Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Áp dụng pháp luật về kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của viện kiếm sát nhân dân tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.18 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH PHI HẢI

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA
VIỆN KIẾM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Đắk Lắk - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH PHI HẢI

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA
VIỆN KIẾM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

Chuyên ngành: Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính
Mã số: 8380102

Người hướng dẫn: TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi

Đắk Lắk - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài“Áp dụng pháp luật về kiểm sát điều tra các vụ án
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của viện kiếm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk” là đề tài
nghiên cứu độc lập của riêng tôi, được đưa ra dựa trên cơ sở tìm hiểu, phân tích và
đánh giá các số liệu tại tỉnh Đắk Lắk. Các số liệu là trung thực và chưa được cơng
bố tại các cơng trình nghiên cứu có nội dung tương đồng nào khác.
Đắk Lắk, ngày 25 tháng 8 năm 2020
Người cam đoan

Huỳnh Phi Hải

i


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ nhiệt tình từ các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Nhân đây, tơi xin gửi lời cảm
ơn sâu sắc lịng biết ơn chân thành đến các tập thể, cá nhân đã tạo điều kiện và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Trước hết tơi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu Viện Hàn Lâm Khoa Học
Xã Hội Việt Nam – Học Viện Khoa Học Xã Hội cùng tập thể các thầy cô giáo,
những người đã trang bị kiến thức cho tơi trong suốt q trình học tập và nghiên
cứu tại trường.
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn
TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi, người đã trực tiếp hướng dẫn tơi trong suốt q trình
nghiên cứu và hồn thiện đề tài.
Do thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế, luận văn được hồn thiện
khơng thể tránh khỏi những sơ suất thiếu sót, tác giả rất mong nhận được những ý
kiến, góp ý của các thầy cơ giáo cùng các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!

Đắk Lắk, ngày 25 tháng 8 năm 2020
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Huỳnh Phi Hải

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1 ........................................................................................................... 8
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT
ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN
LÝ KINH TẾ ......................................................................................................... 8
1.1. Khái quát chung về vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và vai trò của
VKS trong giải quyết vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế............................ 8
1.2. Tổng quan về pháp luật điều chỉnh hoạt động kiểm sát điều tra vụ án xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế .............................................................................. 18
1.3. Khái quát chung về áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế của VKS ............................................................... 27
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ..................................................................................... 40
CHƯƠNG 2 ......................................................................................................... 42
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT
ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TỪ
THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK .......................................................................... 42
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Đắk Lắk tác động đến việc giải

quyết các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ............................................ 42
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế tại tỉnh Đắk Lắk ............................................................ 44
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 56
CHƯƠNG 3 ......................................................................................................... 58

iii


MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ
ÁN XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA VIỆN KIỂM SÁT ... 58
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát
điều tra các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Viện kiểm sát ........... 58
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động
kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của VKS ........... 61
3.3. Một số kiến nghị ......................................................................................... 71
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 75
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 79

iv


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Nghĩa của từ viết tắt

BLHS


Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

KTQT

Kinh tế quốc tế

KSĐT

Kiểm sát điều tra

NN

Nhà nước

QLNN

Quản lý Nhà nước

QCN

Quyền con người


TA

Tòa án

THTT

Tiến hành tố tụng

THQCT

Thực hành quyền cơng tố

VAHS

Vụ án hình sự

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XPTTQLKT

Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

e


v


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm gần đây, trước sự thay đổi, phát triển của các điều kiện kinh
tế- xã hội, tình hình các loại tội phạm nói chung có nhiều diễn biến phức tạp. Đặc
biệt là các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước có chiều hướng gia
tăng. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức cá nhân, tác động, ảnh hưởng xấu đến sự ổn định và phát
triển của nền kinh tế, đến tình hình an ninh kinh tế của đất nước. Tính chất của tội
phạm này cũng ngày càng tinh vi, phức tạp, gây khó khăn trong hoạt động khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử.
Trên cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao thì cơng tác kiểm sát
điều tra vụ án về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là chức năng quan trọng
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, đảm bảo các hoạt động khởi tố, điều tra
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và người phạm tội,
tránh làm oan sai người vơ tội góp phần giữ vững ổn định xã hội để phát triển kinh
tế và bảo vệ pháp chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh đó, nhận thức được
tính chất quan trọng của hoạt động đấu tranh phòng ngừa tội phạm về xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế của Viện kiểm sát nhân dân.
Nhằm loại trừ, giảm bớt những bất cập, khó khăn và vướng mắc trên; đồng
thời từng bước hoàn thiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát điều tra
các vụ án trật tự kinh tế nói riêng và các tội phạm khác nói chung thì cần thiết phải
tiến hành nghiên cứu về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế những năm gần
đây (giai đoạn 2014- 2019), nhiều vấn đề về mặt lý luận cũng như thực tiễn cần tìm
hiểu kỹ càng. Đặc biệt, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk là nơi có sự phát triển và gia tăng
về tội phạm này trong thời gian vừa qua. Tội phạm này có sự xuất phát từ những tội
phạm nguồn gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc gia tăng tỷ lệ tội phạm về trật tự quản

lý kinh tế. Tuy nhiên, trong các đề tài nghiên cứu những năm gần đây, các tội lại ít
được nghiên cứu đầy đủ và cụ thể. Việc xác định rõ nguyên nhân, điều kiện phạm

1


tội phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện nay hay trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói
riêng cũng chưa được đi sâu nghiên cứu, bám sát tình hình thực tiễn. Thực tiễn đặt
ra rằng, kiểm sát điều tra là một chức năng quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân.
Thời gian qua, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã thực hiện tốt chức năng
kiểm sát điều tra các vụ án nói chung, kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk vẫn cịn tồn tại một số hạn
chế. Vì vậy, cần nghiên cứu, đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác áp
dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.
Với ý nghĩa như vậy, việc học viên Huỳnh Phi Hải chọn đề tài: “Áp dụng pháp
luật về kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của viện kiếm
sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk ” làm đề tài luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn hết sức quan trọng, có ý
nghĩa quyết định đến tồn bộ q trình giải quyết vụ án XPTTQLKT nói riêng và
các vụ án hình sự nói chung. Giai đoạn điều tra vụ án cần phải làm rõ hành vi phạm
tội và người thực hiện hành vi pham tội, các tình tiết liên quan đến việc giải quyết
vụ án, từ đó làm cơ sở cho việc truy tố và xét xử các bị can, bảo đảm đúng người,
đúng tội, không làm oan người vơ tội, khơng bỏ lọt tội phạm. Do đó, địi hỏi hoạt
động KSDT cũng phải đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật, việc áp dụng
pháp luật KSĐT các vụ án XPTTQLKT phải chặc chẽ, chính xác, nghiêm minh, kịp
thời. Vì vậy, đây là vấn đề thu hút nhiều nhà lý luận và nhiều nhà hoạt động thực
tiễn quan tâm nghiên cứu. Việc nghiên cứu vấn đề này đã được thể hiện trong nhiều
cơng trình khoa học được cơng bố trên các sách, báo, tạp chí chun ngành, các

luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và một số giáo trình giảng dạy về pháp luật như:
- Sách chuyên khảo, các bài viết liên quan đến bảo vệ áp dụng pháp luật KSĐT
các vụ án XPTTQLKT, bị can trong pháp luật tố tụng hình sự như:
+ “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong xây dựng Nhà nước pháp quyền”, do
GS.TSKH Lê Cảm, PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Nxb. Đại học Quốc gia, Hà

2


Nội, 2004;
+ “Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của cơng dân theo luật hình sự Việt
Nam” của TS. Trịnh Tiến Việt (chủ biên), Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2010;
+ “Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự” của TS. Trần
Quang Tiệp, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2005;
+ “Áp dụng pháp luật KSĐT các vụ án XPTTQLKT trong luật hình sự, luật tố
tụng hình sự Việt Nam” của TS. Trần Quang Tiệp, Nxb.Chính trị Quốc gia Hà Nội,
2004;
+ “Bình luận khoa học BLHS, phần các tội phạm”, tập VI, các tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế, của tác giả Đinh Văn Quế.
+ Đề cương giáo trình “Đặc điểm tội phạm học của tội phạm về trật tự quản lý
kinh 5 tế, chức vụ và giải pháp phòng chống” của TS. Phạm Quang Phúc (Đào tạo
cao học - Chuyên ngành Tội phạm học và Điều tra tội phạm) năm 2015.
* Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia:
+ “Áp dụng pháp luật KSĐT các vụ án XPTTQLKT bằng pháp luật hình sự và
pháp luật tố tụng hình sự trong giai đọan xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam”
do GS.TSKH Lê Văn Cảm, PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, PGS.TS Trịnh Quốc Toản
(đồng chủ trì), Hà Nội, 2004;
+ “Áp dụng pháp luật KSĐT các vụ án XPTTQLKT trong lĩnh vực tư pháp hình
sự: Lý luận, thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật” do GS.TSKH Lê Văn Cảm (chủ
trì), Hà Nội,2013;

* Luận án tiến sĩ luật học:
- “ PGS.TS.Nguyễn Ngọc Chí (2007), “Bảo vệ áp dụng pháp luật KSĐT các vụ
án XPTTQLKT bằng pháp luật tố tụng hình sự”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế
- Luật 23, tr. 64-80.
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra của tác giả Lê Hữu Thể và các tác giả (năm 2008).
- Luận án Tiến sĩ “Tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi hình sự
hóa những hành vi XPTTQLKT tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả

3


Nguyễn Thị Thu Hương năm 2013;
Luận án Tiến sĩ của tác giả Bùi Minh Thanh: “Vi phạm pháp luật và đấu tranh
chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay” (năm 2003)
Qua khảo sát, cho thấy: nhiều cơng trình đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về vai
trò, các chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong KSĐT các vụ án XPTTQLKT và
thông qua các giai đoạn trong tố tụng hình sự; có những nghiên cứu ban đầu về việc
thực hiện nhiệm vụ, vai trò bảo vệ quyền của bị can của Viện kiểm sát ở những địa
phương cụ thể. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu hệ thống việc thực hiện
vai trò bảo vệ quyền của bị can trong hoạt động kiểm trát điều tra vụ án hình sự tại tỉnh
Đắk Lắk.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận
chung và thực trạng hoạt động KSĐT các vụ án XPTTQLKT tại tỉnh Đắk Lắk, từ
đó đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KSĐT
các vụ án này.
3.1.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu những vấn đề chung về hoạt động KSĐT các vụ án xâm phạm

trật tự quản lý kinh tế và thực tiễn áp dụng pháp luật về KSĐT các vụ án
XPTTQLKT tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk;
- Phân tích làm rõ những vấn đề vướng mắc, bất cập của pháp luật và hạn chế,
tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật về KSĐT các vụ án xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế; Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp, kiến nghị hồn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
- Những vấn đề lý luận về pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án
XPTTQLKT.

4


- Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án XPTTQLKT tại
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
- Nguyên nhân tồn tại, hạn chế hoạt động KSĐT các vụ án XPTTQLKT tại
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
- Quan điểm và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong
hoạt động KSĐT các vụ án XPTTQLKT tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hoạt động KSĐT các vụ án xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế, thực trạng thực hiện công tác này nhằm tạo cơ sở đề xuất các phương
hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ
án về trật tự quản lý kinh tế nói riêng và các vụ án hình sự nói chung tại Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn giới hạn việc khảo sát thực tiễn từ năm 2016 đến năm 2019, tại Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam; chính sách, pháp luật của Nhà nước về Nhà nước và pháp luật, về xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN và cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tác giả sử dụng phương pháp này để nghiên
cứu các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động KSĐT các vụ án
XPTTQLKT; các đề tài khoa học, chương trình, dự án, các bài báo đăng trên các tạp
chí khoa học chuyên ngành.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: tác giả sử dụng phương pháp này để nêu
lên cơ sở lý thuyết về hoạt động KSĐT các vụ án XPTTQLKT và đánh giá, khái
quát thành những quan điểm, luận điểm làm nền tảng lý luận cho luận văn.

5


- Phương pháp thống kê: tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu ở chương
2 của luận văn, các số liệu thu thập, điều tra được tổng hợp, phân tích làm cơ sở
đánh giá thực trạng qua đó đánh giá về thành tựu, hạn chế để đưa ra những giải
pháp giải quyết vấn đề một cách cụ thể trong quá trình áp dụng trong thực tiễn tại
tỉnh Đắk Lắk.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa khoa học
Đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu về chức năng KSĐT các vụ án
XPTTQLKT tại tỉnh Đắk Lắk trong thực tế. Luận văn góp một phần bổ sung những
thiếu sót mà các cơng trình nghiên cứu trước chưa đề cập đến về chức năng KSĐT
của VKSND về các vụ án XPTTQLKT và thực tiễn tại một địa phương cụ thể.
* Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận

văn thạc sĩ luật học về pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án XPTTQLKT ở
tỉnh Đắk Lắk, giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn thể hiện ở
các nội dung cơ bản sau:
Luận văn góp phần hồn thiện một số vấn đề lý luận cơ bản về chức năng,
nhiệm vụ, đưa ra các tiêu chí đánh giá và nghiên cứu lý luận về vai trò của VKSND
trong KSĐT các vụ án XPTTQLKT.
Đưa ra một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chức năng KSĐT của
VKSND các cấp ở tỉnh Đắk Lắk thời gian tới.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở để những người trực tiếp hoạt
động trong ngành kiểm sát nhân dân, đặc biệt là những Kiểm sát viên cấp huyện ở
tỉnh Đắk Lắk tham khảo để có hướng nâng cao năng lực góp phần nâng cao hiệu
quả chất lượng công việc, làm cơ sở khoa học phục vụ cho việc học tập của sinh
viên chuyên và những ai quan tâm đề tài, gợi mở hướng nghiên cứu để những người
tâm huyết đi sâu vào tìm hiểu. Đồng thời nó giúp những cán bộ, kiểm sát viên trực
tiếp làm về chức năng, nhiệm vụ của KSV trong thực tế có cái nhìn sâu sắc hơn về
vai trị, tầm quan trọng nhiệm vụ mình được giao.

6


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 03 chương, cụ thể:
- Chương 1: Những vấn đề chung về áp dụng pháp luật về kiểm sát điều tra
các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
- Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra
các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk.
- Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế.


7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH
TẾ
1.1. Khái quát chung về vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và vai trò
của VKS trong giải quyết vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Trật tự quản lý kinh tế là những quy định của Nhà nước về chế độ, nguyên tắc,
chính sách trên các lĩnh vực sản xuất, lưu thông kinh doanh hàng hóa, quản lý tài
chính, tiền tệ, tài ngun, quản lý đấu tranh phòng ngừa tội phạm và bảo vệ rừng…
Các tội XPTTQLKT đã xâm phạm đến các lĩnh vực quản lý kinh tế của Nhà nước,
gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cơng dân.
Các tội XPTTQLKT được Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS 2015) quy định
có 3 nhóm tội: Các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại; các
tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm; các tội
khác XPTTQLKT. Người phạm tội là cá nhân, tổ chức, pháp nhân có hành vi vi
phạm các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế ở các mức độ khác nhau với
mục đích vụ lợi, tùy theo từng tội danh. Hành vi phạm tội được thể hiện có thể là
dạng hành động hoặc không hành động và đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho
nền kinh tế quốc dân hoặc cho từng ngành, lĩnh vực nhất định. Người phạm tội thực
hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý.
Hiện nay, chưa có một khái niệm pháp lý nào quy định về các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế. Trong một số giáo trình thì đề cập đến khái niệm các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế được đề cập tương đối đơn giản, cụ thể:
Giáo trình Luật hình sự - trường đại học Luật Hà nội, nhà xuất bản Công an
nhân dân 2016 ghi nhận: Các tội phạm xâm phạm quản lý kinh tế là những hành vi

nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích của
Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và của công dân thông qua các vi phạm, các
quy định trong QLKT.

8


Giáo trình Luật hình sự - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội ghi nhận: Các
tội phạm xâm phạm quản lý kinh tế là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do
người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một các cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh gây
thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân.
Tuy nhiên, tác giả cho rằng các khái niệm trên xây dựng trên cơ sở khái niệm
chung của tội phạm và tên gọi chung của nhóm tội. Đồng thời, phản ánh mối quan
hệ một cách khái quát nhất các quan hệ xã hội có cùng tính chất bị hành vi, vi phạm
xâm hại. Lý do cơ bản dẫn đến hạn chế này, theo chúng tôi là do chưa làm rõ được
nội hàm khách thể loại của tội phạm, hay thuật ngữ “trật tự quản lý kinh tế”. Các
thuật ngữ “trật tự quản lý kinh tế”, “cơ chế quản lý kinh tế”, “quan hệ quản lý kinh
tế” đều gắn với chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước. Việc quy định các tội
XPTTQLKT và trách nhiệm hình sự đối với các tội XPTTQLKT là xuất phát từ trật
tự quản lý kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế, quan hệ quản lý kinh tế và rộng hơn là
chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước bị hành vi phạm tội xâm hại đáng kể. Tuy
nhiên, qua việc vi phạm các chế độ, chính sách quản lý kinh tế, nền kinh tế đất
nước, lợi ích của Nhà nước, của các chủ thể kinh tế và lợi ích của người tiêu dùng
đều bị xâm hại.
Trong Luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Chí Cơng – Trách nhiệm hình sự
đối với các tội XPTTQLKT năm 2016 tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia đã đưa ra
khái niệm sau: Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là các hành vi nguy hiểm
cho xã hội, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách có lỗi, xâm phạm quản
lý kinh tế của Nhà nước, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp

của tổ chức và cá nhân.
Như vậy, nếu xuất phát từ hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, có thể
phát biểu khái niệm các tội XPTTQLKT như sau: Các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế là các hành vi, vi phạm các quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế,
xâm phạm cơ chế Nhà nước quản lý, vận hành nền kinh tế, gây thiệt hại đáng kể
cho nền kinh tế, lợi ích của Nhà nước, các chủ thể kinh tế và người tiêu dùng. Nếu

9


xuất phát từ khái niệm chung về tội phạm và khách thể loại (nhóm) của tội phạm, có
thể phát biểu khái niệm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế như sau: Các tội
XPTTQLKT là các hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do
người có năng lực TNHS thực hiện một cách có lỗi, xâm hại các quan hệ phát sinh
trong quá trình quản lý, vận hành nền kinh tế giữa các cơ quan quản lý Nhà nước
về kinh tế và các chủ thể kinh tế.
1.1.2. Vai trò của VKS trong giải quyết vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Theo quy định của pháp luật, VKSND được giao thực hiện hai chức năng:
Thực hiện Quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hai chức năng này vừa có
tính độc lập tương đối, vừa quan hệ chặt chẽ, tác động quan lại, bổ sung lẫn nhau,
không tách rời nhau. Chính đặc điểm đó đã tạo nên tính thống nhất trong chức năng
của VKSND. Ở Việt Nam, VKS là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Hoạt động kiểm sát điều tra
được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự và trong suốt quá trình điều tra vụ
án hình sự.
Viện kiểm sát có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, pháp chế, bảo
đảm thực hiện chức năng KSĐT các vụ án XPTTQLKT. Việc bảo đảm thực hiện
chức năng KSĐT các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Viện kiểm sát
trong tố tụng hình sự được thể hiện trên hai phương diện:
Một là, đấu tranh chống tội phạm, phát hiện kịp thời để đưa ra xử lý nghiêm

minh trước pháp luật đối với người phạm tội xâm phạm đến các quyền và lợi ích
hợp pháp, trong đó có các quyền của con người.
Hai là, bảo đảm các quyền của con người (của người bị tình nghi, bị can,
người bị kết án) không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng và đảm bảo hoạt động
điều tra được diễn ra đúng trình tự, thủ tục, đảm bảo quyền và lợi ích cửa các bên có
liên quan.
Trên cơ sở đó, Viện kiểm sát sẽ bảo đảm thực hiện chức năng KSĐT các vụ án
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thông qua các giai đoạn sau:

10


Bảo đảm thực hiện chức năng KSĐT các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế, qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp Luật trong việc điều tra các vụ án
hình sự xâm phạm hoạt động điều tra; Bảo đảm thực hiện chức năng KSĐT các vụ
án XPTTQLKT thông qua việc kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc xét xử các
vụ án hình sự.
Kiểm sát điều tra hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự
để thực hiện việc kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động điều tra vụ án hình sự nhằm đảm bảo quá trình giải
quyết vụ án hình sự được thực hiện một cách cơng bằng, đảm bảo xử lý đúng người,
đúng tội và đúng pháp luật.
Thơng qua hoạt động của VKSND nói chung thì thực hiện chức năng KSĐT
các vụ án XPTTQLKT thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc điều tra vụ án hình sự mà cụ thể được ghi nhận tại BLTTHS 2015 và Quy chế
công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát khởi tố, điều tra và truy tố của Viện
Trưởng VKSNDTC ban hành kèm theo Quyết định số 111 ngày 17/4/2020.
Hiến pháp năm 1959 ra đời đã ghi nhận VKSND là một cơ quan trong hệ
thống các cơ quan quyền lực nhà nước, với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1960 đã ghi nhận VKSND có nhiệm vụ:

"Điều tra những việc phạm pháp về hình sự, truy tố trước Tòa án nhân dân những
người phạm pháp về hình sự; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của
Tòa án nhân dân và trong việc chấp hành các bản án; kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc điều tra của Cơ quan công an và của CQĐT khác; kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc giam, giữ của các trại giam...".[36]
Điều này cho thấy, từ khi mới thành lập VKSND đã có trách nhiệm quyết định
việc kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố
tụng, đảm bảo cho pháp luật tố tụng hình sự được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất. Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt nam, Hiến pháp và Luật tổ chức
VKSND có những bước tiến và có những thay đổi căn bản về nội dung. Nhưng
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp của VKS vẫn

11


được ghi nhận. Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã quy định: "Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ bằng những công tác sau đây:
1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
điều tra các vụ án hình sự của các CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra;
...
Theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật TCVKSND 2014 thì VKS thực
hiện cả chức năng thực hành quyền cơng tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Quốc hội đã giao cho VKS thực hiện quyền giám sát việc tuân thủ pháp luật
của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân trong phạm vi được Quốc
hội giao cho. Việc Quốc hội giao cho VKS thực hiện quyền kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội trước đây và quyền kiểm sát các
hoạt động tư pháp hiện nay là xuất phát từ chỗ VKS do cơ quan lập pháp cao nhất
của Nhà nước là Quốc hội lập ra, hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất và
độc lập so với các cơ quan Nhà nước khác. VKS là cơ quan không nằm trong hệ

thống các cơ quan hành pháp và cơ quan xét xử. Mặt khác, Quốc hội đã giao cho
VKS thực hiện quyền giám sát việc tuân thủ pháp luật như nêu ở trên, còn xuất phát
từ nhu cầu và sự đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất, đòi hỏi sự nhất trí về mục đích hành động trong nhân dân, giữa nhân dân và
Nhà nước, giữa các ngành, các cơ quan Nhà nước với nhau. Thực tế đã chứng minh
rằng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế,
xã hội từ năm 1960 đến năm 2014 và hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp từ
năm 2014 đến nay đã có kết quả tốt, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và
chấp hành pháp luật trên nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Trên thực
tế hoạt động kiểm sát hoạt động điều tra được quy định tại khoản 1 Điều 4 và Điều
15 Luật TCVKSND năm 2014. Hoạt động KSĐT đã được cụ thể hóa thơng qua quy
chế ban hành kèm Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2019 về thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố. Các khâu công tác này có
quyền sử dụng các biện pháp nghiệp vụ đã được pháp luật quy định để tác động đến

12


hoạt động của các chủ thể tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá
trình điều tra vụ án hình sự.
Từ những phân tích trên cho thấy khâu công tác kiểm sát hoạt động điều tra
là một giai đoạn trong quá trình hoạt động nghiệp vụ của VKS trong các giai đoạn
tố tụng hình sự, nhằm thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành
quyền công tố của ngành kiểm sát. VKSND tỉnh Đắk Lắk đã quán triệt, thực hiện
nghiêm Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của VKSND tối cao về “tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều
tra”; theo đó, đã chú trọng việc nắm và quản lý về tình hình tội phạm; tăng cường
kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, áp dụng các biện pháp
theo luật định để chống bỏ lọt tội phạm. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã
tích cực, chủ động tham gia sâu hơn, sớm hơn vào quá trình điều tra, bám sát các

hoạt động điều tra để làm rõ tội phạm, cùng chịu trách nhiệm với cơ quan điều tra
về kết quả điều tra; kịp thời đưa ra các yêu cầu điều tra, chủ động cùng với cơ quan
điều tra tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình điều tra. Khi
cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật
để chủ động thu thập và kiểm tra chứng cứ. . Nội dung điều tra các vụ án xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt - Tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố VAHS và quyết định việc khởi tố VAHS. Tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố là các thông tin đầu tiên về tội phạm đến với cơ quan có thẩm
quyền. Đây là cơ sở đầu tiên để cơ quan có thẩm quyền xem xét xác định có phải là
vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt hay không để quyết định đưa hay không đưa
vụ việc vào giải quyết theo thủ tục TTHS. Để đảm bảo tính chính xác, địi hỏi các
hoạt động liên quan đến việc tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố phải được thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của luật TTHS về
thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn và các yêu cầu pháp lý khác. Sau quá trình
kiểm tra, xác minh, tùy thuộc vào kết quả, cơ quan có thẩm quyền có thể ra các
quyết định sau:

13


+ Có đủ căn cứ xác định sự việc có dấu hiệu tội phạm xảy ra trên thực tế, cơ
quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố vụ án.
+ Có căn cứ xác định khơng có sự việc xảy ra hoặc có một trong các căn cứ
để khơng khởi tố VAHS theo quy định tại Điều 107 Bộ luật TTHS thì cơ quan có
thẩm quyền ra quyết định không khởi tố VAHS và kết thúc về mặt TTHS đối với vụ
việc.
- Áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong điều tra các vụ án XPSH có tính
chất chiếm đoạt. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong quá trình điều tra các vụ
án XPSH có tính chất chiếm đoạt nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, khơng để các
đối tượng trong vụ án bỏ trốn, gây khó khăn cho q trình điều tra vụ án, nhưng

đồng thời nó cũng liên quan đến các chiến thuật điều tra. Các biện pháp ngăn chặn
được áp dụng trong quá trình giải quyết các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt
bao gồm: Bắt người (với ba trường hợp bắt bị can bị cáo để tạm giam, bắt người
trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã); Tạm
giữ, tạm giam; Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bảo lĩnh; Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm . Các biện pháp ngăn chặn này có thể được áp dụng trước hoặc sau khi
khởi tố vụ án. Đây là các biện pháp có tính cưỡng chế nghiêm khắc, thường tác
động đến các quyền cơ bản của con người, vì vậy khi áp dụng địi hỏi phải đảm bảo
tính có căn cứ, đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục mà luật TTHS quy định. Bên
cạnh đó, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn cịn mang tính nghiệp vụ thể hiện
thủ thuật, chiến thuật trong điều tra nhưng không được lạm dụng mà yêu cầu tiên
quyết vẫn là phải đảm bảo tính pháp lý cho hoạt động này.
- Tiến hành các biện pháp điều tra Sau khi quyết định khởi tố các vụ án
XPSH có tính chất chiếm đoạt, Cơ quan điều tra sẽ bắt tay vào tiến hành các biện
pháp điều tra. Tùy tính chất từng vụ án và các tình huống xuất hiện khi khởi tố vụ
án mà thứ tự các biện pháp điều tra được tiến hành. Nhưng nhìn chung tất cả các vụ
án XPSH có tính chất chiếm đoạt đều phải tiến hành một số biện pháp điều tra sau
để thu thập chứng cứ phục vụ quá trình chứng minh làm sáng tỏ vụ án.

14


+ Khám nghiệm hiện trường: Khám nghiệm hiện trường là biện pháp điều
tra do Điều tra viên tiến hành tại nơi xảy ra tội phạm hoặc tại nơi phát hiện tội phạm
nhằm phát hiện vật chứng, dấu vết của tội phạm và làm sáng tỏ những tình tiết có ý
nghĩa đối với việc giải quyết VAHS. Khám nghiệm hiện trường có thể tiến hành
trước khi khởi tố VAHS. Ngồi việc xác định, thu giữ dấu vết, vật chứng có liên
quan đến vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt thì cơng tác khám nghiệm hiện
trường cịn phải xác định, ghi nhận những dấu vết phản ánh việc lục soát, chiếm
đoạt tài sản, đặc điểm, chủng loại tài sản bị chiếm đoạt…Cá biệt trong những

trường hợp kèm theo hành vi chiếm đoạt tài sản cịn có thể có những hành vi phạm
tội khác như giết người, gây thương tích thì cơng tác khám nghiệm hiện trường còn
phải phát hiện, thu giữ dấu vết, vật chứng phản ánh về những hành vi phạm tội đó,
kể cả việc khám nghiệm tử thi (nếu có). Hoạt động khám nghiệm hiện trường phải
được thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định tại Điều 150 BLTTHS.
+ Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Đây là biện pháp điều tra
bằng cách triệu tập và hỏi những người này các tình tiết liên quan đến vụ án nhằm
làm rõ sự thật của vụ án. Việc lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án phải
thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của Điều 133 đến 137 và các quy định khác
có liên quan của BLTTHS. Lấy lời khai những người tham gia tố tụng này trong vụ
án XPSH có tính chất chiếm đoạt phải đặc biệt chú ý làm rõ thời gian, địa điểm xảy
ra tội phạm; số lượng, chủng loại, đặc điểm tài sản bị chiếm đoạt; nguồn gốc tài sản,
những người biết được nơi cất giữ tài sản…
+ Khởi tố bị can và hỏi cung bị can: Khởi tố bị can là việc cơ quan có thẩm
quyền quyết định khởi tố về hình sự một người khi có căn cứ xác định người đó
thực hiện hành vi phạm tội. Quyết định khởi tố bị can là cơ sở pháp lý cho các hoạt
động điều tra và các biện pháp tố tụng khác để xử lý đối với người phạm tội theo
đúng quy định của pháp luật. Việc khởi tố bị can phải thực hiện nghiêm chỉnh theo
quy định tại các Điều 126, Điều 127, Điều 128 Bộ luật TTHS. Sau khi có quyết

15


định khởi tố bị can, phải tiến hành hỏi cung bị can. Hỏi cung bị can là biện pháp
điều tra bằng cách hỏi trực tiếp người đã bị khởi tố về hình sự với tư cách là bị can.
Để tiến hành hỏi cung bị can cần tiến hành các thủ tục để triệu tập bị can theo quy
định tại các Điều 129, 130 BLTTHS. Việc hỏi cung bị can phải tuân thủ theo đúng
quy định tại Điều 131, 132 BLTTHS.

+ Đối chất: Đối chất là biện pháp điều tra bằng cách tiến hành hỏi hai người
cùng một lúc về cùng một vấn đề có liên quan đến vụ án nhằm làm rõ mâu thuẫn
trong các lời khai của họ. Việc đối chất có thể tiến hành giữa: Bị can với bị can; Bị
can với người bị tình nghi, người bị tạm giữ, người làm chứng, người bị hại; Giữa
người bị hại với người làm chứng; Giữa những người làm chứng với nhau... Hoạt
động đối chất phải tiến hành theo đúng quy định Điều 138 BLTTHS.
+ Nhận dạng: Nhận dạng là biện pháp điều tra được tiến hành bằng cách
đưa người, vật, ảnh để người làm chứng, người bị hại, bị can quan sát nhận xét có
đúng là đối tượng có liên quan đến vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt mà họ đã
biết trước đây hay không. Người nhận dạng có thể là người làm chứng, người bị hại,
bị can... Đối tượng nhận dạng có thể là người sống (nhận dạng về hình dáng, tiếng
nói), tử thi, đồ vật, súc vật, địa điểm, ảnh của các đối tượng này. Hoạt động nhận
dạng phải được tiến hành theo quy định tại Điều 139 BLTTHS.
+ Khám xét: Khám xét là hoạt động điều tra được tiến hành bằng cách tìm
tịi, lục soát trên người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu
kiện, bưu phẩm nhằm phát hiện thu giữ vật chứng, đồ vật tài liệu có liên quan đến
vụ án. Khám xét là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền bất khả xâm phạm về
chỗ ở, đến việc đảm bảo bí mật thư tín, điện thoại, điện tín... Việc khám xét chỉ
được tiến hành khi có căn cứ luật định và phải có lệnh của người có thẩm quyền.
Hoạt động khám xét phải được tiến hành theo quy định tại các Điều 140, 141, 142,
143, Điều 145 và các quy định khác có liên quan của BLTTHS.
+ Thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện: Khi cần thiết
phải thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện thì CQĐT ra lệnh thu
giữ. Lệnh này phải được VKS phê chuẩn trước khi thi hành, trừ trường hợp không

16


thể trì hỗn nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản và sau khi thu giữ phải thông báo
ngay cho VKS cùng cấp biết. Việc thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại

bưu điện phải tiến hành theo Điều 144 BLTTHS.
+ Thực nghiệm điều tra: Thực nghiệm điều tra là biện pháp điều tra bằng
việc CQĐT tổ chức diễn lại hoặc làm thử một hành vi, sự việc, hiện tượng có liên
quan đến việc điều tra làm rõ vụ án trong điều kiện tương tự như lời khai của bị can,
người làm chứng, người bị tạm giữ, người bị hại hay giả thuyết điều tra của CQĐT
để xem hành vi, sự việc, hiện tượng đó có xảy ra hay không và như thế nào. Khi
tiến hành thực nghiệm điều tra phải tuân theo các quy định tại Điều 153 và các quy
định khác có liên quan của BLTTHS.
+ Trưng cầu giám định: Trưng cầu giám định là hoạt động của cơ quan tiến
hành tố tụng được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm trưng
cầu các cơ quan, tổ chức hoặc các nhà chuyên môn sử dụng tri thức khoa học vào
việc nghiên cứu, xem xét, đối chiếu để kết luận về các vấn đề cần kết luận nhằm thu
thập chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết VAHS. Trong các vụ án XPSH có tính
chất chiếm đoạt, hoạt động trưng cầu giám định thường là giám định tài sản bị
chiếm đoạt. Hoạt động trưng cầu giám định và giám định phải được tiến hành theo
quy định tại các Điều 155 đến 159 Bộ luật TTHS.
- Tạm đình chỉ điều tra và kết thúc điều tra.
+ Tạm đình chỉ điều tra: Tạm đình chỉ điều tra là việc CQĐT tạm ngừng
việc tiến hành điều tra đối với cả vụ án hoặc đối với một bị can khi bị can bị bệnh
tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận của hội động giám định y
khoa; khi chưa xác định được bị can hoặc không rõ bị can đang ở đâu hoặc chưa có
kết luận giám định khi hết thời hạn điều tra (Điều 160 Bộ luật TTHS).
+ Kết thúc điều tra: Có hai hình thức kết thúc điều tra vụ án XPSH có tính
chất chiếm đoạt: Đình chỉ điều tra: Hình thức này được tiến hành khi trong quá trình
điều tra, CQĐT có căn cứ xác định khơng có sự việc phạm tội xảy ra, hành vi xảy ra
không cấu thành tội phạm, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc đã chết, hay hết thời hạn điều tra nhưng không

17



chứng minh được bị can phạm tội. Việc đình chỉ điều tra có thể là đình chỉ tồn bộ
vụ án hoặc đình chỉ điều tra đối với từng bị can. Khi đình chỉ điều tra CQĐT làm
bản kết luận điều tra, trong đó nêu rõ q trình điều tra vụ án và căn cứ đình chỉ
điều tra (Điều 164 Bộ luật TTHS). Đề nghị truy tố: Theo quy định tại Điều 163 Bộ
luật TTHS thì khi có đủ chứng cứ chứng minh tội phạm và những người phạm tội,
CQĐT làm bản kết luận điều tra trong đó nêu rõ căn cứ khởi tố vụ án, các quyết
định khởi tố bị can, trình bày diễn biến phạm tội của các bị can, các chứng cứ đã thu
thập được chứng minh hành vi phạm tội của các bị can; Những ý kiến nhận xét và
đề xuất vụ án; Lý do và căn cứ đề nghị truy tố; Lý lịch của các bị can. Kết luận điều
tra do Thủ trưởng CQĐT ký, được chuyển cùng hồ sơ cho VKS và gửi cho các bị
can.Hồ sơ VAHS được chuyển cho VKS đề nghị truy tố bị can trước pháp luật. Hồ
sơ được đánh bút lục từ số 01 đến hết. Khi chuyển hồ sơ sang VKS, CQĐT bàn giao
cả vật chứng cho VKS và phải lập biên bản bàn giao. Mặt khác kiên quyết khơng
phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định khơng có căn cứ, trái pháp luật của Cơ quan
điều tra, góp phần bảo đảm không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội.
Chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra đã có chuyển biến rõ rệt.
1.2. Tổng quan về pháp luật điều chỉnh hoạt động kiểm sát điều tra vụ án
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, nguồn của pháp luật về kiểm sát điều tra vụ án
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Xử lý các hành vi pháp luật và tăng cường KSĐT các vụ án xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế không chỉ là trách nhiệm của VKSND mà là của toàn xã hội. Hoạt
động KSĐT các vụ án XPTTQLKT muốn đạt hiệu quả cao nhất thiết phải được
pháp điển hoá thành các quy phạm, các đạo luật. Mặc dù vậy, hiện nay khái niệm
pháp luật KSĐT các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế vẫn còn những cách
hiểu khác nhau.
Trong những năm qua, đất nước ta đã và đang tiến hành công cuộc công


18


×