Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Thành ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Trung Kiên

THÀNH NGỮ CĨ TỪ NGỮ THUỘC
TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT
TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Trung Kiên

THÀNH NGỮ CĨ TỪ NGỮ THUỘC
TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT
TRONG TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số

: 8229020
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN


Thành phố Hồ Chí Minh - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác.


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc nhất tới PGS. TS Dư
Ngọc Ngân - người đã gợi mở, tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong q
trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Ngôn ngữ, khoa Ngữ
văn, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giúp đỡ
tơi hồn thành luận văn này.


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................... 8
1.1. Vấn đề thành ngữ trong tiếng Việt .......................................................... 8
1.1.1. Khái niệm thành ngữ ......................................................................... 8
1.1.2. Nguồn gốc của thành ngữ ................................................................. 9
1.1.3. Đặc điểm của thành ngữ ................................................................. 13

1.1.4. Phân biệt thành ngữ với các đơn vị khác ........................................ 19
1.1.5. Phân loại thành ngữ ........................................................................ 21
1.2. Trường nghĩa ......................................................................................... 22
1.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá ................................................ 25
1.4. Thành ngữ chứa các yếu tố thuộc TNTT trong tiếng Việt.................... 27
1.4.1. Trường nghĩa thời tiết ..................................................................... 27
1.4.2. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT .................................................. 29
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 31
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA THÀNH NGỮ CÓ TỪ
NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG
TIẾNG VIỆT ............................................................................. 32
2.1. Cấu trúc ngữ pháp của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong
tiếng Việt ............................................................................................. 32
2.1.1. Cấu trúc ngữ pháp của thành ngữ đối có từ ngữ thuộc TNTT
trong tiếng Việt ............................................................................... 34


2.1.2. Cấu trúc ngữ pháp của thành ngữ so sánh có từ ngữ thuộc
TNTT trong tiếng Việt .................................................................... 39
2.1.3. Cấu trúc ngữ pháp của thành ngữ thường có từ ngữ thuộc
TNTT trong tiếng Việt .................................................................... 42
2.2. Chức năng ngữ pháp của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong
tiếng Việt ............................................................................................. 45
2.2.1. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT làm thành phần phụ trong
cụm từ.............................................................................................. 45
2.2.2. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT làm thành phần nòng cốt
của câu............................................................................................. 48
2.2.3. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT làm thành phần phụ của câu.... 50
2.2.4. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT làm thành phần biệt lập của
câu ................................................................................................... 52

2.3. Vị trí của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong câu ......................... 53
2.3.1. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT đứng đầu câu ........................... 53
2.3.2. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT đứng giữa câu .......................... 54
2.3.3. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT đứng cuối câu .......................... 54
2.4. Khả năng kết hợp của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong câu ..... 56
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 59
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA THÀNH NGỮ CÓ TỪ
NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG
TIẾNG VIỆT ............................................................................. 60
3.1. Ý nghĩa của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT ..................................... 60
3.1.1. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa chỉ các hiện tượng thời tiết.............. 60
3.1.2. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những khó khăn
trong cuộc sống ................................................................................... 63
3.1.3. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những nguy
hiểm- thách thức.................................................................................. 65


3.1.4. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho cuộc sống lam lũ
và những thân phận nổi trôi ................................................................ 67
3.1.5. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những cơ hộithuận lợi............................................................................................... 69
3.1.6. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những vận xui ......... 71
3.1.7. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng chỉ trạng thái tâm lý
của con người ...................................................................................... 71
3.1.8. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những hành động
của con người ...................................................................................... 75
3.1.9. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những hành vi
ứng xử của con người.......................................................................... 76
3.1.10. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho tính cách con
người ................................................................................................... 78
3.1.11. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những tình thế

trong cuộc sống ................................................................................... 80
3.1.12. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho tốc độ .................... 81
3.1.13. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho sức mạnh ............... 83
3.1.14. Nhóm thành ngữ biểu thị những ý nghĩa biểu trưng khác ............... 84
3.2. Một vài nét văn hóa Việt Nam qua thành ngữ có từ ngữ thuộc
TNTT................................................................................................... 85
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 89
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CDT

: Cụm danh từ

CĐT

: Cụm động từ

CN

: Chủ ngữ

CTT

: Cụm tính từ


DT

: Danh từ

ĐT

: Động từ

STT

: Số thứ tự

TT

: Tính từ

TNTT

: Trường nghĩa thời tiết

TTP

: Thành phần phụ

VN

: Vị ngữ


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong tiếng Việt ....................... 33
Bảng 2.2. Thành ngữ đối có từ ngữ thuộc TNTT chia theo số lượng âm
tiết.................................................................................................... 35
Bảng 2.3. Thành ngữ so sánh có chứa từ ngữ thuộc TNTT chia theo dạng
thức {t} như B ................................................................................. 42
Bảng 3.1. Số lượng thành ngữ theo ý nghĩa biểu trưng .................................. 84


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống một ngôn ngữ, thành ngữ đồng hành cùng với từ và các
đơn vị ngôn ngữ khác tạo thành sự đa dạng cũng như đặc trưng riêng cho ngơn
ngữ đó. Có thể nói, thành ngữ là một bộ phận độc đáo của mỗi ngơn ngữ, bởi
nó có đặc điểm về cấu tạo và ngữ nghĩa, đồng thời phản ánh đặc trưng văn hóa
dân tộc của mỗi ngơn ngữ, trong đó có những giá trị vật chất và giá trị tinh
thần của dân tộc. Chính vì lý do này mà thành ngữ ln thu hút được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Khá nhiều bộ phận thành ngữ, vấn đề trong
thành ngữ đã được nghiên cứu một cách sâu rộng, chẳng hạn như: thành ngữ
chỉ tính cách con người, thành ngữ chỉ tâm lý tình cảm, thành ngữ chứa các từ
chỉ động vật, thực vật, màu sắc, bộ phận cơ thể con người, hàm ý khen chê
trong thành ngữ...Tuy nhiên, qua quá trình tìm hiểu, chúng tơi nhận thấy trong
thành ngữ có một số lượng lớn thành ngữ có những từ ngữ liên quan đến thời
tiết, mà vấn đề này lại chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về nó. Các thành
ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết chỉ thấy xuất hiện xen kẽ, lác đác
trong các bài viết về tính cách con người, về hàm ý khen chê, chứ chưa được
xem xét, tìm hiểu một cách có hệ thống trong mối tương quan giữa các thành
ngữ chứa các từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết. Ngơn ngữ (trong đó có thành
ngữ) ln phát triển cùng xã hội, gắn với cuộc sống của con người, đặc biệt

gắn liền với môi trường sinh sống, một trong những yếu tố của môi trường
sống đó chính là thời tiết. Và chắc chắn rằng, ông cha ta đã sử dụng các từ
thuộc trường nghĩa thời tiết để diễn đạt rất nhiều ý nghĩa biểu trưng khác nhau.
Đây là một vấn đề vô cùng thú vị, thơi thúc chúng tơi cố gắng tìm hiểu về bộ
phận thành ngữ chứa các từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết, để từ đó thấy
được đặc trưng văn hóa dân tộc Việt Nam được thể hiện như thế nào qua bộ
phận thành ngữ này.


2

2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt
Khi tìm hiểu về tiếng Việt, các nhà nghiên cứu cũng đã đặt vấn đề tìm
hiểu về thành ngữ. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, thành ngữ thường được
đánh đồng với tục ngữ mà khơng có một ranh giới để phân biệt chúng.
Đầu thế kỉ XX, Phạm Quỳnh có bản báo cáo mang tên “Tục ngữ ca dao”
đăng trên Tạp chí Nam Phong (1921). Trong bài viết này, ông quan niệm tất cả
các cụm từ cố định đều là tục ngữ.
Cơng trình “Tục- ngữ phong- dao” của Nguyễn Văn Ngọc (1928) được
xem là hợp tuyển thành ngữ tiếng Việt đầu tiên. Cơng trình gồm 2 tập, ghi
chép 6.500 câu tục ngữ, 850 bài ca dao được sưu tập trong dân gian và sách cổ.
Tác giả cũng chưa có sự phân biệt giữa thành ngữ và tục ngữ, trong 6500 câu
tục ngữ mà tác giả sưu tầm có rất nhiều câu là thành ngữ.
Tuy nhiên, những cơng trình kể trên dù có bước đầu đề cập đến vấn đề
thành ngữ nhưng có thể nói nghiên cứu về thành ngữ ở thời điểm đó vẫn chưa
được quan tâm. Nó còn là một “khoảng đất trống” trên lãnh địa của Ngôn ngữ
học.
Đến giữa thế kỉ XX, tác giả Dương Quảng Hàm trong sách “Việt Nam văn
học sử yếu” (1943) đã tách khái niệm thành ngữ ra khỏi tục ngữ. Cuốn sách

của học giả Dương Quảng Hàm được xem là “dấu mốc” quan trọng trong
nghiên cứu thành ngữ. Từ đây, thành ngữ bắt đầu được xem xét như một đối
tượng riêng rẽ, độc lập trên các bình diện cấu tạo, ý nghĩa và cú pháp.
Vào những năm 70 của thế kỉ XX, thành ngữ trở thành một đối tượng
nghiên cứu khoa học thực sự. Cũng từ giai đoạn này, các nghiên cứu về thành
ngữ gặt hái được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, đó mới chỉ dừng lại ở việc: xác
định khối lượng của thành ngữ, phân xuất các thành ngữ trong tiếng Việt,
nghiên cứu các thuộc tính của thành ngữ và cách thức khu biệt chúng với
những đơn vị khác của ngôn ngữ như: ngữ định danh, quán ngữ, hoặc với tục


3

ngữ. Các bài viết này chủ yếu đăng trên tạp chí ngơn ngữ. Các cơng trình
nghiên cứu về thành ngữ với cách tiếp cận đa dạng từ nhiều góc nhìn của ngữ
âm học, từ vựng học và cú pháp học với các tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Văn
Tu (1968); Nguyễn Văn Mệnh (1986); Cù Đình Tú (1973); Nguyễn Thiện
Giáp (1975; 2003); Hồ Lê (1976); Hoàng Văn Hành (1973, 1979); Trương
Đông San (1985); ...
Nhiều khuynh hướng nghiên cứu thành ngữ đã xuất hiện. Những tác giả
có thiên hướng nghiên cứu thành ngữ ở phương diện nguồn gốc, sự phát triển
gắn với các bình diện văn hóa là: Bùi Khắc Việt (1978); Đỗ Hữu Châu (1999),
Nguyễn Đức Dân (1986); Nguyễn Văn Khang (2005); …
Các tác giả như Trương Đông San (1985), Hồng Văn Hành (1979) thì đi
sâu vào nghiên cứu một tiểu loại nhỏ của thành ngữ tiếng Việt là thành ngữ so
sánh. Tác giả Nguyễn Văn Hằng (1999) với công trình “ Thành ngữ bốn yếu tố
trong tiếng Việt hiện đại” đã góp một tiếng nói quan trọng vào việc nghiên cứu
thành ngữ đối chiếu. Các tác giả như Phan Xuân Thành, Trịnh Cẩm Lan, … thì
đi vào nghiên cứu về cấu trúc ngữ nghĩa và giá trị biểu trưng của thành ngữ.
Những năm gần đây, các bài viết trên tạp chí chuyên ngành, các luận văn thạc

sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu về thành ngữ có một số lượng khơng nhỏ. Đó là
những nghiên cứu đa dạng về loại hình, phong phú về nội dung và có chiều sâu
về văn hóa..
2.2. Tình hình nghiên cứu về thành ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời
tiết
Vấn đề thời tiết trong thành ngữ đã được Nguyễn Hồ Phương Chi bàn đến
trong bài viết “Thời tiết trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Anh” đăng trên tạp chí
“Ngơn ngữ và đời sống” năm 2011. Bài viết trình bày một số thành ngữ, tục
ngữ có yếu tố thời tiết thơng dụng mà người học tiếng Anh thường gặp và so
sánh với một số thành ngữ, tục ngữ tương tự trong tiếng Việt.


4

Tuy nhiên thành ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết trong tiếng
Việt lại là một đề tài chưa nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thành ngữ tiếng Việt có số lượng lớn lên đến mấy nghìn đơn vị. Khơng
những thế nó cịn đa dạng về đề tài và chủ đề. Đứng trước kho tàng thành ngữ
rộng lớn, chúng tôi xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là
nhóm thành ngữ có các từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết. Đó là: trường
nghĩa chỉ các hiện tượng thời tiết: gió (phong), mưa (vũ), nắng, sương, sấm,
sét, thiên lôi, chớp, tuyết, băng, thủy triều (triều), bão, giông/dông, nạn hồng
thủy, lũ, trường nghĩa chỉ các yếu tố thời tiết trên biển: sóng, biển (bể); trường
nghĩa chỉ các yếu tố liên quan đến bầu trời: trăng, mây, sao, trời; trường nghĩa
chỉ nhiệt độ khơng khí: nóng, mát, lạnh, giá, rét, buốt
Tư liệu chính phục vụ cho việc nghiên cứu là nhóm thành ngữ có các từ
ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết được thống kê trong các tài liệu sau:
Từ điển thành ngữ tiếng Việt phổ thông, Nguyễn Như Ý (chủ biên),
Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002

Từ điển thành ngữ học sinh, Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan
Xuân Thành, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009.
Thành ngữ tiếng Việt, Nguyễn Lực, Lương Văn Đang, Nxb Khoa học xã
hội, 2009.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tơi xác định mục đích của luận văn là chỉ được ra một số đặc điểm
về ngữ pháp, ngữ nghĩa của nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời
tiết trong tiếng Việt. Từ đó luận văn cố gắng liên hệ, chỉ ra một vài nhận xét và
kiến giải về mối quan hệ của nhóm thành ngữ này với những đặc trưng trong
tư duy và văn hóa của người Việt.
Để đạt được mục đích đó, luận văn sẽ tập trung giải quyết những nhiệm vụ
sau đây:


5

- Thống kê những thành ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết trong
tiếng Việt.
- Xác định được cấu tạo, chức năng ngữ pháp của thành ngữ có từ ngữ
thuộc trường nghĩa thời tiết.
- Xác định được các loại ý nghĩa của thành ngữ có từ ngữ thuộc trường
nghĩa thời tiết, trong đó chú ý đến ý nghĩa biểu trưng.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê: Người viết tìm ra những thành ngữ có chứa từ
ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết trong tiếng Việt, sau đó thống kê số lượng
thành ngữ có từ ngữ chỉ các hiện tượng thời tiết, từ ngữ chỉ các yếu tố thời tiết
trên biển, từ ngữ chỉ các yếu tố liên quan đến bầu trời, từ ngữ chỉ nhiệt độ
khơng khí. Từ ngữ liệu đó, người viết thống kê và xác định tần số xuất hiện
của các từ ngữ chỉ thời tiết trong trong thành ngữ.
- Phương pháp miêu tả: Sau khi thống kê, chúng tôi tiến hành miêu tả các

trường hợp điển hình về vị trí, cách kết hợp, chức năng ngữ pháp của các thành
ngữ trong phạm vi nghiên cứu của luận văn.
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: Chúng tơi tiến hành phân tích ngữ
nghĩa chủ yếu là nghĩa biểu trưng của từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết trong
thành ngữ.
- Phương pháp hệ thống: Khi tập hợp các từ ngữ thuộc trường nghĩa thời
tiết, người viết sắp xếp chúng theo những tiêu chí nhất định về ý nghĩa biểu
trưng và khả năng kết hợp.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn cung cấp thêm tư liệu về thành ngữ tiếng Việt, đặc biệt là
thành ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết.
- Luận văn góp phần làm rõ đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa của thành ngữ,
đặc biệt là nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT.


6

- Qua phần phân tích ngữ nghĩa, luận văn có thể trình bày một vài kiến
giải về mối quan hệ giữa nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT với văn hóa
Việt.
7. Cấu trúc luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Trong chương này, chúng tôi tập trung trình bày những vấn đề lý thuyết về
thành ngữ tiếng Việt, cụ thể là khái niệm thành ngữ, nguồn gốc thành ngữ, đặc
điểm thành ngữ (đặc điểm về cấu tạo và ngữ nghĩa), phân loại thành ngữ, phân
biệt thành ngữ với tục ngữ và với các đơn vị ngôn ngữ khác (như quán ngữ,
ngữ định danh). Chúng tôi cũng tập trung làm rõ lý thuyết trường nghĩa, chỉ ra
những trường nghĩa thời tiết chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu. Cuối cùng,

chúng tơi cũng tìm hiểu mối quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hóa, làm cơ sở cho
việc nghiên cứu mối quan hệ giữa thành ngữ có các từ ngữ thuộc TNTT trong
tiếng Việt và văn hóa của người Việt Nam.
Chương 2: Đặc điểm ngữ pháp của thành ngữ có từ ngữ thuộc trường
nghĩa thời tiết trong tiếng Việt
Trong chương 2 này, chúng tôi sẽ tiến hành thống kê, phân loại, miêu tả
các thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT về mặt cấu trúc cú pháp: cấu trúc cú
pháp của thành ngữ đối có các từ ngữ thuộc TNTT, cấu trúc cú pháp của
thành ngữ so sánh có các từ ngư thuộc TNTT, cấu trúc cú pháp của thành ngữ
thường (là thành ngữ mà không phải là thành ngữ đối cũng không phải là thành
ngữ so sánh) có các từ ngữ thuộc TNTT.
Chương 3: Đặc điểm ngữ nghĩa của thành ngữ có từ ngữ thuộc trường
nghĩa thời tiết trong tiếng Việt
Trong chương 3, chúng tơi sẽ tìm hiểu nghĩa biểu trưng của thành ngữ có
từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết trong tiếng Việt. Ngoài ra, chúng tôi sẽ cố


7

gắng so sánh đối chiếu thành ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết tiếng
Việt với đơn vị tương đương trong một vài ngơn ngữ khác, để từ đó làm nổi
bật đặc trưng văn hóa của người Việt.


8

Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Vấn đề thành ngữ trong tiếng Việt
1.1.1. Khái niệm thành ngữ
Thành ngữ là đơn vị ngôn ngữ được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm

hiểu. Cũng vì thế mà có nhiều quan niệm khác nhau về thành ngữ. Các quan
niệm về thành ngữ được cụ thể dần cùng với lịch sử nghiên cứu vấn đề thành
ngữ trong tiếng Việt. Ban đầu, chưa có một quan niệm cụ thể cho thành ngữ vì
cịn có sự đồng nhất giữa thành ngữ với các đơn vị ngôn ngữ khác như tục ngữ,
quán ngữ … Từ những năm bốn mươi của thế kỉ XX trở lại đây, khái niệm
thành ngữ mới được trình bày độc lập để phân biệt với các đơn vị ngôn ngữ
khác. Sau đây là một số quan niệm về thành ngữ của các nhà nghiên cứu:
-

“Một câu tục ngữ tự nó phải có ý nghĩa đầy đủ, hoặc khuyên răn và chỉ

bảo điều gì; nghĩa là thành ngữ chỉ là lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà diễn
đạt một ý nghĩa gì hoặc tả một trạng thái gì cho có màu mè.” (Dương Quảng
Hàm, 2005).
- “Thành ngữ là loại đơn vị có sẵn, chúng là những ngữ có kết cấu chặt
chẽ và ổn định, mang một ý nghĩa nhất định, có chức năng định danh và được
tái hiện trong giao tế.” (Nguyễn Văn Mệnh, 1986).
-

“Thành ngữ là cụm từ cố định mà các từ trong đó đã mất tính độc lập

đến một trình độ cao về nghĩa, kết hợp làm thành một khối vững chắc, hồn
chỉnh. Nghĩa của chúng khơng phải do nghĩa của từng thành tố (từ) tạo ra.
Những thành ngữ này cũng có tính hình tượng hoặc cũng có thể khơng có.
Nghĩa của chúng đã khác nghĩa của những từ nhưng cũng có thể cắt nghĩa
bằng từ nguyên học.” (Nguyễn Văn Tu, 1968).
-

“Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định, bền vững về hình thức - cấu


trúc, hồn chỉnh, bóng bẩy, về ý nghĩa, được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp
hàng ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ.” (Hoàng Văn Hành, 2004).


9

“Thành ngữ là một tổ hợp từ cố định về cấu trúc, có nghĩa bóng, được

-

sử dụng để miêu tả những hình ảnh, những hiện tượng, tính cách hay quan
hệ.” (Hồ Lê, 1976).
“Thành ngữ là đơn vị ổn định về hình thức, phản ánh lối nói, lối suy

-

nghĩ đặc thù của mỗi dân tộc. Thành ngữ phản ánh các khái niệm và các hiện
tượng.” (Nguyễn Đức Dân, 1986).
“Thành ngữ là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc ý nghĩa. Nghĩa

-

của chúng có tính hình tượng và gợi cảm.” (Mai Ngọc Chừ, 2007).
“Thành ngữ là cụm từ hay ngữ cố định có tính ngun khối về ngữ

-

nghĩa, tạo thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa chung khác tổng số ý
nghĩa của các thành tố cấu thành nó, tức là khơng có nghĩa đen và hoạt động
như một từ riêng biệt ở trong câu.” (Nguyễn Như Ý, 1998).

Có thể nói, mỗi nhà nghiên cứu đều có một cách kiến giải riêng về thành
ngữ tiếng Việt. Các khái niệm được đưa ra có nhiều điểm tương đồng nhưng
cũng có cả những điểm khác biệt. Đây cũng là một khó khăn để đi đến việc tìm
ra một khái niệm thống nhất cho thành ngữ tiếng Việt. Tiếp thu các quan niệm
của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi đưa ra một khái niệm chung về
thành ngữ tiếng Việt như sau: Thành ngữ tiếng Việt là những ngữ cố định có
cấu trúc tương đối ổn định, bền vững, có ngữ nghĩa trọn vẹn và mang tính biểu
trưng.
1.1.2. Nguồn gốc của thành ngữ
Thành ngữ cũng giống như các đơn vị ngôn ngữ khác, chúng có q trình
hình thành và phát triển cùng với lịch sử phát triển ngôn ngữ của mỗi dân tộc.
Vấn đề đi tìm nguồn gốc của thành ngữ là một vấn đề khá nan giải và phức tạp.
Vì nguồn gốc của thành ngữ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Xét
một cách tổng quát, thành ngữ được hình thành từ các nguồn cơ bản sau đây:
a. Thành ngữ được hình thành từ đời sống lao động
Việt Nam là một đất nước nông nghiệp, hoạt động lao động chủ yếu của


10

người Việt là cày cấy, trồng trọt, chăn nuôi. Khi xưa, người nơng dân làm việc
dựa vào sức mình là chính, khơng có các loại máy móc, phương tiện hiện đại
hỗ trợ như ngày nay, vì vậy họ phải làm việc rất vất vả, cực nhọc. Đời sống lao
động vất vả đã ăn sâu vào tiềm thức của người nông dân. Nhiều sự kiện thuộc
đời sống lao động sản xuất hay những công việc mưu sinh đã trở thành chất
liệu cấu tạo nên nhiều thành ngữ tiếng Việt. Đó là hình ảnh những người nơng
dân chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, thức khuya dậy sớm,
cháy mặt lấm lưng, dầm sương dãi nắng, đâm sấp rập ngửa, bn thúng bán
mẹt, v.v... Tâm lí lo lắng, sắp đặt cơng việc sao cho hợp lí được phản ánh trong
thành ngữ liệu bị đo chuồng. Cái nhìn thiển cận, lối làm ăn manh mún, thiếu

tính tốn là cơ sở ra đời thành ngữ tham bát bỏ mâm. Đời sống đói kém của
người nơng dân giữa hai vụ lúa được phản ánh trong thành ngữ tháng ba ngày
tám…
Một số thành ngữ tiêu biểu: liệu cơm gắp mắm, trơng gió bỏ buồm, bờ xôi
ruộng mật, cày sâu cuốc bẫm, chăn trâu cắt cỏ, chiêm khê mùa thối, cưa đứt
đục suốt, dãi gió dầm sương, đắp đập be bờ, đầu ghềnh cuối bãi, đầu gio mặt
muội, êm chèo mát mái…
b. Thành ngữ được hình thành từ đời sống sinh hoạt hàng ngày
Trong đời sống hàng ngày, đối với người Việt Nam, ăn uống được coi
là vấn đề quan trọng hàng đầu. Ăn không chỉ đơn thuần là thỏa mãn nhu cầu
của cái đói mà cịn thể hiện rõ đạo lí, triết lí sống của con người Việt Nam.
Điều này được thể hiện rất rõ trong thành ngữ: chém to kho mặn, thái to bung
dừ, đầu trôi môi mè, chuối sau cau trước, say như điếu đổ, cơm gà cá gỏi, cơm
chiêm mắm mặn, cơm hẩm cà thiu, cơm sung cháo dền, cơm tẻ mẹ ruột, tương
cà mắm muối, da bánh mật, má bánh đúc, bánh chưng ra góc, bánh đúc bày
sàng, trơn như đổ mỡ...
Việt Nam là một nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa nóng và mùa
lạnh được phân biệt rõ rệt nên chuyện ăn mặc của người Việt cũng rất được coi


11

trọng. Với những người nông dân chân lấm tay bùn thì ăn mặc xuềnh
xồng: áo vải quần nâu, áo thơ giày cỏ, thậm chí áo mảnh quần manh, quần
manh áo vá, váy vận yếm mang, cởi trần đóng khố, lưng đen khố bện... Với
những người giàu có thì áo dài khăn đóng, áo dài khăn lượt, áo the khăn xếp,
quần chùng áo dài, quần chân áo chít, quần hồ áo cánh, khăn đóng áo chùng,
khăn thâm áo vải... Và với những cơ thiếu nữ thì lại phải áo lụa quần hồng, mớ
ba mớ bảy,...
c. Thành ngữ hình thành từ đời sống tâm linh (tập tục, tín ngưỡng)

Là một dân tộc thiên về việc trọng tình, trọng nghĩa, người Việt Nam nói
chung đặc biệt coi trọng việc tang ma, thờ cúng tổ tiên. Một số thành ngữ tiêu
biểu: cha đưa mẹ đón; cha gậy tre, mẹ gậy vơng; trẻ làm ma, già làm hội;chôn
sấp, liệm ngửa; giữ như giữ mả tổ, rước voi về giày mả tổ, đào mồ cuốc mả,
chửi ủng mồ ủng mả, mồ yên mả đẹp, vén áo tay sơ, đốt nhà táng giấy…
Bên cạnh đó, cịn có những thành ngữ được ra đời từ quan niệm tín
ngưỡng, tôn giáo của người Việt: ăn chay niệm Phật; ăn mày cửa Phật; hiền
như Bụt; của ít lịng nhiều; ở hiền gặp lành; gieo gió gặt bão; Phật nhà chẳng
cầu đi cầu Thích Ca ngồi đường… Để chỉ những kẻ giả dối, cha ơng ta dùng
cách nói miệng nam mơ, bụng một bồ dao găm hay miệng Phật tâm xà; chỉ thói
ích kỉ, của người khác thì phung phí, của mình thì chặt chẽ, người Việt dùng
thành ngữ của người Bồ tát, của mình lạt buộc …
Trong thế giới quan tôn giáo của người Việt, thuyết Vật linh luận cũng
rất được coi trọng. Người ta tin rằng, trong tất cả các vật (hữu tri, vơ tri) đều có
sự trú ngụ của những linh hồn. Linh hồn ngự trị trong cây (thần cây đa, ma cây
gạo), trong đá, trong các hiện tượng tự nhiên như mưa, gió, sấm, chớp (ơng
Đùng, bà Đoàng) và đặc biệt là ở con người. Người ta tin rằng con người có
linh hồn. Có lẽ đây là cơ sở để cho ra đời một loạt các thành ngữ như: hồn vía
lên mây, hồn lìa khỏi xác, ba hồn chín vía, ba hồn bảy vía, hết hồn hết vía, hồn
xiêu phách lạc, thần hồn nát thần tính, táng đởm kinh hồn, hồn về chín suối,


12

hồn điên phách đảo, kinh hồn mất vía, hú hồn hú vía, bay hồn bạt vía, sợ mất
vía...
d. Thành ngữ có cơ sở hình thành từ văn học
Truyện cổ tích dân gian, truyện ngụ ngôn, truyện cười Việt Nam là cơ sở
hình thành của nhiều thành ngữ tiếng Việt: con Rồng cháu Tiên, con Lạc cháu
Hồng, đẽo cày giữa đường, nói dối như Cuội, vắt cổ chày ra nước oan Thị

Kính, cơng dã tràng, há miệng chờ sung, rồng đến nhà tơm, thầy bói xem voi,
phù thủy đền gà, dốt có đi/ chi, đồ Lí Thơng, nói nhăng nói cuội, nói dối
như cuội, con rồng cháu tiên, trời đánh thánh vật, gan cóc tía...
Bên cạnh đó, những nhân vật điển hình trong tác phẩm văn học cũng là
cơ sở cho sự ra đời của nhiều thành ngữ Việt: máu ghen Hoạn Thư, đồ Sở
Khanh, xấu như Thị Nở…
e. Thành ngữ được hình thành từ thế giới động vật
Vì Việt Nam thuộc vùng khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm mưa nhiều nên nước
ta là môi trường sinh sống của rất nhiều loài động vật. Đặc biệt, những động
vật gần gũi, quen thuộc đối với con người như: chim, cá, rắn, rết, sâu bọ, các
con vật ni như chó, mèo, trâu, ngựa, lợn, gà, vịt... đều được phản ánh trong
lời ăn tiếng nói hàng ngày, trở thành nguồn chất liệu phong phú để tạo nên
nhiều thành ngữ: mất hút con mẹ hàng lươn, chuồn chuồn đạp nước, đười ươi
giữ ống, nước mắt cá sấu, te tái như gà mái nhảy ổ, cổ ngẳng như cổ cị, giãy
nảy như đỉa phải vơi, xác như vờ, xơ như nhộng, rối như gà mắc đẻ, giấu như
mèo giấu cứt, chó cái giữ con, dai như đỉa, mèo già hóa cáo, khỏe như voi …
f. Thành ngữ được hình thành từ thế giới thực vật
Bên cạnh động vật, các lồi thực vật với những đặc tính điển hình của
chúng cũng trở thành chất liệu để tạo nên thành ngữ: đen như củ súng, đen như
củ tam thất, xanh như tàu lá, tươi như hoa, đỏ như gấc, đỏ như hoa vông, đỏ
như quả bồ quân, trắng như ngó cần, trắng như bơng, rối như canh hẹ, rách
như xơ mướp, rẻ như bèo, chát như sung...


13

g. Thành ngữ có cơ sở hình thành từ các hiện tượng tự nhiên
Việt Nam vốn là một đất nước nông nghiệp, nền sản xuất thiên về trồng
trọt, canh tác. Vì vậy yếu tố thiên nhiên có tác động to lớn đối với hoạt động
sản xuất, sinh hoạt của con người Việt Nam: ào ào như thác lũ, cao như núi,

dâng lên như nước thủy triều, như rồng gặp mây, tan như mây, như mặt trăng
mặt trời, như sao hôm sao mai, vắng trăng có sao, nước chảy hoa trơi, nước
chảy chỗ trũng, nước sâu sào ngắn, sóng cả gió to, sóng n biển lặng, sơng
có khúc, người có lúc, thay ngựa giữa dòng, nước nổi bèo nổi…
h. Nguồn gốc từ việc vay mượn của tiếng nước ngoài
Một bộ phận khơng nhỏ thành ngữ tiếng Việt có nguồn gốc ngoại lai.
Điều này đã phản ánh quá trình tiếp xúc, tiếp nhận một cách mềm mại và linh
hoạt của tiếng Việt nói chung và thành ngữ tiếng Việt nói riêng đối với những
ảnh hưởng từ bên ngồi đối với ngơn ngữ của dân tộc.
Theo số liệu của Nguyễn Thị Tân (2003) trong bài viết “Nhận diện thành
ngữ gốc Hán trong tiếng Việt” thành ngữ tiếng Việt có tới 2714 đơn vị thành
ngữ gốc Hán. Con số này cho thấy thành ngữ gốc Hán chiếm khoảng gần 30%
tổng số thành ngữ tiếng Việt và chiếm khoảng 98% thành ngữ có gốc ngoại lai.
Một số thành ngữ tiêu biểu: xuất khẩu thành chương, chúng khẩu đồng từ,
đồng tâm hiệp lực, xuất đầu lộ diện, khẩu Phật tâm xà…
1.1.3. Đặc điểm của thành ngữ
Thành ngữ với tư cách là đơn vị tương đương với từ, bản thân nó mang
những đặc điểm riêng về cấu tạo cũng như về ngữ nghĩa. Cụ thể như sau:
a. Đặc điểm về cấu tạo
a¹/ Đặc điểm về mặt ngữ âm:
- Trong nhiều thành ngữ thanh điệu hài hòa theo luật bằng – trắc, và trầm
– bổng, ví dụ: một vốn, bốn lời (một vốn: cao – thấp; trắc – trắc / bốn lời: cao
– thấp ; trắc – bằng; và giữa một - bốn: trầm-bổng, và giữa vốn- lời là bổng trầm).


14

- Nhiều thành ngữ cũng được cấu tạo theo luật hợp vần, một vốn, bốn lời;
được voi đòi tiên ; dửng dưng như bánh chưng ngày tết; ...
a²/ Đặc điểm về mặt ngữ pháp: Ta thấy có hai kiểu cấu tạo thành ngữ:

- Thành ngữ có cấu trúc so sánh:
Trong thành ngữ so sánh hầu hết là so sánh ngang. Rất hiếm khi có so
sánh hơn, chỉ một vài thành ngữ thuộc kiểu này, ví dụ: cửu đại hơn ngoại
nhân, hay một giọt máu đào hơn ao nước lã. Các từ ngữ dùng để so sánh chủ
yếu là như, đôi khi là bằng ( ví dụ: hai đấm cũng bằng một đạp; hai thưng
cũng bằng một đấu; bé bằng con kiến; cưới khơng bằng lại mặt;...), hoặc tầy
(tày) (ví dụ: Gương tầy liếp, Tội tày đình).
Khác với cấu trúc so sánh bình thường, trong thành ngữ so sánh có thể
vắng vế A, nhưng người sử dụng và tiếp nhận vẫn hiểu đúng A, ví dụ: (giống
nhau) như hai giọt nước, (chắc) như đinh đóng cột, (vui) như nở từng khúc
ruột; ... Vế A thường là những từ ngữ biểu thị thuộc tính, đặc trưng, hoặc trạng
thái hành động của sự vật.
Có khi A là một thành phần của câu nói, và là phần đề. Còn thành ngữ là vế
B, làm phần thuyết trong câu nói. Như vậy vế A có tính chất tùy nghi. Song, theo
chúng tơi, nó vẫn bị khống chế, bị chi phối bởi nghĩa của B (tức của thành ngữ).
Ví dụ:
Họ
Tình qn dân
... khắng khít
... lúc nào cũng cần có nhau
Ơng ấy
... phất lên
Nhà ấy phất lên
Hắn
Thằng cha ấy
Cả một lũ
Bọn chúng
... khác nào

như cá với nước


như diều gặp gió

như rắn mất đầu


15

Vế B ln ln hiện diện, có thể là một từ , ví dụ: nhanh như sóc, nhẹ như
bấc, ..., có thể là một cụm từ , ví dụ: nóng như lửa đốt, nói như đấm vào tai,
mắng như tát nước vào mặt, thì thụt như chuột ngày, nhớ như chơn vào ruột,
tối như cửa địa ngục, thin thít như thịt nấu đơng, ..., có thể là một kết cấu
chủ-vị, ví dụ: te tái như gà mái mắc đẻ, lừ đừ như ông từ vào đền, vênh váo
như khố rợ phải lấm, ú ú cạc cạc như vịt nghe sấm, như rựa chém xuống đá,
như Từ Hải chết đứng, như chim sổ lồng, ngáy như bò rống, lộp bộp như gà
mổ mo, lúng túng như chó ăn vụng bột, lầm rầm như thầy bói nhẩm quẻ, lanh
chanh như hành khơng muối, khư khư như ông từ giữ oản,...
- Thành ngữ khơng có cấu trúc so sánh. Ở kiểu cấu tạo này, ta cũng thấy
có hai loại nhỏ:
+/ Thành ngữ được cấu tạo theo qui tắc đối và điệp giữa các thành tố,
kiểu như: trên đe dưới búa, lừa thầy phản bạn, một nắng hai sương, hứa
hươu hứa vượn, ba cọc ba đồng... Các thành ngữ kiểu này có nghĩa biểu trưng
hóa nhờ phép ẩn dụ. Hồng Văn Hành gọi kiểu này là thành ngữ ẩn dụ hóa đối
xứng.
+/ Thành ngữ được tạo nên nhờ phương thức ghép từ thông thường, ví
dụ: vạch áo cho người xem lưng, theo voi hít bã mía, theo đóm ăn tàn... Loại
thành ngữ này khơng cấu tạo theo kiểu so sánh, cũng không dùng phép đối ứng
để ghép nối các thành tố; mà nó cố định hóa, hay đúng hơn là thành ngữ hóa
một đoạn tác ngôn, vốn được cấu tạo trên cơ sở luật kết hợp bình thường trong
tiếng Việt, sử dụng phép ẩn dụ hóa để tạo nghĩa biểu trưng . Hồng Văn Hành

gọi loại này là thành ngữ ẩn dụ phi đối xứng.
b) Đặc điểm về ngữ nghĩa
Khi nghiên cứu về đặc điểm ngữ nghĩa của thành ngữ, các nhà Việt ngữ
học đã chỉ ra thành ngữ mang tính cụ thể, tính hình tượng, tính dân tộc, tính
truyền cảm, và đặc biệt các nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh về tính biểu trưng
của thành ngữ.


16

- Thành ngữ có tính cụ thể: Các hình ảnh được thành ngữ sử dụng rất cụ
thể. Ví dụ: trứng để đầu đẳng, thành ngữ này miêu tả rất rõ ràng vị trí của quả
trứng là ở đầu gậy. Thành ngữ đèn treo trước gió miêu tả rất rõ ràng vị trí của
cây đèn được treo ở chỗ có gió thổi. Thành ngữ ngàn cân treo trên đầu sợi tóc
miêu tả rất rõ vị trí của vật nặng ngàn cân được treo ở đầu sợi tóc, sự đối lập
cực điểm về lượng và lực ở đây rất rõ ràng.
- Thành ngữ có tính hình tượng: Những hình ảnh cụ thể mà thành ngữ
miêu tả bao giờ cũng có một đích hướng tới để đại diện cho một đặc trưng, một
trạng thái của sự vật khác, hay của sự kiện khác. Nghĩa là nó nhằm đến việc
biểu thị một khái niệm khác. Ví dụ hình ảnh vật ngàn cân được treo ở đầu sợi
tóc khơng nhằm miêu tả vật ấy nặng chính xác là bao nhiêu, cịn sợi tóc dài
hay ngắn, dày hay mảnh, mà nhằm biểu thị tính chất nguy hiểm ở mức độ rất
cao của hiện tượng hay sự kiện nào đó.
- Thành ngữ có tính dân tộc: ngơn ngữ được xem là linh hồn của dân tộc
mà thành ngữ lại là một bộ phận của ngơn ngữ. Vì thế, cố nhiên thành ngữ
cũng mang tính dân tộc. Hơn nữa, thành ngữ còn là sự chọn lựa các từ ngữ
trong vốn từ vựng của dân tộc để xây dựng thành một kết cấu bền vững. Cho
nên, nó chứa đựng trong mình là trí tuệ, văn hóa và những đặc điểm riêng của
từng cộng đồng dân tộc. Dân tộc Việt Nam vốn là những cư dân nông nghiệp.
Họ sống gắn bó với tự nhiên. Coi các yếu tố của tự nhiên từ động thực vật đến

các đồ vật trong cuộc sống thường ngày như những vật gần gũi, thân thuộc.
Điều này đã “hắt bóng” vào thành ngữ. Trong thành ngữ ta tìm thấy những
hình ảnh rất thân quen trong đời sống hàng ngày của cộng đồng ngơn ngữ. Đó
là dịng sơng, con suối, cái khe, đó là những con vật sống trong nhà với người:
chó, mèo, gà, vịt, thậm chí là chuột, kiến,...; đó là cái lá khoai, cái chum, vại...
- Thành ngữ có tính truyền cảm mạnh: Tác giả Nguyễn Thiện Giáp
(2003) cho rằng: “bên cạnh nội dung trí tuệ, các thành ngữ bao giờ cũng kèm
theo các sắc thái bình giá, cảm xúc nhất định; hoặc là kính trọng tán thành;


×