khả năng, hình thức và biện pháp giải quyết
tranh chấp được quy định trong pháp luật của mỗi quốc gia thích ứng với điều kiện

kinh tế xã hội của quốc gia đó. Đó là việc giải quyết tranh chấp thơng qua một cơ
quan tài phán có đơn kiện, hoặc giải quyết tranh chấp thông qua thủ tục đơn kiện.
Việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp nói riêng cũng như mọi vấn
đề liên quan đến quá trình giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh thương mại
nói chung dựa trên nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt của các bên. Pháp
luật hiện hành của Việt Nam, trong các văn bản pháp luật quốc gia cũng như trong
các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đều ghi nhận nguyên tắc này.
Khái quát lại, các phương thức để giải quyết tranh chấp trong KDTM trong
lĩnh vực mua bán hàng hố bao gồm: Thương lượng, Hịa giải, Trọng tài, Tòa án.
2.1. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng thương
lượng.
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
trong đó các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận để đi đến thống nhất một
phương án giải quyết bất đồng giữa họ mà không cần bất kỳ sự can thiệp của cơ
quan nhà nước hay của bất kỳ người thứ ba nào. Thương lượng chính là sự thể hiện
quyền tự do thỏa thuận, tự do hợp đồng và tự do định đoạt của các bên. Đặc điểm
cơ bản của thương lượng là các bên cùng nhau bày tỏ quan điểm, chính kiến, bàn
bạc, tìm các biện pháp thích hợp và đi đến thỏa thuận để tự giải quyết bất đồng.
Việc giải quyết tranh chấp thương mại thơng qua thương lượng có những ưu điểm:
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp kinh tế một cách nhanh gọn, ít tốn kém.
Đối với các nhà kinh doanh, thời gian là tiền bạc. Việc giải quyết các tranh
chấp kéo dài sẽ làm cho họ khơng có điều kiện chú tâm vào các hoạt động kinh
doanh, thương mại và do đó có thể bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, dẫn đến thua thiệt về
kinh tế. Phương thức giải quyết tranh chấp theo thủ tục tư pháp đòi hỏi phải mất khá
nhiều thời gian do các bên cũng như các tịa án phải thực hiện rất nhiều cơng đoạn
do luật định như lập hồ sơ, nộp các khoản phí và lệ phí, thu thập thêm tài liệu,
chứng cứ, xét xử...Đối với việc giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng thì có
thể giản tiện được hầu hết các cơng việc nói trên.
Thứ hai, giữ bí mật kinh doanh, bảo vệ được uy tín của các bên trên thương
trường

e9


Trong các hoạt động kinh doanh, thương mại, việc các nhà kinh doanh tạo
được một thương hiệu, uy tín và một vị thế trong giới kinh doanh là rất quan trọng.
Do vậy, việc phải đưa nhau ra tòa án để hầu tịa là một việc mà các nhà kinh doanh
khơng hề mong muốn, vì theo tâm lý của người phương Đơng, điều này làm ảnh
hưởng đến uy tín nghề nghiệp và vị thế của các nhà kinh doanh. Nếu vụ tranh chấp
được giải quyết thơng qua thương lượng thì đó là một việc xử lý kín, khơng ai được
tham gia vào q trình thương lượng mà khơng được sự đồng ý của các bên. Khơng
ai có quyền được tiết lộ thơng tin liên quan đến q trình thương lượng, do đó sẽ
khơng có ai biết gì về vụ tranh chấp ngồi các bên có tranh chấp. Chính vì thế mà bí
mật kinh doanh của các bên khơng bị lộ và uy tín nghề nghiệp, danh dự của các bên
sẽ được giữ vững, mối quan hệ giữa các đối tác khác sẽ được củng cố và ngày càng
phát triển.
Thứ ba, duy trì mối quan hệ thương mại sẵn có giữa các bên.
Khi các bên có tranh chấp u cầu tịa án giải quyết thì sẽ có kết quả là bên
thắng và bên thua. Điều này gây ra tâm lý không thoải mái đối với các bên, nhất là
bên thua. Vì thế mà mối quan hệ thương mại giữa các bên có thể bị ảnh hưởng xấu.
Còn nếu giải quyết bằng thương lượng thì sẽ khơng có bên thắng, bên thua mà là cả
hai bên cùng thắng (win-win), hai bên đều đạt được những gì mình muốn, từ đó có
tâm lý thoải mái và vì thế mối quan hệ thương mại giữa họ cũng ngày càng được
củng cố.
Thương lượng, bên cạnh những ưu điểm thì cũng có những hạn chế nhất định,
bởi việc thương lượng của các bên có đạt được kết quả hay khơng là hồn tồn phụ
thuộc vào thiện chí của các bên. Nếu một bên khơng có thiện chí thì coi như bế tắc
và sẽ mất thêm thời gian để tìm kiếm giải pháp khác, kéo dài thời gian giải quyết
tranh chấp.
2.2. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng trung gian
hịa giải.

Hịa giải là hình thức giải quyết tranh chấp giữa các bên thông qua một
người thứ ba gọi là hòa giải viên. Hòa giải viên được các đương sự chọn có nghĩa
vụ “trung lập” tạo điều kiện giúp đỡ các bên tranh chấp đạt được một giải pháp để
điều hịa lợi ích khắc phục mâu thuẫn bất đồng đã phát sinh.
Hòa giải viên sẽ tiến hành họp kín với riêng từng bên hoặc họp chung với cả
hai bên để tìm hiểu kỹ nội dung tranh chấp, đưa ra những lý giải, phân tích cho các
bên thấy rõ lợi ích của mình và của bên kia để cùng tìm ra một giải pháp thống nhất
giải quyết tranh chấp hợp tình, hợp lý. Hịa giải viên khơng có quyền hạn gì để ra
quyết định hoặc áp đặt một giải pháp nào đối với các bên, cũng như không thể đưa
ra các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp mang tính chất tự nguyện, mang
đầy đủ những ưu điểm của thương lượng. Ngồi ra, hịa giải cịn có những ưu điểm
khiến việc giải quyết tranh chấp dễ dàng hơn. Chẳng hạn hòa giải viên thường là
những chuyên gia am hiểu vấn đề đang tranh chấp, họ lại có một đánh giá sự việc
khách quan hơn, hịa giải viên có thể đưa ra cách giải quyết hợp lý cho cả hai bên
e10


cùng tham khảo, họ thường có những phân tích chính xác, rõ ràng các vấn đề thực
tế trong tranh chấp, từng bước gỡ những nút thắt bất đồng.
Hòa giải cũng chỉ thành cơng khi hai bên có thiện chí giải quyết tranh chấp
và nhìn chung phương thức này khơng có giá trị bắt buộc trừ khi các bên đạt được
sự thỏa thuận. Nếu các bên cứ khăng khăng bảo thủ, thì tranh chấp cũng khơng giải
quyết được vì hịa giải viên không đưa ra những quyết định buộc các bên phải thi
hành.
Người trung gian hịa giải được chọn thơng qua sự thống nhất thỏa thuận của
các bên. Đó có thể là các tranh chấp trong lĩnh vực chuyên môn của họ. Trong hoạt
động kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong thương mại quốc tế, trung gian hịa giải có thể
là một tổ chức chính phủ như đại sứ quán, các trung tâm xúc tiến thương mại…
hoặc các tổ chức phi chính phủ.

Hai phương thức trên có giải quyết tranh chấp thành công hay không đều phụ
thuộc rất lớn vào sự tự nguyện và thiện ý của các bên. Thiếu những yếu tố đó việc
giải quyết tranh chấp sẽ thất bại. Do đó cần giải quyết bằng những phương thức
khác, quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp phải được tuân thủ. Người có
quyền lợi bị vi phạm sau khi không thành công trong việc áp dụng của các biện
pháp trên (hoặc bỏ qua) có thể kiện ra tịa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền lợi của
mình.
2.3. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tố tụng
trọng tài
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng
hố bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng
tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra
một phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện. Ưu điểm của phương thức
giải quyết tranh chấp này là có tính linh hoạt, tạo quyền chủ động cho các bên;
nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian có thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng tải và
bảo đảm bí mật. Quyết định trọng tài không được công bố công khai, rộng rãi vì
vậy, các bên có thể giữ được bí mật kinh doanh cũng như danh dự, uy tín của mình.
Giải quyết trọng tài khơng bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các bên có quyền lựa chọn
bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình. Phán quyết của
trọng tài có tính trung thẩm, đây là ưu thế vượt trội so với hình thức giải quyết tranh
chấp bằng thương lượng hòa giải. Tuy nhiên, giải quyết bằng phương thức trọng tài
có nhược điểm là chi phí tương đối cao, vụ việc giải quyết càng kéo dài thì phí
trọng tài càng cao. Việc thi hành quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng trôi
chảy, thuận lợi như việc thi hành bản án, quyết định của Tịa án.
Tố tụng trọng tài có đặc điểm cơ bản sau:
- Trọng tài thương mại là một loại hình tổ chức phi chính phủ, một tổ chức
mang tính chất xã hội - nghề nghiệp, hoạt động theo pháp luật và quy chế trọng tài.
- Tố tụng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Cụ
thể, thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết lựa chọn trọng tài viên, quyền lựa chọn
địa điểm giải quyết tranh chấp, lựa chọn quy tắc tố tụng.

e11


- Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo
trước bất cứ cơ quan, tổ chức nào. Về nguyên tắc, trọng tài không xét xử cơng khai
do đó ngồi ngun đơn và bị đơn, trọng tài chỉ triệu tập các đương sự khác khi cần
thiết.
- Quy tắc tố tụng trọng tài của các quốc gia rất khác nhau, nhưng nhìn chung
quy tắc lựa chọn trọng tài viên và thủ tục của hầu hết các trung tâm trọng tài trên
thế giới đều theo khuôn mẫu của quy tắc trọng tài mẫu UNCITRAL
- Trọng tài thương mại của các nước trên thế giới chủ yếu tồn tại dưới hai
dạng cơ bản sau:
+ Trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) là hình thức trọng tài được lập ra để giải
quyết những tranh chấp cụ thể khi có yêu cầu và tự giải thể khi giải quyết xong
tranh chấp đó. Đặc điểm cơ bản của trọng tài vụ việc là khơng có trụ sở, khơng có
bộ máy giúp việc và không lệ thuộc vào bất cứ một quy tắc xét xử nào. Về nguyên
tắc, các bên đương sự khi yêu cầu trọng tài ad-hoc xét xử có quyền lựa chọn thủ tục,
các phương thức tiến hành tố tụng.
+ Trọng tài thường trực (còn gọi là quy chế) là những trọng tài có hình thức tổ
chức, có trụ sở ổn định, có danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ riêng.
Phần lớn các tổ chức trọng tài lớn, có uy tín trên thế giới đều được thành lập theo
mơ hình này dưới các tên gọi như Trung tâm trọng tài, Ủy ban trọng tài, Viện trọng
tài, Hội đồng trọng tài Quốc gia và Quốc tế. Trọng tài thường trực có quy chế tố
tụng riêng và được quy định rất chặt chẽ. Về cơ bản, các đương sự không được
phép lựa chọn thủ tục tố tụng.
2.4. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tố tụng tại
Tịa án.
Đây là phương thức có sự tham gia giải quyết của đại diện quyền lực nhà
nước là Tòa án nhân dân. Vì vậy qui trình giải quyết tranh chấp phải tuân thủ qui
định chặt chẽ của pháp luật tố tụng. Đồng thời, bản án, quyết định của Tòa án được

đảm bảo thi hành bằng hệ thống cơ quan thi hành án của nhà nước.
Nếu như việc giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hồ giải và trọng tài
khơng mang ý chí quyền lực nhà nước (khơng nhân danh quyền lực nhà nước như
phán quyết của toà án) mà chủ yếu được giải quyết dựa trên nền tảng ý chí tự định
đoạt của các bên tranh chấp hoặc phán quyết của bên thứ ba độc lập (được các bên
lựa chọn) theo thủ tục linh hoạt, mềm dẻo.thì đặc trưng cơ bản của thủ tục giải
quyết tranh chấp bằng tòa án là thông qua hoạt động của bộ máy tư pháp và nhân
danh quyền lực nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành,
kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế. Nhờ đó, việc giải quyết tranh chấp thương
mại thơng qua tịa án cịn trực tiếp góp phần vào việc nâng cao ý thức, tơn trọng
pháp luật cho các chủ thể kinh doanh.
Thực tiễn giải quyết các TCKDTM bằng tòa án cho thấy một số đặc điểm cơ
bản như sau:
Một là, giải quyết TCKDTM trong lĩnh vực mua bán hàng hố bằng tịa án là
phương thức giải quyết trên cơ sở đơn kiện của một bên tranh chấp yêu cầu Toà án
e12


có thẩm quyền giải quyết vụ án. Thẩm quyền của Toà án về giải quyết TCKDTM
được pháp luật quy định phân theo cấp toà xét xử, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn
của nguyên đơn.
Hai là, Toà án là cơ quan tài phán nhân danh quyền lực nhà nước để giải
quyết tranh chấp. Vì vậy, phán quyết của Tồ án (bản án hay quyết định) có giá trị
bắt buộc thi hành dựa vào sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Ba là, giải quyết TCKDTM trong lĩnh vực mua bán hàng hố bằng tịa án
phải tn thủ triệt để trình tự, thủ tục tố tụng theo luật định. Thủ tục tố tụng được áp
dụng cho viêc giải quyết TCKDTM dựa trên nền tảng thủ tục TTDS. Giải quyết
TCKDTM trong lĩnh vực mua bán hàng hố bằng tịa án theo ngun tắc 2 cấp xét
xử, trong một số trường hợp, bản án, quyết định giải quyết tranh chấp có thể được
xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm khi có các căn cứ.

Bốn là, giải quyết TCKDTM trong lĩnh vực mua bán hàng hố bằng tịa án
được xét theo nguyên tắc công khai trừ một số trường hợp theo u cầu chính đáng
của đương sự thì Tồ xử kín nhưng tun án cơng khai.
Thủ tục giải quyết tranh chấp thơng qua tịa án thường dài hơn so với giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài. Hơn nữa, nguyên tắc xét xử cơng khai tại tịa án
khơng phù hợp với tính chất của hoạt động kinh doanh và tâm lý của giới doanh
nghiệp, (có thể làm sút giảm uy tín của các bên trên thương trường; lộ các bí mật
kinh doanh…), ngoài ra) bản án xét xử xong chưa được thi hành ngay mà các bên
có quyền kháng cáo khiếu nại nên thời gian kéo dài.
2.5. Giải quyết tranh chấp thông qua các thiết chế quốc tế và khu
vực đặc biệt
(1) Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của tổ chức
thương mại thế giới (WTO).
Sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được coi như một thành
công đặc biệt trong sự phát triển thương mại và pháp lý cuối thế kỷ XX. Để đảm
bảo việc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định trong các Hiệp định WTO, ngăn
chặn các biện pháp thương mại vi phạm các Hiệp định, góp phần vào việc thực hiện
các mục tiêu to lớn của WTO, một cơ chế giải quyết các tranh chấp trong khuôn
khổ tổ chức này đã được thiết lập. Cơ chế này là sự hiện thực hố xu thế pháp lý
hố q trình giải quyết tranh chấp mang tính chính trị, ngoại giao trong lĩnh vực
này. Sau gần 20 năm được đưa vào thực hiện, có thể tự tin nói rằng cơ chế giải
quyết tranh chấp này đem lại “sự đảm bảo và tính dự đốn được cho hệ thống
thương mại đa phương”, và tạo điều kiện cho việc “giải quyết kịp thời” các tranh
chấp.
Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là sự kế thừa các quy định về giải
quyết tranh chấp đã từng phát huy tác dụng tích cực gần 50 năm qua trong lịch sử
GATT 1947. Mục tiêu căn bản của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là nhằm
“đạt được một giải pháp tích cực cho tranh chấp”, và ưu tiên những “giải pháp được
các bên tranh chấp cùng chấp thuận và phù hợp với các Hiệp định liên quan”. Xét ở
mức độ rộng hơn, cơ chế này nhằm cung cấp các thủ tục đa phương giải quyết tranh

e13


chấp thay thế cho các hành động đơn phương của các quốc gia thành viên vốn tồn
tại nhiều nguy cơ bất cơng, gây trì trệ và xáo trộn sự vận hành chung của các quy
tắc thương mại quốc tế. Qua hơn một thập kỷ thực hiện, cơ chế giải quyết tranh
chấp này đã tỏ rõ ưu thế của mình trong việc giải quyết có hiệu quả các tranh chấp
giữa các quốc gia trong khuôn khổ WTO. Hiệu quả này đạt được chủ yếu dựa trên
các quy định hết sức chặt chẽ về thủ tục được nêu tại các văn bản (nguồn) khác
nhau, cơ chế thông qua quyết định mới (cơ chế đồng thuận phủ quyết), các cơ quan
chuyên môn độc lập với các thời hạn cụ thể. Không phải ngẫu nhiên mà cơ chế giải
quyết tranh chấp trong WTO được coi là một trong những thành cơng cơ bản của
Vịng đàm phán Uruguay.
Nhằm đạt được một giải pháp tích cực cho các bên trong việc giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ việc áp dụng các Hiệp định của WTO, WTO xây dựng cơ sở
pháp lý cho cơ chế giải quyết tranh chấp cho các thành viên của mình thơng qua
Hiệp định về các quy tắc và Thủ tục giải quyết tranh chấp (DSU). Mục tiêu căn bản
của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là nhằm “đạt được một giải pháp tích
cực cho tranh chấp”, và ưu tiên những “giải pháp được các bên tranh chấp cùng
chấp thuận và phù hợp với các Hiệp định liên quan”. Xét ở mức độ rộng hơn, cơ
chế này nhằm cung cấp các thủ tục đa phương giải quyết tranh chấp thay thế cho
các hành động đơn phương của các thành viên vốn tồn tại nhiều nguy cơ bất cơng,
gây trì trệ và xáo trộn sự vận hành chung của các quy tắc thương mại quốc tế.
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong WTO bao gồm: Hội
đồng giải quyết tranh chấp (Viết tắt là DSB), các ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm
thường trực, Ban thư ký WTO, các trọng tài, các chuyên gia độc lập và một số tổ
chức chuyên môn. Thủ tục giải quyết tranh chấp gồm ba bước chính là; tham vấn
giữa các bên; q trình xét xử của Bạn hội thẩm, cơ quan phúc thẩm (nếu có); và
thực thi các phán quyết.
(2) Cách thức giải quyết tranh chấp KDTM của Hiệp hội các quốc gia Đông

Nam Á.
Ngày 20 tháng 11 năm 1996, các nước ASEAN đã ký Nghị định thư về cơ
chế giải quyết tranh chấp, viết tắt là DSM. DSM được áp dụng để giải quyết các
tranh chấp của các Hiệp định thương mại đã ký kết cũng như các Hiệp định thương
mại tương lai của ASEAN, Nghị định thư DSM gồm 12 Điều và 2 phụ lục quy định
khá chi tiết quy trình giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư của ASEAN.
Nghị định thư DSM quy định buộc các thành viên ASEAN phải thỏa thuận
giải quyết mọi vấn đề tranh chấp liên quan đến việc thực hiện, giải thích hoặc áp
dụng của các Hiệp định thuộc phạm vi Nghị định thư DSM bằng thương lượng hữu
nghị giữa các thành viên hữu quan. Theo đó, bên tranh chấp phải làm văn bản gửi
bên hữu quan trình bày vấn đề cụ thể, nêu rõ ý kiến và lập luận của mình dưới hình
thức văn bản yêu cầu trao đổi ý kiến. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được
yêu cầu, bên nhận được yêu cầu phải trả lời đề nghị của bên yêu cầu. Việc thương
lượng, trao đổi ý kiến phải được tiến hành trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ
ngày nhận được yêu cầu. Tranh chấp giữa các nước ASEAN có thể thỏa thuận giải
e14


quyết tranh chấp bằng mơi giới, hịa giải hoặc trung gian trong bất cứ thời điểm nào
nhưng không làm phương hại, hoặc cản trở quá trình giải quyết tranh chấp. Ban thư
ký ASEAN sẽ tự nguyện đứng ra giúp các bên giải quyết tranh chấp thông qua
phương thức môi giới theo Điều 11 Nghị định thư DSM 1996. Trong thời hạn 60
ngày nhận được yêu cầu trao đổi ý kiến bất đồng mà các bên không giải quyết được
vấn đề tranh châp, vấn đề sẽ được chuyển cho SEOM, trong vòng 30 ngày SEOM
sẽ lập Panel (theo Điều 5). Panel xem xét vấn đề, xác định tình tiết vụ kiện và nghe
ý kiến các bên rồi đưa ra báo cáo cuối cùng trong thời hạn 60 ngày (theo Điều 6) và
gửi báo cáo cho SEOM, trong thời hạn 30 ngày (Có thể kéo dài thêm 10 ngày)
SEOM sẽ xem xét và quyết định công bố Báo cáo theo nguyên tắc quá bán, đây là
quyết định cuối cùng và có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên tranh chấp và có
báo cáo về tiến độ thực hiện các quy định cho SEOM và AEM. Cịn nếu kháng nghị

thì AEM sẽ xem xét lại vấn đề tranh chấp và có quyết định trong thời hạn 30 ngày
(trường hợp đặc biệt được kéo dài thêm 10 ngày) theo Điều 10 tranh chấp được giải
quyết với tổng thời gian không quá 290 ngày.
Cơ chế giải quyết thương mại của ASEAN mang tính chính trị, thương
thuyết nên số vụ tranh chấp đưa ra giải quyết theo cơ chế DSM của ASEAN là rất ít.
Do vây, cơ chế này cịn cần được hồn thiện nhiều trong quá trình áp dụng phù hợp
với xu hướng phát triển kinh tế của khu vực.
Ngoài các phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến được pháp luật quy
định trên thì cịn có các phương thức giải quyết tranh chấp KDTM khác như “tự
xử”, hành chính, hoạt động tư vấn, tham vấn…
Tóm lại: Mỗi phương thức giải quyết tranh chấp KDTM nêu trên đây đều có
những ưu điểm và hạn chế nhất định. Lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp
nào là quyền của các bên tranh chấp căn cứ vào tính chất, phạm vi, mức độ và thiện
chí của các bên có tranh chấp.
3. Ý nghĩa của các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá
Khi bắt đầu giao kết hợp đồng kinh doanh thương mại, các chủ thể không
bao giờ muốn tranh chấp xảy ra bởi tranh chấp đồng nghĩa với sự ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của họ, làm gián đoạn quá trình kinh doanh, tốn thời gian chi
phí và cơng sức để giải quyết tranh chấp. Khơng những thế cịn liên quan đến chủ
thể khác có quan hệ với các bên tranh chấp, uy tín của chủ thể trên thương trường
có thể bị ảnh hưởng, cũng như các yếu tố khác thuộc về bí mật kinh doanh có thể bị
tiết lộ hoặc bị lợi dụng1…
Giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả thông qua việc lựa chọn một cách
linh hoạt các phương thức giải quyết tranh chấp cho phép hạn chế đến mức tối thiểu
sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt ở mức chi phí thấp nhất. Song,
quan trọng đó là phải bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích hợp pháp và chính đáng

1 />
e15



của các bên khi tham gia vào quan hệ kinh doanh thương mại, đặc biệt là trong lĩnh
vực mua bán hàng hoá.
Giải quyết tốt tranh chấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Muốn có một nền kinh tế phát triển thì các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ
kinh doanh thương mại nói riêng phải được điều chỉnh bằng pháp luật, phải đảm
bảo bằng pháp luật. Việc đầu tiên là hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra bằng cách
đặt ra các chế định và chế tài tạo thành một "sân chơi" lành mạnh và công bằng. Khi
tranh chấp xảy ra sẽ vận dụng một cách linh hoạt các phương thức, biện pháp để
giải quyết, nếu khơng giải quyết kịp thời thì sẽ thiệt hại rất lớn cho các bên. Điều đó
khơng những làm thiệt hại, kìm hãm phát triển nền kinh tế mà cịn tạo ra một khuyết
điểm lớn của mơi trường kinh doanh, các chủ thể sau tranh chấp có thể "quay lưng"
lại với nhau đố kỵ và không tin tưởng lẫn nhau.
Giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại cịn có ý nghĩa cực kỳ
quan trong việc quản lý xã hội bằng pháp luật, vừa tháo gỡ khó khăn cho các doanh
nghiập, vừa góp phần tạo mơi trường pháp lý có kỷ cương. Trong sản xuất kinh
doanh tạo niềm tin, thực hiện cơng bằng và bình đẳng cho các doanh nghiệp trong
nước và ngoài nước. Thực hiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Tính hiệu quả được xét ở hai góc độ hiệu quả chun mơn và hiệu quả kinh
tế. Muốn vậy trong khi tiến hành một hình thức giải quyết tranh chấp nào cũng phải
tuân thủ các nguyên tắc cũng như các quy định của pháp luật đã đề ra
4. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về việc giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại
Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, tuy cách thức tổ chức và tên gọi có
khác nhau nhưng nhìn chung việc giải quyết tranh chấp kinh tế đều thuộc thẩm
quyền của trọng tài kinh tế, một cơ quan nhà nước thuộc hệ thống các cơ quan quản
lý nhà nước. Và hiện nay, khi các nước này chuyển sang nền kinh tế thị trường, thì
họ cũng tiến hành đổi mới cách thức tổ chức giải quyết tranh chấp kinh tế, theo
hướng thành lập tòa án kinh tế và xác định lại tính chất, cách thức tổ chức của trọng

tài kinh tế cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Điều đó cho thấy
chúng ta đang thực hiện đổi mới hệ thống các cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế
theo xu hướng chung của thời đại.
Ở một số quốc gia như Pháp, Đức, Anh có Tịa thương mại chun biệt để
giải quyết các tranh chấp KDTM đối với các chủ thể là thương gia, hoạt động
KDTM vì mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên, tổ chức, thẩm quyền và thủ tục tố tụng
của mỗi nước có sự khác nhau tùy theo hệ thống pháp luật của mỗi nước. Ví dụ ở
nước Đức, Tịa án thương mại được thành lập nhằm xét xử sơ thẩm đối với các
tranh chấp liên quan đến một hành vi thương mại theo quy định của Bộ luật thương
mại Đức. Tòa thương mại nằm trong Tịa án tỉnh hoặc khơng thuộc Tòa án tỉnh mà
ở một nơi cơ quan tư pháp bang xét thấy có yêu cầu. Thành phần xét xử vụ án kinh
tế gồm 1 Thẩm phán chuyên nghiệp làm chủ tọa và 2 Hội thẩm. Các hội thẩm do
phòng thương mại và Công nghiệp bổ nhiệm cho từng nhiệm kỳ 3 năm và có thể
được tái bổ nhiệm. Ở Pháp, Tòa án thương mại được tổ chức độc lập ở cấp tỉnh. Ở
e16


những tỉnh ít có nhu cầu, ít tranh chấp thì khơng có Tịa án thương mại mà Tịa án
dân sự sẽ xét xử luôn các tranh chấp thương mại (nếu có). Thẩm phán của Tịa án
thương mại ở các nước này cũng linh hoạt mềm dẻo và nhanh chóng đáp ứng yêu
cầu của hoạt động kinh doanh.
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì tranh chấp kinh tế (tranh
chấp thương mại) được giải quyết thông qua trọng tài thương mại và Tòa án thương
mại hay Tòa án thường. Trong cách tổ chức và giải quyết tranh chấp thương mại ở
các nước có nền kinh tế phát triển như CHLB Đức, Pháp, Thụy Điển. Nguyên tắc tự
lựa chọn của các bên được đảm bảo, tức là nơi và người đứng ra giải quyết tranh
chấp thương mại phụ thuộc vào sự lựa chọn của các bên.
Ở Singapore, giải quyết các tranh chấp KDTM được thực hiện thông qua cơ
chế trọng tài thuộc về Trung tâm trọng tài quốc tế của Singapore (viết tắt là SIAC –
Singapore International Arbitration Centre). Quá trình giải quyết được tuân theo

Quy tắc trọng tài dựa trên Luật mẫu do Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên
hợp quốc (UNCITRAL) ban hành và được luật pháp Singapore thừa nhận (Luật
trọng tài quốc tế của Singapore). Việc lựa chọn Trung tâm trọng tài quốc tế của
Singapore để giải quyết tranh chấp hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện đối với các bên
liên quan và thường được quy định trong Điều khoản về giải quyết tranh chấp của
Hợp đồng.

e17


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Sự phát triển của nền kinh tế cùng lúc với quá trình hội nhập của đất nước
tao ra mn mặt của xã hội danh nhân. Vì vậy, tranh chấp trong hoạt động KDTM
nói chung và đối với hợp đồng mua bán hàng hố nói riêng thường xun xảy ra là
điều không thể tránh khỏi và đương nhiên việc giải quyết tranh chấp là tất yếu và
cần thiết. Tuy nhiên, việc lựa chọn phương thức nào để giải quyết tranh chấp
KDTM trong lĩnh vực mua bán hàng hoá lại hồn tồn phụ thuộc vào ý chí của các
bên tranh chấp, do các bên tự lựa chọn. Mỗi phương thức giải quyết tranh chấp đều
có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau nên việc lựa chọn phương thức nào là
tối ưu sẽ được các bên cân nhắc và áp dụng. Giải quyết tranh chấp KDTM bằng Tòa
án là con đường có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, giải quyết tranh chấp KDTM bằng
Tòa án phụ thuộc rất nhiều yếu tố, các doanh nghiệp thường ít lựa chọn con đường
này bởi lẽ các quy trình giải quyết của Tịa án tuân thủ chặt chẽ theo khuôn mẫu
được pháp luật quy định, rập khn, cứng nhắc, thời gian, chi phí cao.
Để làm rõ thêm các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại bằng con đường Tòa án cùng với thực trạng pháp lý và thực
tiễn áp dụng pháp luật cụ thể tại đơn vị được tác giả cập nhập thêm ở Chương 2
việc nghiên cứu phương thức giải quyết tranh chấp tranh chấp KDTM bằng Tòa án
nhằm đánh giá những ưu và nhược điểm của phương thức giải quyết tranh chấp
KDTM này góp phần lớn trong việc mở ra cho doanh nghiệp sự lựa chọn mới mẻ

trong con đường tháo gỡ những khúc mắc khi xảy ra tranh chấp. Đồng thời cũng
giúp cho phía cơ quan pháp luật khắc phục những nhược điểm cả về lý luận và thực
tiễn áp dụng.

e18


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TRONG LĨNH VỰC
MUA BÁN HÀNG HOÁ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1. Thực trạng các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hoá
1.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong
lĩnh vực mua bán hàng hố tại Tịa án.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng
hoá bằng tố tụng tại Tịa án là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động
của cơ quan tài phán nhà nước, nhân danh quyền lực của nhà nước để đưa ra phán
quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, kể cả sức mạnh cưỡng chế. Trong quá
trình giải quyết các tranh chấp, Tòa án phải tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định
mà pháp luật đã quy định, cụ thể đó là những nguyên tắc cơ bản, trình tự, thủ tục
nhất định mà pháp luật đã quy định, cụ thể đó là thủ tục khởi kiện; trình tự, thủ tục
giải quyết vụ việc tại Tòa án, thi hành bản án, quyết định của Tòa án; quyền và
nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cũng như của
những cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. đây chính là thủ tục tố tụng tại Tịa
án. Hay nói cách khác, tố tụng Tịa án chính là trình tự, thủ tục mà pháp luật quy
định để giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án.
Nguyên tắc cơ bản trong quá trình giải quyết các tranh chấp KDTM được
quy định trong BLTTDS 2015, cụ thể như sau:
- Nguyên tắc tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều

5 BLTTDS 2015)
Theo đó, đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, u cầu Tịa án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự
khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Trong q trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự
có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách
tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.
Về nguyên tắc các quan hệ kinh tế là những quan hệ được xác lập một cách
tự nguyện, xuất phát từ ý chí và nguyện vọng của các bên mà khơng có bất cứ sự
cưỡng ép, đe dọa nào trong quá trình xác lập, thực hiện. Các quan hệ kinh tế hay
các Hợp đồng kinh tế hoàn toàn do các bên tự thỏa thuận và được nhà nước bảo hộ
và không trái với các quy định của pháp luật cũng như trái các quy phạm đạo đức xã
hội. Chính vì thế, khi phát sinh tranh chấp, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu Nhà
nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; nhưng ngược lại, họ cũng có
quyền từ bỏ quyền lợi của mình đã bị xâm phạm cho dù đã có yêu cầu Nhà nước
bảo vệ. Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự được thể hiện
trong suốt giai đoạn của quá trình tố tụng, họ có thể khởi kiện hoặc khơng khởi
kiện; trong quá trình giải quyết vụ việc, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi
các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái
e19


×