Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.49 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG MINH CHÂU

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG MINH CHÂU

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LẠNG SƠN

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THỊ THANH HUYỀN

HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật kinh tế - Học viện Khoa học xã hội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật kinh tế xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Dương Minh Châu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................. 1
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC............................................... 6
1.1.

Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc................................................. 6

1.2.

Vai trò của pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc...................................................... 12

1.3.

Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc......................................................... 13

1.4.


Các yếu tố tác động việc thực thi pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc....28

Chương 2 THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
BẮT BUỘC VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG
SƠN………………………………………………………………………………..30
2.1.

Thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc..................................................... 30

2.1.1. Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.................................................. 30
2.1.2. Về các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc................................................................... 31
2.1.3. Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc....................................................................................... 43
2.1.4. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã
hội bắt buộc.......................................................................................................................................... 45
2.2.

Thực tiễn thi hành pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn. . 49

2.2.1. Tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn................................................................................................................................................ 49
2.2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội bắt
buộc………………………………………………………………………………...59
2.2.3. Nguyên nhân của tình trạng chậm đóng, nợ đọng và khơng tham gia bảo
hiểm xã hội........................................................................................................................................... 61
2.2.4. Thực tiễn công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh
chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn......................................... 65


Chương 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO

HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN BẢO
HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN........................ 70
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc.....................70
3.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm xã hội bắt
buộc nói chung và trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng.................................................... 74
KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 81


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ

ASXH

An sinh xã hội

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp


ILO

Tổ chức Lao động quốc tế

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

TNLĐ, BNN

Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

DN

Doanh nghiệp

SXKD

Sản xuất kinh doanh


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn
2016 - 2019 ............................................................................................................... 52
Bảng 2.2. Số lao động tham gia BHXH bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2016 –
2019:………………. ................................................................................................. 53

Bảng 2.3. Kết quả thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức sau sinh,
TNLĐ - BNN giai đoạn 2016 - 2019 ........................................................................
Bảng 2.4. Kết quả thực hiện hưu trí giai đoạn 2016 – 2019 ....................................
Bảng 2.5. Kết quả thu BHXH bắt buộc giai đoạn 2016 – 2019 ................................


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Trên thế giới, để hệ thống An sinh xã hội của mỗi quốc gia được xây dựng một
cách hồn hảo thì bảo hiểm xã hội đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm và ngày
càng trở thành một công cụ hữu hiệu, một khâu không thể thiếu, một bộ phận hợp
thành hệ thống An sinh xã hội. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta nhận thức được
tầm quan trọng của bảo hiểm xã hội nên ln xác định chính sách bảo hiểm xã hội
là chính sách quan trọng, có tính nhân văn sâu sắc, nhằm đảm bảo tốt hơn đời sống
người lao động, góp phần tích cực vào việc ổn định, an tồn xã hội và sự nghiệp
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và đồng thời thiết lập hành lang pháp lý của
Bảo hiểm xã hội một các chặt chẽ.
Tại cuộc họp Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 ngày 29 tháng 6 năm 2006 Luật
Bảo hiểm xã hội năm 2006 đã được thơng qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2007, với chính sự phê duyệt quan trọng đó đã đánh dấu bước phát
triển mới của pháp luật bảo hiểm xã hội ở nước ta trong việc điều chỉnh các mối
quan hệ bảo hiểm xã hội giữa NLĐ với NSDLĐ đồng thời mở rộng hơn nữa các loại

hình bảo hiểm xã hội và phạm vi tham gia cũng như thụ hưởng bảo hiểm xã hội để
NLĐ có thể hưởng những chính sách tốt nhất, đồng thời tăng cường vai trò của Nhà
nước trong lĩnh vực quản lý về bảo hiểm xã hội.
Sau nhiều năm thực hiện triển khai Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng
dẫn Luật Bảo hiểm xã hội kèm theo, hệ thống các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội
đã đi vào cuộc sống, từng bước mở rộng đối tượng tham gia và thụ hưởng bảo hiểm xã
hội, phát huy tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ và
NSDLĐ, góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu an sinh xã hội của Nhà nước. Tuy
nhiên, do nước ta vẫn còn là một trong những nước đang phát triển nên trong q trình
thực hiện, các chính sách, chế độ về bảo hiểm xã hội vẫn có khơng ít các điểm bất hợp
lý thể hiện trong bản thân nội dung quy định của chính sách, chế độ và việc tổ chức
thực thi các quy định này trong các chế độ của bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định. Hạn
chế trong chính sách tác động mạnh đến quyền lợi của NLĐ từ đó làm mất sự cơng
bằng giữa các đối tượng được thụ hưởng. Chế tài xử phạt các vi phạm

1


hành chính trong lĩnh vực BHXH vẫn chưa đủ mạnh, mang tính răn đe cao nên mức
tn thủ cịn thấp. Tình trạng nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội vẫn còn phổ
biến nhất vào thời điểm xảy ra dịch bệnh như hiện nay gây ảnh hưởng trực tiếp tới
quyền lợi của NLĐ và những đối tượng thụ hưởng khác.
Lạng Sơn là một tỉnh đang phát triển về mặt nông nghiệp, văn hóa, y tế, giáo
dục và thương mại. Tỉnh Lạng Sơn có thế mạnh thu hút đầu tư về công nghiệp, du
lịch, dịch vụ và giáo dục đặc biệt là thu hút đầu tư từ nước ngoài do tiếp giáp với
nước Trung Quốc. Công tác BHXH trong thời gian qua đang được quan tâm và ưu
tiên đặc biệt. Vai trị của pháp luật về BHXH trong đó có hoạt động thu, chi, đảm
bảo chính sách cho đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng trưởng tốt. Tuy nhiên
đối với tình hình xã hội đang đổi mới, BHXH vẫn chưa khai thác hết tiềm năng và
thế mạnh, tuy đối tượng phát triển ngày một tăng nhưng nhiều vấn đề phát sinh.

Qua những bất cập đã được đề cập trên đòi hỏi cần phải đánh giá một cách đầy
đủ hơn về chính sách, chế độ về bảo hiểm xã hội, từ đó chỉ ra những quy định phù
hợp với thời điểm hiện tại, những vướng mắc còn tồn tại cần được nghiên cứu điều
chỉnh, bổ sung để có thể đáp ứng các yêu cầu thực tế xã hội. Vì lý do đó, tơi xin
chọn đề tài: “Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn”
làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Thời gian qua, giới nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và khoa học pháp lý
nói riêng ở nước ta hướng sự quan tâm, nghiên cứu đến vấn đề an sinh xã hội nói
chung, pháp luật bảo hiểm xã hội nói riêng. Ở phạm vi và mức độ khác nhau đã có
một số cơng trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến pháp luật bảo hiểm xã hội bắt
buộc nói chung và từng chế độ nói riêng, điển hình như:
- Nguyễn Thị Hồng Nhung: Nghiên cứu “Pháp luật về BHXH từ thực tiễn thị
xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên". Luận văn thạc sĩ chuyên ngành luật Hiến Pháp
và luật hành chính, Học viện chính trị quốc gia, năm 2017. Luận văn chỉ ra rằng
việc triển khai thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội một cách thực sự có hiệu quả
vẫn cịn là một vấn đề phức tạp, khó khăn, ln địi hỏi sự tìm tịi, nghiên cứu về lý
luận, sáng tạo trong thực tiễn thực hiện tại mỗi địa phương.

2


-

Nguyễn Thị Hương: Nghiên cứu "Pháp luật về BHXH bắt buộc qua thực tiễn áp

dụng tại tỉnh Quảng trị". Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học luật Đại học Huế,

năm 2018. Luận văn đã phân tích được những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm xã hội
bắt buộc, đánh giá dược thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn
thực hiện tại địa phương và luận văn cũng đã đưa ra những giải pháp quan trọng nhằm
hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc đồng thời nâng cao hiệu
quả việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
-

Hà Thị Hiền (2018), "Chế độ hưu trí theo Luật BHXH năm 2014 ở Việt Nam

hiện nay", Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Học viện KH

-

XH.
Hoàng Hồng Giang (2015) đã thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ: "Một số biện pháp

tăng cường quản lý công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH thành phố Hải Phòng".

-

Luận văn của Nguyễn Thị Thúy (2014), Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật

bảo hiểm xã hội và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành thành phố Hà Nội, Luận
văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội.
-

Luận văn của Nguyễn Thị La Giang (2015), Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt

buộc và thực tiễn ở Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật- Đại học Quốc
gia Hà Nội.

-

Luận án Tiến sĩ của tác giả Phạm Trường Giang (2013), Hoàn thiện cơ chế

thu bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, Học viện khoa học xã hội.
-

Đề tài khoa học cấp Bộ (2013): Cơ sở khoa học hồn thiện quy trình quản lý

thu bảo hiểm xã hội, Chủ nhiệm Tiến sĩ Dương Xuân Triệu, cấp Bộ LĐ-TBXH.
-

Bài viết Lê Quang Thắng (2018), Bình luận tội trốn đóng bảo hiểm xã hội,

bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo BLHS năm 2015, Tạp
chí Kiểm sát số 9/2018.
-

Bài viết của tác giả Phan Tiến Anh (2016) , Nhận diện một số thủ đoạn thực

hiện hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội và biện pháp phòng
ngừa. Tạp chí kiểm sát số 6
Các bài viết, cơng trình nghiên cứu nêu trên đã góp phần tạo ra các cơ sở lý luận
và chỉ ra được những vấn đề thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật BHXH bắt buộc,

3


tuy nhiên các cơng trình này cịn tản mạn, hoặc nếu viết về pháp luật BHXH chưa
làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật BHXH bắt buộc tại một

địa phương cụ thể. Do vậy, luận văn tập trung nghiên cứu và làm sáng rõ thêm
những vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc nói chung và tình hình thực hiện
bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng để từ đó đưa ra giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc.
3.

Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và
pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng như thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện pháp luật bảo
hiểm xã hội bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên
những nội dung chủ yếu sau:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
-

Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc để từ

đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về lĩnh vực này.

-

Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa

bàn tỉnh Lạng Sơn.
-

Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt


buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trong giới hạn
nghiên cứu của đề tài. Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã
hội bắt buộc, thực trạng áp dụng pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại tỉnh Lạng
Sơn trong giai đoạn hiện nay.
Về mặt không gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt
buộc tại địa bàn tỉnh Lạng Sơn trên cơ sở các văn bản pháp luật như: Bộ luật Lao
động, Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản pháp luật khác điều chỉnh về bảo hiểm
xã hội bắt buộc.

4


Về mặt thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật
về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay từ năm
2016-2019.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, các văn bản pháp luật
của Nhà nước về bảo hiểm xã hội bắt buộc và quan điểm của Tổ chức Lao Động
Quốc tế (ILO) về bảo hiểm xã hội bắt buộc qua một số Công ước quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia ký kết, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra,

các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng lĩnh vực của đề tài như:
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, thống kê…cũng được sử dụng
trong quá trình nghiên cứu.
6.
-

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Luận văn góp hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm xã hội

bắt buộc như khái niệm, đặc điểm, vai trò, sự điều chỉnh của pháp luật đối với bảo
hiểm xã hội bắt buộc.
-

Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt

buộc và thực tiễn thực hiện tại Lạng Sơn. Luận văn đã đề xuất ra giải pháp quan
trọng nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về
bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Lạng Sơn. Những giải pháp này có tính chất tham khảo
cho các cơ quan có thẩm quyền xây dựng, hồn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có bố
cục 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
và pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc và
thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội
bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn


5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc
Bảo hiểm xã hội có thể được coi là một sự hỗ trợ chắc chắn đối với bất kì mọi
người, bảo hiểm xã hội ra đời và phát triển là một q trình thích ứng và xử lý
những vấn đề liên quan đến nhu cầu con người.
BHXH đã xuất hiện từ rất lâu đời xuất phát từ thế kỷ XIII ở Nam Âu khi nền
công nghiệp và kinh tế hàng hóa bắt đầu phát triển, BHXH ban đầu xuất hiện chỉ
mang tính chất xơ khai với phạm vi khá nhỏ hẹp. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII
một số nghiệp đồn thợ thủ cơng ra đời, để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt động nghề
nghiệp họ đã thành lập nên các quỹ tương trợ để giúp đỡ lẫn nhau, như năm 1473 tại
Anh đã thành lập hội "bằng hữu" để giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau, tai nạn
nghề nghiệp. Hệ thống BHXH lần đầu tiên trên thế giới được hình thành vào giữa
thế kỉ XIX là cơng trình của Chính phủ Đức dưới thời Thủ tướng Bismarck. Năm
1893 Thụy Sĩ lập quỹ bảo hiểm thất nghiệp theo hình thức tự nguyện với cơ chế ba
bên (Nhà nước - giới chủ - giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho người lao
động trong một số trường hợp họ gặp rủi ro. Mơ hình này của Đức đã lan dần ra
châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những
năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng ra các
nước giành độc lập ở châu Á, châu Phi và vùng Caribe. Đến đầu thế kỷ XX có nhiều
nước cơng nghiệp châu Âu đã ban hành Luật bảo hiểm thất nghiệp theo hình thức tự
nguyện được nhà nước trợ cấp.
Theo ILO: "BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thơng
qua một loạt các biện pháp cơng cộng để đối phó với khó khăn về kinh tế xã hội do bị

ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi
già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đơng con". Tác
phẩm: "Một số vấn đề về chính sách đảm bảo xã hội ở nước ta hiện nay”:

6


"BHXH chính là một q trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được tồn
tích dần do sự đóng góp của NSDLĐ và NLĐ dưới sự điều tiết của nhà nước, nhằm
đảm bảo một phần thu nhập để thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu của NLĐ
và gia đình gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng thu nhập lao động".

Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của
NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức
mà NLĐ và người sử dụng lao động phải tham gia
“Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức
mà NLĐ và NSDLĐ phải tham gia”.
Bảo hiểm xã hội có thể đảm bảo chắc chắn, ổn định và bền vững khi có sự tổ
chức của Nhà nước với những quy định mang tính bắt buộc để có thể hình thành
nên một quỹ tiền tệ tập chung ở một phạm vi vô cùng lớn và đây cũng chính là cơ
sở cho việc hình thành nên hình thức bảo hiểm xã hội ở phạm vi lớn đồng thời hình
thành hình thức bảo hiểm xã hội bắt buộc.
1.1.2. Đặc điểm bảo hiểm xã hội bắt buộc
Dựa trên các quy định theo công ước ILO và các văn bản pháp luật về bảo
hiểm xã hội bắt buộc của các đã ban hành, ta có thể bảo hiểm xã hội bắt buộc mang
những đặc điểm cơ bản dưới đây:
Thứ nhất, việc tham gia loại hình bảo hiểm xã hội này mang tính chất bắt buộc
Việc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc khơng phụ thuộc vào ý chí của NLĐ


đồng ý tham gia hay do NSDLĐ quyết định NLĐ có được tham gia hay khơng mà
loại hình bảo hiểm này mang tính chất bắt buộc, NLĐ và NSDLĐ buộc phải thực
hiện nghiêm túc bởi, mục đích chủ yếu của BHXH là đảm bảo nguồn thu nhập cho
NLĐ khi gặp những khó khăn trong cuộc sống lúc giảm hoặc mất nguồn thu nhập.
BHXH bắt buộc là sự bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi NLĐ bị suy giảm hay
mất khả năng lao động dẫn đến bị suy giảm hay mất thu nhập. BHXH buộc sẽ bù
đắp thu nhập cho NLĐ khi NLĐ đang tham gia vào quan hệ lao động hoặc kể cả khi
chấm dứt quan hệ lao động hay khi NLĐ chết.

7


BHXH bắt buộc ln chứa đựng vai trị đan xen cả về kinh tế và xã hội. Vai trò
của pháp luật là xác lập được hình thức pháp luật nhất định và đảm bảo thực hiện bởi
các cơ chế pháp luật thích hợp nhằm kết hợp hài hịa nội dung kinh tế và xã hội trong
BHXH phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước, trên cơ sở quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của các bên trong quan hệ BHXH. Vậy nên việc tham gia BHXH
không chỉ bắt buộc với NLĐ hay NSDLĐ mà bắt buộc đối với cả Nhà nước

Thứ hai, pháp luật ban hành quy định cụ thể về mức đóng và phương thức
đóng loại hình bảo hiểm xã hội
Nếu trong trường hợp NLĐ tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thì người tham
gia được lựa chọn phương thức đóng và mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm
xã hội thì NLĐ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được ấn định cụ thể vơ cùng chi tiết.
Mức đóng của BHXH bắt buộc khơng chỉ NLĐ phải đóng tồn bộ mức mà phải có sự
đóng góp của NSDLĐ. Mức đóng và phương thức đóng của NLĐ cần được quy định
chi tiết để NLĐ có thể tự thấy được mức đóng hàng tháng, phương thức đóng của bản
thân và quan trọng nhất là dựa vào đó có thể nhận biết căn cứ được hưởng chế độ theo
quy định đồng thời qua Luật cịn nêu một số trường hợp NLĐ khơng đủ cơ sở để tham

gia BHXH bắt buộc, điều kiện tính hưởng các chế độ,…

Thứ ba, những người tham gia loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc này sẽ
được hưởng nhiều chế độ hơn loại hình bảo hiểm xã hội khác
Đối với người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, họ sẽ được hưởng các chế
độ theo các quy định như sau: ốm đau; thai sản; hưu trí; tử tuất; các bệnh về tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp,... Đặc biệt là đối với chế độ thai sản cho NLĐ, hiện
BHXH tự nguyện chưa có chế độ thai sản, điều này sẽ gây bất lợi vô cùng lớn cho
NLĐ nữ khi trong quá trình mang thai và sinh con phát sinh rất nhiều việc như
khám thai, sinh nở và q trình ni con trong vịng 4 - 6 tháng đầu chưa kể có thể
gặp những việc khơng may trong quá trình mang thai như phải phẫu thuật,... thời
gian này lao động nữ khơng thế lao động để có thể tạo ra thu nhập.


trong những trường hợp cụ thể khác, với các chế độ cụ thể mà pháp luật đặt

ra cho họ thì NLĐ sẽ được những điều kiện nhất định Nhà nước phải đáp ứng.
Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc:

8


Khi tiến hành tổ chức và thực hiện chính sách BHXH, các quốc gia đều lựa
chọn hình thức, cơ chế và mức độ thoả mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tập
quán, khả năng trang trải và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia
mình, đồng thời cũng nhận thức thống nhất các quan điểm cơ bản về BHXH. Đó là
những nguyên lý, những quy định được đặt ra và thực hiện xuyên suốt trong mọi
hoạt động của BHXH, BHXH bắt buộc là một trong các loại hình bảo hiểm, lại chủ
yếu hàng mục đích xã hội, BHXH vừa phải thực hiện các nguyên tắc chung của hoạt
động bảo hiểm, vừa phải thực hiện các ngun tắc mang tính xã hội của mình. Cụ

thể, BHXH bắt buộc được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, mức hưởng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở mức đóng, thời
gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.
BHXH bắt buộc là loại bảo hiểm vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội.
Tính kinh tế của BHXH bắt buộc thể hiện ở chức năng tổ chức phân phối thu nhập,
đảm bảo đời sống của cá nhân cũng như của gia đình NLĐ. Để thực hiện việc phân
phối đó một cách hiệu quả, BHXH bắt buộc trong quá trình triển khai phải có sự kết
hợp hài hịa giữa cống hiến và hưởng thụ và sự tương xứng tương đối giữa mức
đóng và mức hưởng. Tuy nhiên, ngồi ra BHXH bắt buộc cịn mang tính xã hội,
trong đó nổi trội là sự chia sẻ những rủi ro xã hội, lấy số đông bù số ít.
Mức hưởng của BHXH bắt buộc cần đảm bảo sự hợp lý giữa mức đóng góp và
mức hưởng thụ và căn cứ vào sự cống hiến của NLĐ như mức đóng góp, thời gian
đóng góp cho các quỹ bảo hiểm xã hội... để dựa vào đó quy định mức trợ cấp và độ
dài thời gian hưởng sao cho phù hợp với sự đóng góp cho xã hội của NLĐ. Sự
tương xứng giữa mức đóng và mức hưởng của BHXH bắt buộc chỉ mang tính chất
tương đối bởi khơng phải NLĐ cứ đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội bao nhiêu thì
sẽ nhận được bấy nhiều chế độ bảo hiểm xã hội.
Mặc dù mức hưởng phải căn cứ trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH
nhưng vẫn mang tính chất chia sẻ, hỗ trợ giữa những người tham gia bảo hiểm. Điều
này được thể hiện ngay từ việc đóng góp của họ vào quỹ BHXH. Để được hưởng các
chế độ BHXH bắt buộc thì đối tượng thụ hưởng phải đáp ứng các điều kiện luật định.
Hơn nữa, trong số đơng những người tham gia đóng góp (NSDLĐ, NLĐ và Nhà

9


nước) thì chỉ có NLĐ mới là đối tượng được hưởng trợ cấp. Vì thế số trợ cấp mà họ
nhận được thưởng lớn hơn rất nhiều số tiền mà họ đã đóng góp. Và việc chi trả các
chế độ BHXH bắt buộc được tiến hành trên cơ sở lấy kết quả của số đông người
tham gia để bù cho số ít người được hưởng. Ngoài ra, đây cũng là cách mà cộng

đồng giúp đỡ những đối tượng gặp rủi ro mà nếu khơng có sự chia sẻ, tương trợ
cộng đồng thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Thứ hai, mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công
của NLĐ.
Đối tượng của BHXH bắt buộc là phần thu nhập của NLĐ trong trường hợp bị
giảm hoặc bị mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Cho nên
mức đóng BHXH bắt buộc phải căn cứ vào mức thu nhập được bảo hiểm thì mới
đảm bảo nguyên tắc mức hưởng của BHXH bắt buộc phải tính trên cơ sở mức đóng.
Mức thu nhập được bảo hiểm là mức tiền lương hoặc một mức thu nhập bằng
tiền nào đó do Nhà nước quy định. Mức thu nhập này là công cụ để Nhà nước giám
sát, kiểm tra, điều tiết trên giác độ quản lý vĩ mô đối với BHXH bắt buộc và quản lý
lao động trong nền kinh tế quốc dân. Yêu cầu trong việc lựa chọn mức thu nhập
được bảo hiểm được Nhà nước quán triệt là phải dựa trên cơ sở mức sống, mức thu
nhập bình quân thực tế của đại đa số NLĐ... để đảm bảo cho mức thu nhập này luôn
thăng bằng tương đối, đảm bảo đời sống cho NLĐ tham gia bảo hiểm và gia đình
họ. Mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền công, tiền lương của NLĐ.
Nguyên tắc này là phù hợp với xu hướng chung hiện nay, đảm bảo được sự cân
bằng giữa mức đóng BHXH với mức thu nhập của NLĐ. Hơn nữa, nó cũng đảm
bảo sự ổn định cho quỹ BHXH trước sự biến động của giá cả thị trường. Bên cạnh
đó, cùng với nguyên tắc thứ nhất, nguyên tắc này sẽ tạo nên sự bình đẳng tương đối
giữa những người tham gia BHXH trong việc thụ hưởng quyền lợi khi mức đóng
góp của mỗi người là khơng giống nhau, bởi vì mức hưởng thì tính trên cơ sở mức
đóng BHXH và mức đóng BHXH thì lại được tính trên cơ sở tiền lương, tiền cơng
của NLĐ, từ đó tạo ra sự cân xứng trong việc đóng góp và thụ hưởng.
Thứ ba, NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng
BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã

10



đóng BHXH. Thời gian đóng BHXH đã được tính hưởng BHXH một lần thì khơng
được tính vào thời gian làm cơ sở tính hưởng các chế độ BHXH .
Theo quy định của pháp luật về hình thức thi BHXH gồm có BHXH bắt buộc và
BHXH tự nguyện. Mặc dù số lượng người tham gia mỗi loại BHXH không giống nhau
nhưng đều về phương diện pháp lý, việc tham gia BHXH bắt buộc hay BHXH tự
nguyện đều tạo nên các quyền lợi về BHXH có giá trị như nhau. Xét trên thực tế, có rất
nhiều trường hợp NLĐ có thể có những thời gian tham gia BHXH theo các loại hình
khác nhau. Từ đó đặt ra yêu cầu giải quyết quyền lợi cho họ sao cho hợp lý nhất.

Đây là quy định được Luật BHXH nâng lên thành nguyên tắc cơ bản, nhảm
đảm bảo quyền lợi của NLĐ và tính liên thơng trong quan hệ bảo hiểm xã hội, hạn
chế tình trạng thực tế có rất nhiều NLĐ bị"cắt xén"quyền lợi khi rơi vào trường hợp
như trên.
Thứ tư, việc thực hiện BHXH bắt buộc phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện,
bảo đám kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH bắt buộc
Người tham gia BHXH bắt buộc là NSDLĐ, NLĐ và nhà nước. Trong đó,
NSDLĐ là người có nghĩa vụ phải đóng góp bảo hiểm cho NLĐ nhưng họ lại không
đồng thời là người thụ hưởng. Cho nên, đối tượng chủ thể này thường ít khi mặn mà
với việc thực hiện trách nhiệm của mình. Để khuyến khích NSDLĐ thực hiện nghĩa
vụ trên, trình tự thủ tục đóng góp cũng như thực hiện BHXH bắt buộc phải giảm
thiểu sự phiền hà, phức tạp đến mức tối đa.
Những trường hợp được hưởng các chế độ BHXH bắt buộc là những trường
hợp xảy ra rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập của NLĐ. Trong tình huống đó, họ và
gia đình rất cần đến khoản tiền BHXH bắt buộc một cách kịp thời, nhanh chóng để
giải quyết khó khăn, ổn định cuộc sống. Chính vì vậy, việc thực hiện BHXH phải
đảm bảo đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, kịp thời, đặc biệt là thủ tục hành chính để có
thể đảm bảo giải quyết một cách nhanh chóng, đầy đủ quyền lợi, đáp ứng yêu cầu
cấp thiết của người tham gia BHXH.
Có thể thấy rằng, mỗi nguyên tắc BHXH bắt buộc có một nội dung riêng, phản
ánh những quy luật khách quan khác nhau của chính sách BHXH. Tuy vậy giữa chúng

luôn tồn tại mối quan hệ tác động qua lại với nhau, tạo thành một hệ thống thống

11


nhất, việc thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ tạo tiền đề cho việc thực hiện có hiệu quả
các nguyên tắc khác. Cho nên trong hoạt động BHXH bắt buộc cần phải kết hợp
thực hiện các nguyên tắc nhằm nâng cao hiệu quả của việc quản lý, tổ chức thực
hiện các chính sách BHXH bắt buộc.
1.2. Vai trị của pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc
Từ hai trường phái phái Bismarck hoặc theo trường phái Beveridge hoặc là
trường phái hỗn hợp khác cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, ta thấy về bản chất
vẫn có sự khác nhau với những cơ chế khác nhau, cho dù BHXH là một bộ phận quan
trọng của ASXH. Định hình được hướng đi cho một mơ hình, một hệ thống BHXH phụ
thuộc nhiều vào ý chí của nhà nước và của thể chế chính trị của mỗi quốc gia.

Với cách tiếp cận nêu trên, quay trở lại với mục tiêu của nước ta là BHXH
toàn dân, cần phải làm rất rõ khái niệm tồn dân. Trên thế giới có khái niệm là
BHXH phổ cập. Phổ cập khác với toàn dân ở chỗ bảo hiểm phổ cập là bảo hiểm cho
mọi NLĐ đều có thể tham gia và hưởng thụ ở mức tối thiểu theo luật định. Tuy
nhiên BHXH bắt buộc khơng chỉ có vai trị đối với NLĐ mà cịn có vai trị đối với
các quan hệ lao động bao phủ lên đó.
Thứ nhất, đối với người lao động
BHXH bắt buộc được hình thành và phát triển chủ yếu là nhằm đảm bảo chính
sách cho NLĐ và người thân của họ khi gặp phải những khó khăn, làm giảm hoặc
mất một phần thu nhập. Đối với NLĐ là người được hưởng lợi chủ yếu do mục đích
của bảo hiểm xã hội là đảm bảo nguồn thu nhập cho NLĐ khi gặp những khó khăn
trong cuộc sống làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập mà còn thể hiện trách nhiệm
của NLĐ đối với xã hội. Khi tham gia BHXH bắt buộc, việc chi dùng cá nhân của
NLĐ được nâng cao hiệu quả cho họ tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ, đều đặn

hàng tháng để chi dùng khi già cả, mất sức lao động,... Đây không chỉ là nguồn hỗ
trợ về vật chất mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi
gặp khó khăn, giúp họ ổn định về mặt tâm lý, ổn định chính sách cho bản thân và
gia đình khi gặp bất trắc. Khơng chỉ đối với riêng NLĐ mà cịn hỗ trợ cuộc sống
thân nhân NLĐ khi NLĐ không may qua đời.
Thứ hai, đối với người sử dụng lao động

12


Cũng giống mục đích của BHXH bắt buộc đối với NLĐ đó là BHXH bắt buộc
thay NSDLĐ chi trả thu nhập hoặc một phần thu nhập cho NLĐ khi gặp khó khăn
làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập dẫn đến việc ảnh hưởng chất lượng lao động.
Ngồi ra cịn tăng cường hiệu quả mối quan hệ bền chắc giữa các thành viên trong
quan hệ lao động và tạo điều kiện để NSDLĐ có trách nhiệm với NLĐ trong suốt
cuộc đời NLĐ cho những đóng góp của họ với doanh nghiệp.
Thứ ba, đối với Nhà nước
Bảo hiểm xã hội bắt buộc ln chứa đựng vai trị đan xen cả về kinh tế và xã
hội. Vai trò của pháp luật là xác lập được hình thức pháp luật nhất định và đảm bảo
thực hiện bởi các cơ chế pháp luật thích hợp nhằm kết hợp hài hòa nội dung kinh tế
và xã hội trong Bảo hiểm xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước,
trên cơ sở quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các bên trong quan hệ bảo
hiểm xã hội. BHXH vốn là một trong bốn trụ cột của hệ thống An sinh xã hội của
Nhà nước hiện nay và nhìn vào hệ thống BHXH bắt buộc của quốc gia có thể biết
được trình độ phát triển của quốc gia đó.
Qua các nội dung trên ta thấy vai trò của BHXH bắt buộc là rất lớn và là một
khâu không thể thiếu trong việc thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” góp
phần vào ổn định và phát triển kinh tế đất nước.
1.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà các quốc gia có những quy định

khác nhau về BHXH bắt buộc. Song nhìn chung về nội dung pháp luật BHXH bắt
buộc của hầu hết các quốc gia thường quy định về các nội dung như đối tượng tham
gia, quỹ BHXH bắt buộc và các chế độ BHXH bắt buộc, thanh tra, xử lý vi phạm và
giải quyết các vấn đề về BHXH bắt buộc.
1.3.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Theo đánh giá của ILO, thì bảo hiểm xã hội là một bộ phận quan trọng nhất của
bảo đảm xã hội. Bởi vì, BHXH có đối tượng áp dụng chiếm tỷ lệ cao và sự "che chắn"
của BHXH là ổn định, vững chắc. Ở các nước theo báo cáo của tổ chức lao động quốc
tế, lực lượng lao động thường chiếm từ 55% đến 70% dân số. Điều đó cho thấy đối
tượng trực tiếp của BHXH bắt buộc là NLĐ nói chung. Nhưng trên thực tế, do điều

13


kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước nên phạm vi, đối tượng áp dụng các chế
độ BHXH có khác nhau. Có nước chỉ thực hiện BHXH đối với cơng nhân, viên
chức Nhà nước, ví dụ như Lào, có nước áp dụng với cả NLĐ làm cơng ăn lương, ví
dụ như Philippin, Thái Lan; có nước hầu như áp dụng cho mọi NLĐ, ví dụ như ở
Liên Xơ cũ, Australia. Mục tiêu hiện nay của các nước là mở rộng đối tượng áp
dụng BHXH đến mọi lao động. Ngồi đối tượng thụ hưởng là NLĐ thì khi NLĐ xảy
ra điều khơng mong muốn thì thân nhân của NLĐ cũng sẽ được hưởng trợ cấp là
chế độ này ở các nước gọi là chế độ tiền tuất.
Trong BHXH, nếu NLĐ tham gia quan hệ lao động thuộc đối tượng bảo hiểm
bắt buộc thì NSDLĐ có nghĩa vụ phải tham gia đóng phí bảo hiểm cho những lao
động đó. Do vậy, NSDLĐ cũng chính là đối tượng áp dụng của BHXH bắt buộc.
Trên thực tế, tùy theo nhu cầu tham gia bảo hiểm và trình độ quản lý rủi ro của
từng hệ thống bảo hiểm mà đối tượng tham gia có quy mơ lớn hay nhỏ. Ở những
nước phát triển, lao động làm công chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao động. Nhà
nước có khả năng quản lý rủi ro xã hội ở mức độ cao thì có quy mơ đối tượng tham
gia BHXH lớn. Ngồi ra, cịn có hình thức bảo hiểm tự nguyện cho các đối tượng

khác. Đại diện cho nhóm các quốc gia này có thể kể đến Anh, Đan Mạch, Hà Lan...
Tại Anh, “Chế độ bảo hiểm quốc gia là chế độ bảo hiểm phổ thơng và có xu hướng
phủ tồn bộ dân cư thường trú tại Anh: người làm công ăn lương, lao động độc lập
và người không làm việc”
Theo báo cáo của tổ chức lao động quốc tế ILO, những người được bảo hiểm
được chia thành 4 loại:
Loại 1: Loại này liên quan đến người làm công ăn lương mà thu nhập hàng
tuần vượt quá sàn 57 bảng.
Loại 2 và 4; Các loại này liên quan đến những NLĐ độc lập chịu một sự đóng
góp hàng tuần ấn định. NLĐ độc lập mà thu nhập vượt quá một sàn nào đó phải trả
tiền đóng bảo hiểm bổ sung với danh nghĩa của loại 4;
Loại 3: Đối tượng liên quan trước hết là những người khơng thuộc các loại
khác hoặc việc đóng góp thường xun khơng đủ để có các quyền đối với một số trợ
cấp có sự tham gia đóng góp.

14


Tại Hà Lan lại song song tồn tại hai hệ thống BHXH, một cho riêng người làm
công ăn lương và hai là áp dụng cho toàn bộ cư. Mặt khác, tồn tại các trợ cấp xã hội
khơng có sự đóng góp. BHXH của những người làm cơng ăn lương bảo đảm chi phí
duy nhất cho những người làm cơng ăn lương và những người giống như vậy. Để
được thụ hưởng BHXH này, phải có một HĐLĐ, ít nhất giống như người làm cơng
ăn lương. Đó là trường hợp người học nghề, những NLĐ tại nhà hoặc trong các
phân xưởng được bảo hiểm.
Những NLĐ thật sự độc lập không giống người làm cơng ăn lương và cơng
chức có chế độ riêng. Người làm công ăn lương mà thu nhập dưới một trần tham gia
phải thuộc chế độ ZFW (bảo hiểm ốm đau). Trần này hiện nay là 58.950 florin một
năm. Chế độ ZFW cũng đảm bảo những người nhận trợ giúp xã hội. Vượt lên trần,
những người làm công ăn lương không thể lựa chọn để tham gia tự nguyện vào chế

độ ZFW, nhưng có thể gia nhập một chế độ tự nhãn bảo hiểm ốm đau. Mặc dù
khơng có một nghĩa vụ nào, hầu hết tất cả những người liên quan đã làm như vậy.
Bảo hiểm quốc gia bảo đảm chế độ bảo hiểm cho tất cả những người sống ở Hà
Lan, cũng như những người không thường trú với điều kiện họ đang làm việc ở Hà
Lan và trả thuế về lượng (Nguồn báo cáo của tổ chức lao động quốc tế-ILO) .
Qua nghiên cứu thực tiễn quy định về đối tượng áp dụng của một số nước trên
thế giới cho thấy với đối tượng áp dụng rộng lớn, cùng với hệ thống trợ cấp toàn
diện, BHXH bắt buộc thực sự phục vụ đời sống con người, góp phần bảo đảm cho
xã hội an toàn, phát triển.
1.3.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Trong giáo trình Bảo hiểm xã hội của Trường Đại học Lao động – Xã hội đã nhận
định về Chế độ bảo hiểm xã hội như sau: "Chế độ bảo hiểm xã hội là các trường hợp
được bảo hiểm do Nhà nước quy định cho người hưởng bảo hiểm, theo các mức hưởng
và thời gian hưởng khác nhau, khi có đủ điều kiện bảo hiểm phát sinh", "Chế độ bảo
hiểm xã hội là sự cụ thể hố chính sách bảo hiểm xã hội, là hệ thống các quy định cụ
thể và chi tiết nhằm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với NLĐ. Nói cách khác,
đó là hệ thống các quy định được pháp luật hoá về đối tượng, điều kiện để được hưởng
mức hưởng, thời hạn hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng chế độ

15


bảo hiểm xã hội cụ thể. Các quan điểm cơ bản đã bao trùm đầy đủ các nội dung của chế
độ BHXH bắt buộc và có vai trị quan trọng trong việc lựa chọn và thực hiện các chế độ
BHXH. Chế độ BHXH bắt buộc được cụ thể hoá dưới dạng các văn bản pháp luật và
dưới luật, các thông tư, điều lệ... Vì thế, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm
vững những vấn đề mang tính cốt lõi của chính sách BHXH để đảm bảo sự đúng đắn và
tính nhất qn trong tồn bộ hệ thống các chế độ BHXH bắt buộc.

Theo khuyến nghị của ILO đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952

tại Giơnevơ, hệ thống chế độ ASXH bao gồm 9 chế độ sau Chăm sóc y tế; Trợ cấp
ốm đau; Trợ cấp thất nghiệp; Trợ cấp tuổi già; Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp; Trợ cấp gia đình; Trợ cấp sinh đẻ; Trợ cấp khi tàn phế; Trợ cấp tiền tuất.
Tùy theo điều kiện kinh tế, xã hội mà mỗi nước tham gia Cơng ước thực hiện
khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được ba chế độ.
Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già,
trợ cấp TNLĐ, BNN, trợ cấp khi tàn phế và trợ cấp tiền tuất. Khi đã được pháp luật
quy định, nội dung của các chế độ BHXH thường bao gồm việc xác định mục đích
thực hiện chế độ, xác định đối tượng bảo hiểm, điều kiện được trợ cấp, xác định
mức trợ cấp và thời gian trợ cấp BHXH. Cho tới nay, tất cả các quốc gia trên thế
giới đã ban hành hệ thống pháp luật về ASXH, trong đó có BHXH bắt buộc và
khơng ngừng hồn thiện hệ thống các chế độ trợ cấp.
Hiện nay, việc thực hiện các chế độ BHXH bắt buộc trên thế giới có thể chia
thành hai mơ hình chính nằm trong hệ thống ASXH: mơ hình Bismarck (Đức, Pháp) và
mơ hình Mỹ, Anh. Mơ hình Bismarck được áp dụng khá phổ biến ở các nước Tây Âu
(Đức, Pháp) hay Bắc Âu (Thụy Điển, Phần Lan) do thủ tướng Đức Bismarck là người
sáng lập. Trong mơ hình này BHXH được coi là trụ cột trong hệ thống ASXH. Mục tiêu
là hầu hết các thành viên trong xã hội đều được "bao bọc", nên diện bao phủ rất rộng.
Bao gồm chăm sóc y tế (BHYT), trợ cấp ốm đau, thất nghiệp, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tuổi già (hưu trí), trợ cấp gia đình, trợ cấp tàn phế và
trợ cấp mất người ni dưỡng. Trong đó, Thụy Điển là một trong những quốc gia có
các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc đầy đủ theo khuyến nghị của ILO

16


tại Công ước 102. Chế độ BHXH Thụy Điển bao gồm chế độ chung dựa vào nơi cư
trú và trợ cấp gắn với cơng việc.
Khơng giống như mơ hình ASXH của các nước Bắc Âu, mơ hình ASXH của
Mỹ, Anh lại đề cao trách nhiệm cá nhân, Nhà nước chỉ tập trung cho những lực

lượng yếu thế trong xã hội. Nhà nước chi đảm bảo những mức trợ cấp thấp cho
người dân và khuyến khích lệ tham gia các dịch vụ bảo hiểm tư nhân. Vì theo quan
điểm khơng tạo gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tạo tư tưởng lười biếng do lợi
ích bị cào bằng, mức trợ cấp của Nhà nước thường chỉ đảm bảo mức sống tối thiểu
cho người được Thưởng trợ cấp. Trong trường hợp muốn hưởng cao hơn, người dân
phải tự tham gia các sản phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Đối với chính sách
BHXH, Nhà nước đảm bảo rất hạn chế trong phạm vi một số chế độ, chứ khơng
phải tồn bộ chín chế độ như theo mơ hình Bismarck. Ví dụ, tại Mỹ, Nhà nước chỉ
cung cấp trợ giúp cho các chế độ BHXH bao gồm trợ cấp lưu trí, trợ cấp mất người
nuôi dưỡng, trợ cấp mất sức lao động, bảo hiểm y tế; còn lại, bảo hiểm TNLĐ, bảo
hiểm thất nghiệp người dân bắt buộc tự phải mua bảo hiểm tư nhân mà khơng có sự
trợ giúp, bảo trợ của Nhà nước.
Như vậy, qua tìm hiểu hệ thống các chế độ về BHXH bắt buộc một số nước
trên thế giới cho thấy, mơ hình Bismarck có những ưu thế vượt trội trong việc bảo
vệ quyền lợi của người dân. Hầu như tồn bộ người dân (NLĐ làm cơng ăn lương,
lao động tự do, người thân của họ) đều được bảo vệ bởi chính sách BHXH với chín
chế độ thực hiện đầy đủ. Trong khi đó, các nước đang phát triển phần lớn chỉ mới
thực hiện được với người làm công, ăn lương. Do vậy, những ưu việt mà hệ thống
các chế độ BHXH bắt buộc ở các nước theo mơ hình Bismarck, trong đó có Thụy
Điển mang lại cho người dân là những kinh nghiệm quý, rất đáng tham khảo.
Tuy nhiên hầu hết các quốc gia quy định các chế độ BHXH mang tính chất bắt
buộc thường bao gồm 5 chế độ: chế độ BHXH ốm đau; chế độ BHXH thai sản; chế
độ BHXH tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
Thứ nhất, chế độ ốm đau
Bảo hiểm ốm đau là một trong các chế độ BHXH ra đời sớm nhất trong lịch sử
hình thành và phát triển của pháp luật BHXH, Ở Đức, ngay từ những năm 50 của thế

17



kỷ XIX nhiều chính quyền bang đã quan tâm tới việc quy định và bắt buộc thực hiện
chế độ trợ cấp ốm đau đối với NLĐ. Đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm ốm đau ngày
càng được mở rộng. Sau đó, nhiều nước châu Âu cũng đã cho ra đời các đạo luật của
mình có quy định về vấn đề bảo hiểm ốm đau. Đến đầu thế kỷ XX, bảo hiểm ốm đau
bắt đầu mở rộng hơn nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước Châu Mỹ.

Năm 1952, Tổ chức ILO đã thông qua Công ước số 102 với những quy phạm
tối thiểu về BHXH, Trong đó, điều 14 của Công ước quy định "các trường hợp phải
bảo vệ bao gồm sự mất khả năng lao động do đau ốm gây ra và dẫn đến gián đoạn
thu nhập, như pháp luật hoặc quy định quốc gia quy định ”.
Các đối tượng được trợ cấp ốm đau là những NLĐ bị ốm đau hoặc có con nhỏ
bị ốm đau và dẫn đến gián đoạn thu nhập, giúp người tham gia BHXH nhanh chóng
ổn định được cuộc sống, góp phần đảm bảo ASXH.
Điều kiện được hưởng trợ cấp ốm đau là những người tham gia BHXH bị ốm
đau, tạm thời nghỉ việc dẫn đến gián đoạn thu nhập sẽ được coi là đủ điều kiện được
hưởng trợ cấp ốm đau, Nếu có con nhỏ bị ốm, cũng có thể được nghỉ để chăm sóc
con tương tự như bản thân bị ốm. Việc trợ cấp có thể bị tạm ngừng trong các trường
hợp như: gian lận trong việc khai nhận trợ cấp, vắng mặt ở quốc gia...
Mức trợ cấp thường được quy định là một tỷ lệ phần trăm nhất định và nhỏ
hơn 100% để tránh lạm dụng chế độ so với tổng thu nhập trước đó của người hưởng
thụ hoặc người trụ cột trong gia đình họ. Tuy nhiên vẫn phải bảo đảm cho người thụ
hưởng đủ điều kiện sinh sống lành mạnh và không thấp hơn mức tối thiểu.
Thứ hai, chế độ thai sản
Tổ chức ILO đã ban hành nhiều công ước và khuyến nghị thể hiện sự quan tâm,
bảo vệ sức khỏe, cũng như quyền lợi cho các lao động nữ liên quan đến thai sản. Đó là
Công ước số 3 năm 1919, Công ước số 102 năm 1952, Khuyến nghị số 95 (sửa đổi năm
1952), công ước số 103 (xét lại năm 1952), công ước số 183 năm 2000 và Khuyến nghị
số 191... Ngoài ra, Tổ chức Liên hợp quốc (UN) cũng có một số cơng ước đề cập vấn
đề này, đó là: Cơng ước về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966, Cơng ước về xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979.


18


×