Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền của người bị tạm giam từ thực tiễn tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.67 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒNG HẢI Q

VAI TRỊ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI
BỊ TẠM GIAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Vũ Cơng Giao

Hà Nội - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả

Hồng Hải Quý


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU

Chương 1: NHƯNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ TẠM
GIAM.

1.1. Khái niệm bảo vệ quyền của người bị tạm giam.
1.2. Khái quát về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo
vệ quền con người
1.3. Nội dung vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo vệ
quyền của người bị tạm giam.

Trang
1
7
7
11
26

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CỦA
NGƯỜI BỊ TẠM GIAM

2.1. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện vai trò bảo vệ quyền của
người bị tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng
2.2. Thực trạng vai trò của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng
trong việc bảo vệ quyền của người bị tạm giam
2.3. Đánh giá kết quả và hạn chế, nguyên nhân của hạn chế trong việc
thực hiện vai trò bảo vệ quyền của người bị tạm giam của Viện Kiểm
sát Nhân dân tỉnh Cao Bằng.

Chương 3: QUAN ĐIỂM,GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA VIỆN

34

50

KIỂM SÁT NHÂN DÂNTRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ
TẠM GIAM, TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG

3.1. Quan điểm về bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong việc bảo vệ quyền của người bị tạm giam, từ thực tiễn tỉnh Cao
Bằng.
3.2. Giải pháp bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong việc bảo vệ quyền của người bị tạm giam, từ thực tiễn tỉnh Cao
Bằng
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

60

63
76
77


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS

:


Bộ luật Tố tụng Hình sự

BLHS

:

Bộ luật hình sự

CQĐT

:

Cơ quan điều tra

ĐTV

:

Điều tra viên

KSĐT

:

Kiểm sát điều tra

KSV

:


Kiểm sát viên

LTCVKSND

:

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

LTGTG

:

Luật tạm giữ tạm giam

LTHAHS

:

Luật thi hành án hình sự

TNHS

:

Trách nhiệm hình sự

VKS

:


Viện kiểm sát

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Bảng số liệu số người bị bắt, tạm giữ và kết quả giải
quyết (từ năm 2016 đến năm 2019)

40

Bảng 2.2: Bảng số liệu VKS phê chuẩn quyết định khởi tố bị can,
phê chuẩn lệnh tạm giam và lệnh bắt tạm giam (từ năm
2016 đến năm 2019)

41

Bảng 2.3: Bảng số liệu án thụ lý kiểm sát điều tra (từ năm 2016 đến
năm 2019)

44

Bảng 2.4: Bảng số liệu VKS thụ lý giải quyết (từ năm 2016 đến năm
2019)


46

Bảng 2.5: Bảng số liệu án kiểm sát xét xử sơ thẩm (năm 2016 đến
năm 2019)

47

Bảng 2.6: Bảng số liệu hoạt động kiểm sát nhà tạm giữ, trại tạm
giam (từ năm 2016 đến năm 2019)

50

Bảng 2.7: Bảng số liệu kết quả giải quyết người bị tạm giam
(từ năm 2016 đến năm 2019)

52

Bảng 2.8: Bảng thống kê, so sánh án trả hồ sơ điều tra bổ sung (từ
năm 2016 đến năm 2019)

52


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa cơng bố ngày 02/09/1945 trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tuyên bố: “Mọi người sinh ra đều có quyền sống, quyền tự do, quyền
mưu cầu hạnh phúc…”

Với tinh thần đó, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam trải qua các thời kỳ
đều ghi nhận quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp hiện hành (Hiến
pháp năm 2013) có rất nhiều quy định mới về vấn đề này; trong đó có quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác tàn bạo, vô nhân đạo.
Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng nêu rõ: "Đẩy mạnh xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch,
vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người". Nghị
quyết 49- NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 khẳng định: "Địi hỏi của cơng dân và xã hội với các
cơ quan tư pháp ngày càng cao, các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa
của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là
công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có
hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm".
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy
mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại, bảo vệ pháp
luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân...”

1


Nhằm cụ thể hóa các chủ trương, đường lối nêu trên của Đảng và triển
khai thực hiện Hiến pháp 2013, Quốc Hội Việt Nam đã xây dựng và sửa đổi,
bổ sung nhiều văn bản pháp luật để tạo hành lang pháp lý trong việc đảm bảo
các vấn đề về quyền con người. Trong số các văn bản pháp luật đó, BLTTHS
năm 2015 có vai trị quan trọng. Bộ luật này chú trọng đến quyền con người

của các chủ thể tham gia tố tụng, đặc biệt là chủ thể đã bị hạn chế một số
quyền cơng dân, đó là người bị tạm giữ, tạm giam, vì quyền của đối tượng
này dễ bị lạm dụng và vi phạm.
Theo pháp luật hiện hành, VKSND có hai chức năng là thực hành
quyền cơng tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, được khẳng định tại Điều 107
Hiến pháp năm 2013. VKSND là cơ quan duy nhất được Nhà nước giao thực
hiện hai chức năng này nhằm góp phần tích cực trong định hướng điều tra
chính xác, đảm bảo cho cơng tác khởi tố, bắt giam, giữ, thay thế, huỷ bỏ các
biện pháp ngăn chặn cũng như ra các quyết định tố tụng như đình chỉ, tạm
đình chỉ điều tra vụ án… đúng quy định của pháp luật, góp phần xử lý đúng
người, đúng tội, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm, bảo vệ các quyền con người,
quyền công dân. Phương tiện để VKSND thực hiện chức năng của mình là
các quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật chuyên
ngành.
Trong thời gian vừa qua, Ngành Kiểm sát nói chung và VKSND tỉnh
Cao Bằng nói riêng đã nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, song vai trò
bảo vệ quyền con người của VKSND còn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn. Hoạt động THQCT, kiểm sát điều tra còn nhiều hạn chế, dẫn đến
việc vẫn còn vi phạm ở một số cơ quan điều tra, trong đó bao gồm các hành vi
bức cung, dùng nhục hình đối với người bị tạm giam, hay chưa bảo đảm các
chế độ cho người bị tạm giam... Vì vậy, cần nghiên cứu để tìm ra những
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó và đề xuất các giải pháp khắc phục.

2


Với cương vị là Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ thực hành quyền
công tố, kiểm sát giải quyết các vụ án hình sự, kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam, học viên mong muốn tìm ra được các giải pháp để thực hiện tốt nhất vai
trò của VKSND trong bảo vệ quyền của người bị tạm giam trên địa bàn tỉnh

Cao Bằng. Vì vậy, học viên quyết định chọn đề tài: “Vai trò của Viện kiểm
sát nhân dân trong bảo vệ quyền của người bị tạm giam từ thực tiễn tỉnh
Cao Bằng” để thực hiệ luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, quyền con người nói chung và quyền của người bị tạm giam
nói riêng đều được các quốc gia trên thế giới quan tâm. Việt Nam đã sớm
tham gia nhiều công ước quốc tế về quyền con người, pháp luật Việt Nam
cũng đã từng bước hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn bảo vệ quyền con
người ở trong nước và trên thế giới. Đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu về quyền con người trong lĩnh vực tư pháp, trong đó có thể kể đến các
cơng trình tiêu biểu như:
- "Quyền con người trong thế giới hiện đại", đề tài cấp nhà nước do GS
Hoàng Văn Hảo và GS Phạm Ích Khiêm đồng chủ nhiệm;
- “Giới thiệu công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa”, của Vũ Cơng Giao, Nghiêm Kim Hoa (đồng chủ biên), NXB Hồng
Đức, 2012
- “Giới thiệu công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” của
Vũ Cơng Giao, Tường Duy Kiên, La Khánh Tùng (đồng chủ biên), NXB
Hồng Đức, 2012;
- “Luật nhân quyền quốc tế: Những vấn đề cơ bản” Vũ Công Giao, Lã
Khánh Tùng, NXB Lao động - xã hội, 2011;
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Hà Thu Hương “Bảo vệ quyền con người
trong pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước ở Việt Nam”, 2014;
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Ngô Thị Thanh “Bảo đảm quyền con
3


người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự”, 2013;
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Phùng Thanh Mai “ Bảo vệ quyền con
người bằng các quy phạm và các biện pháp tha miễn trong pháp luật hình sự”,

2014…
Các cơng trình nghiên cứu trên đây chứa đựng nhiều kiến thức, thơng
tin bổ ích về quyền con người trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng chưa có
nhiều cơng trình nghiên cứu về vai trò của VKSND trong bảo vệ quyền của
người bị tạm giam nói chung và gắn với thực tiễn Cao Bằng nói riêng. Do đó,
việc nghiên cứu đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ
quyền của người bị tạm giam từ thực tiễn Cao Bằng” là khơng trùng lặp với
cơng trình nghiên cứu nào khác và vẫn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về vai trò của VKSND trong bảo
vệ quyền của người bị tạm giam, phân tích thực trạng việc đảm bảo quyền
của người bị tạm giam từ thực tiễn ở tỉnh Cao Bằng, trên cơ sở đó đề xuất
những quan điểm, giải pháp khắc phục những hạn chế để VKSND tỉnh
Cao Bằng thực hiện tốt hơn vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình trong
việc đảm bảo quyền của người bị tạm giam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người và
đảm bảo quyền của người bị tạm giam.
- Phân tích các quy định của BLTTHS và các văn bản quy phạm pháp
luật khác về đảm bảo quyền của người bị tạm giam.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng đảm bảo quyền của người
bị tạm giam ở tỉnh Cao Bằng.
- Phân tích vai trị của VKSND tỉnh Cao Bằng trong việc đảm bảo
quyền của người bị tạm giam.
4


- Đánh giá và chỉ ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của ưu điểm, hạn
chế của VKSND tỉnh Cao Bằng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, vai trò,

chức năng của VKS trong đảm bảo quyền con người của người bị tạm giam.
- Đề xuất các giải pháp để thực hiện tốt việc bảo vệ quyền con người
của người bị tạm giam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng vai trò bảo vệ quyền
của người bị tạm giam của VKSND tỉnh Cao Bằng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề về vai trò của Viện
Kiểm sát trong đảm bảo quyền của người bị tạm giam, đồng thời chỉ tập trung
đánh giá vai trò của VKSND trong việc đảm bảo quyền của người bị tạm
giam ở hai cấp VKSND tỉnh Cao Bằng. Thời điểm lấy số liệu từ năm 2016
đến năm 2019.
Từ góc độ pháp luật, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn về việc đảm bảo quyền của người bị tạm giam từ khi VKS
phê chuẩn lệnh tạm giam, lệnh bắt tạm giam và trong suốt qua trình điều tra,
truy tố, xét xử.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mac- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, về chính
sách hình sự, về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp
như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về quyền

5



con người, về việc đảm bảo quyền của người bị tạm giam, về vai trò của
VKSND với việc bảo đảm quyền của người bị tạm giam.
Kết quả nghiên cứu luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ tình hình áp dụng
các quy định của pháp luật về đảm bảo quyền của người bị tạm giam và việc
thực hiện các quy định của pháp luật của các cơ quan chức năng, trong đó có
vai trị, nhiệm vụ của VKSND tỉnh Cao Bằng, vì thế có thể làm tài liệu tham
khảo cho việc giải quyết những tồn tại, hạn chế của pháp luật cũng như thực
tiễn áp dụng trên địa bàn Cao Bằng.
Luận văn cũng có thể làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy cho học viên,
sinh viên các cơ sở đào tạo nghiên cứu khoa học luật; là tài liệu tham khảo
cho Kiểm sát viên các cấp tỉnh Cao Bằng nghiên cứu áp dụng trong hoạt động
thực tiễn nhằm nâng cao trình độ lý luận và thực tế cơng tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong việc bảo vệ quyền của người bị tạm giam.
Chương 2: Thực trạng thực hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Cao Bằng trong việc bảo vệ quyền của người bị tạm giam
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân trong việc bảo vệ quyền của người bị tạm giam, từ thực tiễn tỉnh
Cao Bằng

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC

BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIAM
1.1. Khái niệm bảo vệ quyền của người bị tạm giam
1.1.1 Khái niệm quyền con người, bảo vệ quyền con người
* Khái niệm quyền con người.
Quyền con người là một phạm trù đa diện, cho đến nay đã có rất nhiều
cơng trình nghiên cứu và đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con
người, song chưa có định nghĩa nào là bao hàm được toàn diện các đặc điểm,
thuộc tính về quyền con người, vì nó phụ thuộc rất nhiều vào những góc độ
tiếp cận khác nhau, vào sự nhìn nhận chủ quan của tác giả.
Dù vậy, nhận thức phổ biến trên thế giới cho rằng quyền con người là
một giá trị mang tính tự nhiên, vốn có của tất cả mọi người, vì thế khơng một
lực lượng hay thế lực nào có thể tuỳ tiện chà đạp, tước bỏ, vi phạm.
Khái niệm quyền con người đã được đề cập từ lâu trong lịch sử nhân
loại, song chỉ đến khi cách mạng tư sản nổ ra thắng lợi thì quyền con người
mới được thừa nhận trong pháp luật. Minh chứng là sự ra đời của Tuyên ngôn
độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và Dân
quyền Pháp 1789 đã nêu rõ các quyền con người là tự nhiên và thuộc về tất cả
mọi người.
Ở Việt Nam, Bản Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh cơng
bố ngày 02/09/1945 đã khẳng định đanh thép: “Tất cả mọi người sinh ra đều
có quyền bình đẳng, Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm
được, đó là quyền sống, quyền tự do và quyền mư cầu hạnh phúc…”. Tuyên
ngôn đã thể hiện sâu sắc những giá trị của quyền con người và khẳng định
quyền con người, quyền công dân gắn liền với quyền độc lập dân tộc.
7


Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Quyền con người là những đặc tính
từ khi sinh ra con người đương nhiên được hưởng tùy thuộc vào sự phát triển
về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội nhất định và được pháp luật ghi nhận,

bảo đảm thực hiện.
* Khái niệm bảo vệ quyền con người.
Khoa học pháp lý đã chia quyền con người thành các nhóm theo các lĩnh
vực hoạt động của đời sống con người như: Nhóm quyền tự do dân chủ về
chính trị; nhóm quyền dân sự (quyền tự do cá nhân); nhóm các quyền về kinh
tế, xã hội. Ngồi ra, cịn có các nhóm đặc thù về quyền phát triển; quyền được
sống trong hịa bình và môi trường trong sạch...
Cho dù quyền con người là bẩm sinh, vốn có, nhưng trong xã hội các
quyền con người sẽ khơng được bảo đảm thực hiện nếu khơng có hệ thống
pháp luật. Tùy thuộc vào thể chế chính trị, sự phát triển kinh tế, xã hội, phong
tục tập quán... mà mỗi quốc gia sẽ xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp nhằm
mục đích bảo đảm cho quyền con người được thực hiện, là công cụ, phương
tiện để bảo vệ quyền con người. Quyền con người không thể chỉ được bảo vệ,
bảo đảm bằng các quy phạm đạo đức mà phải trở thành những quy tắc xử sự
chung cho tồn xã hội, có hiệu lực bắt buộc phải thực hiện và có tính thống
nhất. Chỉ khi pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện thì quyền con người
mới được bảo vệ. Theo đó, pháp luật quy định những điều cấm và những điều
bắt buộc phải thực hiện nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền con
người, ở đó có quy tắc xử sự chung mà mọi chủ thể phải thực hiện cùng với
các chế tài, biện pháp cưỡng chế với các hành vi xâm phạm đến quyền con
người. Khi quyền con người được ghi nhận bằng các quy định pháp luật và có
các cơ chế bảo đảm thực hiện trong thực tế, tạo thành đảm bảo pháp lý cho
thực hiện quyền con người thì đó chính là q trình nhằm mục đích bảo vệ
quyền con người.
8


Từ những phân tích trên, có thể hiểu: bảo vệ quyền con người chính là việc
Nhà nước xây dựng hệ thống pháp luật ghi nhận quyền con người, đồng thời quy
định những biện pháp ngăn ngừa, những chế tàixử lý các hành vi vi phạm quyền

con người và giao quyền cho bộ máy cưỡng chế của mình thực hiện.
1.1.2. Khái niệm người bị tạm giam và bảo vệ quyền của người bị tạm
giam
* Khái niệm người bị tạm giam.
Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng đối
với bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, được quy định
trong BLTTHS. Đây là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, có tính cưỡng
chế cao. Mục đích của tạm giam là ngăn chặn tội phạm và bảo đảm cho việc
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Biện pháp cưỡng chế này sẽ hạn chế một
số quyền con người, bắt buộc người bị áp dụng biện pháp tạm giam nghiêm
chỉnh chấp hành các quy định về tạm giam và các biện pháp bảo đảm thực
hiện quy định đó. Người bị tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo, nhưng không
phải bất cứ bị can, bị cáo nào cũng là người bị tạm giam.
Tạm giam nhằm mục đích ngăn chặn bị can, bị cáo phạm tội mới, bỏ
trốn, cản trở hoạt động điều tra..., do vậy nếu một người chưa bị khởi tố bị
can thì khơng được áp dụng biện pháp tạm giam. Và cũng không phải bị can,
bị cáo nào cũng bị áp dụng biện pháp tạm giam. BLTTHS quy định các
trường hợp được áp dụng biện pháp tạm giam và các trường hợp không được
áp dụng biện pháp tạm giam tại Điều 119 (BLTTHS 2015). Theo đó, biện
pháp tạm giam áp dụng đối với bị can phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất
nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà bộ luật quy định
hình phạt đối với tội đó là trên hai năm tù và có căn cứ cho rằng người đó có
thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội, khơng có
nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch, đã bị áp dụng biện pháp
9


ngăn chặn khác nhưng vi phạm... [ Điều 119 , khoản 1, khoản 2]. Tạm giam
cịn có thể được áp dụng đối với người bị bắt theo lệnh truy nã vì chỉ khi đang
là bị can, bị cáo hoặc người đang chấp hành án bỏ trốn thì họ mới bị truy nã.

Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định một số trường hợp khơng áp dụng
biện pháp tạm giam, đó là: đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc ni
con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú
hoặc lý lịch rõ ràng thì khơng tạm giam. Trừ trường hợp bỏ trốn và bị bắt theo
lệnh truy nã, tiếp tục phạm tội ...... [ Điều 119 , khoản 3]. Đối với người dưới
18 tuổi cũng hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam và phải bảo đảm tuân thủ
quy định tại Điều 419 BLTTHS hiện hành.
Từ những sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm người bị tạm giam
như sau: Người bị tạm giam là bị can, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định trong BLHS, hoặc thực
hiện tội phạm nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định có khung
hình phạt trên hai năm tù khi có căn cứ xác định họ thuộc một trong các
trường hợp quy định tại Điều 119 khoản 2 BLTTHS 2015. Tạm giam bị can,
bị cáo phải có lệnh của các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền và phải
tuân thủ các quy định của BLTTHS.
* Bảo vệ quyền của người bị tạm giam.
Như đã phân tích, người bị tạm giam là bị can, bị cáo trong vụ án hình
sự. Họ là đối tượng đang bị điều tra và có khả năng rất cao là chịu TNHS
thơng qua hình phạt quy định trong BLHS, nhưng Nhà nước vẫn phải bảo
đảm cho họ những quyền cơ bản nhất như quyền không bị tra tấn, đánh đập,
dùng nhục hình khi bị tạm giam, quyền được tơn trọng về nhân phẩm, quyền
được điều tra khách quan...

10


Cũng như quyền con người, quyền của người bị tạm giam được pháp
luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Pháp luật TTHS là công cụ giúp nhà
nước bảo vệ quyền của người bị tạm giam, đồng thời chi phối hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Pháp luật TTHS quy

định về nội dung các quyền mà người bị tạm giam được hưởng, trình tự, thủ
tục thực hiện các quyền và cơ chế pháp lý để bảo đảm quyền con người trong
TTHS nói chung và quyền của người bị tạm giam nói riêng. TTHS quy định
cho đối tượng này được hưởng cả các quyền dân sự, chính trị, chỉ bị hạn chế
một số quyền, vì dù trong hồn cảnh nào thì danh dự nhân phẩm của con
người cũng cần được tơn trọng, đó cũng là hành lang bảo vệ quyền của người
bị tạm giam khỏi sự tùy tiện, lạm quyền của các cơ quan và cá nhân được giao
nhiệm vụ.
Như vậy, từ những phân tích ở trên, có thể hiểu: Bảo vệ quyền của người
bị tạm giam là việc pháp luật ghi nhận những quyền của bị can, bị cáo trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự, đồng thời quy định những trình tự, thủ tục
nhằm bảo đảm cho các quyền đó không bị xâm phạm bởi sự tùy tiện hoặc sự
lạm quyền của các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tố
tụng hình sự.
1.2. Khái quát về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc
bảo vệ quyền con người
1.2.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân
Theo Hiến pháp năm 2013, VKSND nằm trong bộ máy nhà nước Việt
Nam, là cơ quan thực hành quyền cơng tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
VKSND có tổ chức bộ máy, nguyên tắc hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn…
được quy định trong Luật tổ chức VKSND năm 2014 và một số văn bản pháp
luật chuyên ngành.

11


Hệ thống VKSND là có tính thống nhất, bao gồm VKSND tối cao,
VKSND cấp cao, VKSND địa phương (VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp
huyện); VKS quân sự Trung ương, VKS quân sự cấp quân khu, quân chủng,
Bộ đội biên phòng; các VKS quân sự cấp khu vực. VKSND do Viện trưởng

lãnh đạo. Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng
VKSND cấp trên; Viện trưởng VKSND các địa phương, Viện trưởng
VKSND quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng
VKSND tối cao.
Chức danh trong VKSND gồm có: Viện trưởng, Phó Viện trưởng
VKSND, VKS quân sự các cấp; Kiểm sát viên (có 4 ngạch là KSV VKSND
tối cao, KSV cao cấp, KSV trung cấp và KSV sơ cấp); Thủ trưởng, Phó thủ
trưởng Cơ quan điều tra; Điều tra viên (có 3 ngạch là ĐTV cao cấp, ĐTV
trung cấp, ĐTV sơ cấp); Kiểm tra viên (có 3 ngạch là Kiểm tra viên cao cấp,
Kiểm tra viên chính và Kiểm tra viên).
Nhiệm vụ của VKSND là bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền cơng dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Ngoài ra, VKSND cùng
với các cơ quan chức năng nhà nước khác thực hiện nhiệm vụ giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi, môi trường tốt
cho sự phát triểm kinh tế, xã hội, hướng tới hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 107 Hiến pháp năm 2013, VKSND là
cơ quan duy nhất được Nhà nước giao thực hiện hai chức năng là thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Theo đó, thực hành quyền công
tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội
của Nhà nước đối với người phạm tội, được tiến hành ngay từ khi giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình điều
12


tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. VKSND thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố,
điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội, đồng thời không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm

giam, bị hạn chế quyền con người, quyền cơng dân, bị xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật. Mọi
hành vi phạm tội xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân đều phải
được phát hiện, xử lý trước pháp luật, bảo đảm các hoạt động điều tra, các
biện pháp tư pháp áp dụng đối với người bị tình nghi, bị can, bị cáo được tuân
thủ đúng quy định của pháp luật.
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND nhằm kiểm sát
tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động tư pháp. Nếu như thực hành quyền cơng tố chỉ xuất hiện trong q
trình giải quyết các vụ án hình sự thì kiểm sát hoạt động tư pháp khơng chỉ
xuất hiện trong q trình giải quyết vụ án hình sự mà xuất hiện trong quá trình
thực hiện các khâu cơng tác khác như kiểm sát giải quyết và thi hành các vụ
án dân sự, hành chính, lao động, hơn nhân gia đình, kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam, việc giải quyết khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp và các hoạt
động khác theo quy định của pháp luật.
VKSND có quyền kháng nghị, quyền kiến nghị. Trường hợp hành vi,
bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư
pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền
cơng dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân thì VKSND phải kháng nghị. Nếu phát hiện hành vi, quyết định của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít
nghiêm trọng khơng thuộc trường hợp kháng nghị thì VKSND thực hiện
quyền kiến nghị.

13


Để đảm bảo cho VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, hệ thống pháp luật Việt Nam đã quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND trong BLTTHS, BLTTDS, Luật Tố tụng Hành chính

và trong một số văn bản quy phạm pháp luật khác.
Với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn như trên, VKSND là cơ quan có
vai trị rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân
trong tố tụng hình sự.
1.2.2. Vai trò, đặc trưng và cơ chế bảo vệ quyền con người của Viện kiểm
sát nhân dân
* Vai trò của VKSND trong việc bảo vệ quyền con người:
Với chức năng, nhiệm vụ được giao, vừa là cơ quan tiến hành tố tụng,
vừa là cơ quan được giao nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các
cơ quan tiến hành tố tụng; thông qua thực hiện chức năng của mình, VKSND
có trách nhiệm và vai trị quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, pháp chế,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân... Nếu hoạt động thực hành quyền
công tố nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra
và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội, không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giam, bị xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp
luật thì hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của VKSND (một trong
những nhiệm vụ khi thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp)
nhằm đảm bảo việc tạm giam đúng luật định, chế độ tạm giam, quản lý được
chấp hành nghiêm chỉnh, bảo đảm tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của
người bị tạm giam và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được
tôn trọng.
Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối
14


xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2.
Không ai bị bắt nếu khơng có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê

chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ
người do luật định’’. Dựa trên các quy định này, VKSND có thể phát huy vai
trị bảo vệ quyền con người của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bảo vệ
quyền của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Trong hoạt
động thực hành quyền công tố, kiểm sát giải quyết các vụ án hình sự,
VKSND bảo vệ quyền của người bị bắt qua hoạt động kiểm sát việc bắt, tạm
giữ, tạm giam bị can và hoạt động truy tố, buộc tội người phạm tội, bảo vệ
các quyền và lợi ích của người bị hại, người có quyền lợi liên quan bị xâm
phạm. Hoạt động kiểm sát xét xử của VKSND còn đảm bảo cho hoạt động xét
xử của tòa án tuân thủ đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền bào chữa
cho bị cáo.
Như vậy, phương thức để VKSND bảo vệ quyền con người nói chung và
quyền của người bị tạm giam nói riêng chính là việc thực hiện hai chức năng
hiến định của nó là thực hành quyền cơng tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Hai chức năng này không tách rời mà ln cùng xuất hiện trong q trình
VKSND thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Điều đó tạo nên vị thế
đặc biệt của VKSND trong việc bảo đảm quyền cho các chủ thể tham gia tố
tụng, đặc biệt là các chủ thể bị hạn chế quyền, bao gồm người bị tạm giam bị can trong vụ án hình sự.
* Đặc trưng vai trị của VKSND trong việc bảo vệ quyền con người.
Về nguyên tắc, mỗi cơ quan nhà nước, bao gồm VKSND, khi thực hiện
nhiệm vụ của mình đều hướng tới việc bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên,
với chức năng được giao là cơ quan duy nhất thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp, hoạt động bảo vệ quyền con người của VKSND
có những đặc trưng sau:
15


Thứ nhất, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp của VKSND là hoạt động có tính chất quyền lực, vì thế có tác dụng bảo
vệ quyền con người đạt hiệu quả cao

Hiến pháp Việt Nam trải qua các thời kỳ đều ghi nhận về quyền con
người, quyền cơng dân. Kế thừa tinh thần đó, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục
khẳng định con người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật
bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, khơng bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình...
Để bảo đảm thực hiện các quyền hiến định nêu trên, Hiến pháp 2013 đã
quy định nhiệm vụ cụ thể của nhiều cơ quan nhà nước, trong đó bao gồm
VKSND. Quy định về nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của VKSND trong
Hiến pháp năm 2013 đã được sửa đổi và nhấn mạnh hơn so với Hiến pháp
1992, trong đó nhiệm vụ này được xếp chỉ sau nhiệm vụ bảo vệ pháp luật:
“VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất.” [9].
VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố từ giai đoạn kiểm
sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đến giai
đoạn xét xử vụ án hình sự, nhằm phát hiện, điều tra, truy tố, buộc tội người có
hành vi phạm tội, bảo đảm không để lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội. Như vậy, việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng
và việc bảo vệ cáo trạng, luận tội tại phiên tòa, đề nghị mức án theo quy định
của pháp luật là một trong những hoạt động thực hành quyền công tố của
VKSND nhằm buộc người có tội phải chịu hình phạt theo quy định của
BLHS. Thông qua việc đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý
nghiêm khắc theo quy định của pháp luật, các quyền con người được bảo vệ
16


khỏi sự vi phạm của những kẻ tội phạm. Như thế, có thể khẳng định chức
năng thực hành quyền cơng tố của VKSND cũng chính là để bảo vệ quyền
con người theo nghĩa rộng.

Bên cạnh chức năng thực hành quyền công tố, VKSND thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện,
được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Đối tượng của VKSND
khi thực hiện chức năng này sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng. Chính vì vậy, việc thực hiện chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp sẽ góp phần trực tiếp bảo vệ các quyền con người của bị can,
bị cáo, phạm nhân…khỏi sự vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng. So với chức năng thực hành quyền công tố, việc thực hiện
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp thể hiện trực tiếp và rõ hơn vai trò của
VKSND trong việc bảo vệ quyền con người. Đặc biệt, vai trò của VKSND
trong việc bảo vệ quyền của bị can về cơ bản chỉ thể hiện thông qua chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp.
Xét bản chất, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND là
hoạt động kiểm sát quyền lực, cịn chức năng cơng tố là hoạt động thực
thi quyền lực – đó là lý do khiến cho tác động bảo vệ quyền con người khi
thực hiện kiểm sát hoạt động tư pháp thể hiện rõ hơn. Không chỉ vậy, như
đã đề cập, nếu chức năng thực hành quyền cơng tố chỉ thực hiện trong q
trình kiểm sát việc giải quyết vụ án hình sự thì chức năng kiểm sát hoạ t
động tư pháp xuất hiện cả trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự,
kiểm sát việc giải quyết của Tòa án đối với các vụ việc dân sự, hơn nhân và
gia đình, kinh tế, lao động, các vụ án hành chính; kiểm sát thi hành án; kiểm
sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù…
Như vậy, về mặt hình thức, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp có phạm

17


vi tác động bảo vệ quyền con người rộng hơn chức năng thực hành quyền
công tố.
Xét chung, sở dĩ hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt

động tư pháp của VKSND có tác dụng bảo vệ quyền con người đạt hiệu
quả cao hơn so với hoạt động của nhiều cơ quan, tổ chức khác, vì đó là
những hoạt động tố tụng. Để thực hiện những chức năng đó, pháp luật đã
trao cho Ngành Kiểm sát các quyền năng pháp lý được quy định trong
Hiến pháp và các đạo luật chuyên ngành. Khi VKSND thực hiện các
quyền đó sẽ có tính chất bắt buộc với các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh chấp hành. Đây là quyền hạn đặc thù
của VKSND, các cơ quan nhà nước khác đều khơng có. Quyền hạn đặc
thù này giúp cho VKSND có thể hành động để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tình nghi, người tham gia tố tụng, người bị tạm giữ, tạm
giam… một cách hiệu lực, hiệu quả.
Thứ hai, VKSND bảo vệ quyền con người của những người tham gia tố
tụng
Người tham gia tố tụng bao gồm nhiều lĩnh vực như tham gia tố tụng
trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, tham gia tố tụng trong việc giải
quyết các vụ án dân sự, hành chính, hơn nhân gia đình, kinh doanh thương
mại… Với vị thế của cơ quan có chức năng bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh, thống nhất, bảo đảm truy tố đúng người đúng tội, không
bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vơ tội…VKSND có nhiệm vụ bảo vệ
quyền con người của những người tham gia tố tụng, mà có thể là bị can, bị
cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bị hại, người làm chứng…
Nếu quyền và nghĩa vụ của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam (bị can, bị
cáo, người bị kết án) được quy định cụ thể trong tố tụng hình sự, thì các loại
chủ thể khác tham gia tố tụng như người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ
18


liên quan, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự…sẽ được điều chỉnh và bảo đảm
bằng trình tự tố tụng dân sự…Tuy nhiên, trong lĩnh vực nào thì VKSND cũng
có vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người của những

người tham gia tố tụng, bởi VKSND vừa là cơ quan tiến hành tố tụng, vừa là
cơ quan duy nhất được Nhà nước giao thực hiện các chức năng, nhiệm vụ bảo
đảm cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng khác tuân thủ đúng quy
định của pháp luật. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, VKSND
cịn phải bảo đảm quyền con người của những chủ thể khác, tuy quyền của họ
ít có nguy cơ bị xâm hại hơn, như người làm chứng, người phiên dịch, người
bào chữa…
Thứ ba, VKSND bảo vệ quyền con người thông qua các quy định pháp
luật về quyền của các chủ thể tham gia tố tụng.
Khi một người tham gia vào các mối quan hệ bị luật hình sự điều chỉnh,
nghĩa là họ thực hiện hành vi phạm tội, thì sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật
hình sự và tố tụng hình sự. Nếu một người phát sinh mối quan hệ tranh chấp
dân sự thì họ sẽ bị pháp luật dân sự và tố tụng dân sự điều chỉnh. Lúc này họ
sẽ trở thành những chủ thể tham gia tố tụng. Đây là hai nhóm chủ thể chủ yếu,
phát sinh các quyền và nghĩa vụ cần được bảo đảm thực hiện.
Đối với các đối tượng thực hiện các hành vi phạm tội, họ sẽ phải chịu
trách nhiệm hình sự thơng qua hình phạt tương xứng. Vì những chủ thể này
đã thực hiện những hành vi phạm tội quy định trong luật hình sự xâm phạm
đến quyền, lợi ích của Nhà nước, của tập thể, cá nhân…nên pháp luật tố tụng
hình sự quy định người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, người bị kết án bị
hạn chế một số quyền cơ bản của công dân như: Quyền tự do đi lại, quyền lao
động, quyền tự do kinh doanh, quyền học tập, … Tuy vậy, pháp luật vẫn quy
định và bảo đảm cho họ một số quyền trong từng giai đoạn tố tụng tương ứng
với địa vị pháp lý của họ theo quy định pháp luật. BLTTHS có những điều
19


luật quy định quyền cho các đối tượng như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
một cách cụ thể, chi tiết, buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm cho
họ các quyền đó.

Đối với chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, quyền và nghĩa vụ
của họ phát sinh do tranh chấp về dân sự, hành chính, kinh doanh, thương
mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật. Mối quan hệ
pháp luật này khác với quan hệ pháp luật hình sự vì muốn quyền của chủ thể
này được bảo đảm thì chủ thể kia phải thực hiện nghĩa vụ nhất định tương
ứng và ngược lại. Lúc này hai bên chủ thể sẽ phải thực hiện nghĩa vụ, trách
nhiệm với nhau, hai bên sẽ phải đưa ra các chứng cứ chứng minh buộc bên
kia phải thực hiện nghĩa vụ… Tòa án sẽ là cơ quan có trách nhiệm phán
quyết. Vai trò của VKSND lúc này là tham gia phiên tòa, phiên họp, kiểm sát
viên sẽ nêu ý kiến của VKS về việc giải quyết vụ án…, nếu phát hiện các
quyết định giải quyết của Tịa án có vi phạm, VKS sẽ ban hành kiến nghị,
kháng nghị yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm, mục đích đều hướng tới bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Thứ tư, bảo vệ quyền con người của VKSND thực chất là để ngăn chặn
hành vi phạm pháp luật của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố
tụng
Cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm Cơ quan điều tra, VKSND, Tòa án,
Cơ quan thi hành án và các cơ quan được giao thẩm quyền. Người tiến hành
tố tụng là những người có chức danh tư pháp được giao thực hiện nhiệm vụ
trong quá trình giải quyết các vụ, việc theo trình tự, thủ tục tố tụng. Pháp luật
tố tụng đã quy định đầy đủ quyền, nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng. Theo đó, họ chỉ được thực hiện những việc mà pháp
luật quy định cho phép họ thực hiện, trong khi những người tham gia tố tụng
được thực hiện tất cả những điều pháp luật không cấm họ làm. Trong tố tụng
20


×