Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

(Luận văn thạc sĩ) - THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.55 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG THẮM

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG

Ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS TRẦN THỊ LÂM THI

Hà Nội - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả

Nguyễn Thị Hồng Thắm



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

Trang
1

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

6

Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân.
1.2. Nội dung thực hiện pháp luật về thực hành quyền công tố của
VKSND
1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về THQCT của
VKSND
Chương 2

6

1.1.

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG

Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về thực hành quyền
công tố của Viện KSND tỉnh Cao Bằng

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng.
2.3. Nhận xét, đánh giá.
Chương 3
2.1.

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH
CAO BẰNG

3.1.
3.2.

Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng.
Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về thực hành quyền công
tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng.

KẾT LUẬN

Danh mục tài liệu tham khảo

16
24

32
32
38
51


62
62
65
79
81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS

:

Bợ luật tố tụng hình sự

BLHS

:

Bợ luật hình sự

CQĐT

:

Cơ quan điều tra

ĐTV

:


Điều tra viên

KSĐT

:

Kiểm sát điều tra

KSV

:

Kiểm sát viên

LTCVKSND

:

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

THQCT

:

Thực hành qùn cơng tố

TNHS

:


Trách nhiệm hình sự

TTHS

:

Tố tụng hình sự

VKS

:

Viện kiểm sát

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Tình hình tợi phạm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng giai đoạn
2015 đến năm 2019

35

Bảng 2.2: Bảng số liệu Thực hiện pháp luật về THQCT trong việc

quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn
Bảng 2.3: Kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

39
41

Bảng 2.4: Kết quả thực hiện pháp luật về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn khởi tố vụ án, bị can

43

Bảng 2.5: Kết quả thực hiện pháp luật về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn truy tố

47

Bảng 2.6: Kết quả thực hiện pháp luật về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử

50

Bảng 2.7: Bảng thông kê số vụ VKS trả hồ sơ cho CQĐT điều tra
bổ sung

55


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều 107 Khoản 1 Hiến pháp năm 2013 quy định: Viện kiểm sát nhân

dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp… Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất được Nhà nước
giao thực hiện chức năng này, đây là hai chức năng hiến định. Đồng thời pháp
luật đã quy định cho Viện kiểm sát nhân dân những nhiệm vụ và quyền hạn
để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình mục đích nhằm đảm bảo cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong đó, việc thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố theo đúng quy định của pháp luật
góp phần tích cực trong định hướng điều tra chính xác, đảm bảo cho công tác
khởi tố, bắt giam, giữ, thay thế, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn cũng như ra
các quyết định tố tụng đúng quy định của pháp luật, góp phần xử lý đúng
người, đúng tợi, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Do vậy, để hoạt động thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân có hiệu quả, đáp ứng được
u cầu của cơng cuộc cải cách tư pháp cũng như yêu cầu của cơng c̣c đấu
tranh phòng, chống tợi phạm trong tình hình mới, việc vận dụng và thực hiện
pháp luật về thực hành quyền công tố phải đúng đắn mới phát huy được hiệu
quả và khẳng định được vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống
chính trị của Việt Nam.
Trong những năm gần đây, ngành kiểm sát nhân dân đã khơng ngừng
nỗ lực phấn đấu hồn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao, liên tục truy
tố các vụ án lớn về tham nhũng, kinh tế, chức vụ, các vụ án xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người cũng như các vụ án đối tượng phạm tội sử
dụng công nghệ cao, các vụ án ma túy xuyên quốc gia… được Đảng và Nhà
nước đánh giá cao, nhân dân tin tưởng, ủng hộ. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều
hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về THQCT của hệ thống Viện KSND,
do những nguyên nhân chủ quan, khách quan cần phải được nhận diện và tìm
ra giải pháp khắc phục. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng cũng khơng
nằm ngoại lệ, tuy đã có nhiều cố gắng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được
1



giao, góp phần vào việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hợi và đã
đạt được những thành tích đáng ghi nhận song vẫn chưa thật sự đáp ứng được
các yêu cầu cải cách tư pháp.
Với mong muốn góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận thực hiện
pháp luật về thực hành quyền công tố đồng thời tổng kết, đánh giá kết quả, chỉ ra
những mặt còn hạn chế của hoạt động này tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao
Bằng, từ đó đề xuất giải pháp góp phần bảo đảm hoạt đợng thực hiện pháp luật
về thực hành quyền công tố tại địa phương, học viên xin chọn đề tài “Thực hiện
pháp luật về thực hành quyền công tố từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Cao Bằng” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, thực hiện pháp luật được đặt ra là nhiệm vụ cấp bách của các
cơ quan Đảng, của Nhà nước, xã hợi và tồn thể nhân dân. Để pháp luật phát
huy được hết hiệu quả là công cụ quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, thì thực
hiện pháp luật phải được quan tâm, đảm bảo. Có nhiều cơng trình nghiên cứu
về thực hiện pháp luật trên nhiều lĩnh vực khác nhau như:
- “Thực hiện pháp luật về hịa giải ở cơ sở ở Bình Thuận hiện nayThực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ Luật học của Lê Trung Quân,
Học viện chính trịnh Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2004.
- “Thực hiện pháp luật trong hoạt động của lực lượng Công an nhân dân
để bảo vệ trật tự, an toàn xã hội ở nước ta hiện nay”, Luận án phó tiến sỹ Luật
học của Đỗ Tiến Triển, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 1996.
- “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa”, Luận văn thạc sỹ Luật học của Lại Thế Nguyên, Học viện chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh năm, 2014.
- “Thực hiện pháp luật về khiếu nại hành chính trong lĩnh vực đất đai
trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên, Việt Nam”, Luận án tiến sỹ của Lê Duyên
Hà, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2017.
- “Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ
của Trần Thị Quốc Khánh, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2017.
- “Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường Nhà nước do công

2


chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra ở Việt Nam”, Luận văn tiến sỹ của
Nguyễn Đỗ Kiên, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2014.
- "Vai trò của dư luận xã hội đối với việc thực hiện pháp luật ở nước ta
hiện nay", Luận văn Thạc sỹ của Tạ Thị Thu Hường, năm 2009.
- "Một số vướng mắc, bất cập của BLTTHS năm 2015" của tác giả
Nguyễn Văn Chung đăng trên Tạp chí Tòa án số 7 năm 2016.
- Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật- Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2015.
- Lê Thị Tuyết Hoa (2005), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ
luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Lượng, Áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Bắc
Giang, Luận văn thạc sỹ luật, năm 2012.
- T.S Lê Hữu Thể : Bàn về khái niệm quyền công tố, Tạp chí Kiểm Sát
các số 8, 9 năm 2000.
Các cơng trình nghiên cứu nói trên đã có những đóng góp nhất định
trong thực hiện pháp luật trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hợi,
song chưa có cơng trình nào nghiên cứu đề tài thực hiện pháp luật về thực
hành quyền công tố gắn với thực tiễn tại viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao
Bằng. Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Thực hiện pháp luật về thực hành quyền
công tố từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng” là không trùng
lặp với công trình nghiên cứu nào khác và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất mợt số giải pháp nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về thực hành quyền cơng
tố của VKSND nói chung và VKSND tỉnh Cao Bằng nói riêng.

3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của thực hiện pháp luật
về thực hành qùn cơng tố của VKSND
- Phân tích làm rõ những đặc điểm của địa bàn tỉnh Cao Bằng có liên
3


quan đến hoạt động thực hiện pháp luật về thực hành quyền công tố của
VKSND tỉnh Cao Bằng
- Đánh giá thực trạng và chỉ ra những hạn chế, bất cập cũng như
nguyên nhân của hạn chế, bất cập trong thực hiện pháp luật về thực hành
quyền công tố của VKSND tỉnh Cao Bằng.
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm hiệu quả hoạt động thực hiện pháp luật
về thực hành qùn cơng tố của cơ quan VKSND nói chung và tỉnh Cao Bằng
nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về thực
hiện pháp luật về thực hành quyền công tố và thực trạng thực hiện trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp
luật về thực hành quyền công tố của VKSND tỉnh Cao Bằng trong phạm vi thời
gian từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mac-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chính sách của Đảng,
Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp qùn Xã hợi chủ nghĩa về chính sách
hình sự, về chiến lược cải cách tư pháp.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp như phân
tích, tổng hợp để làm rõ thực trạng thực hiện pháp luật về thực hành quyền công
tố của VKSND tỉnh Cao Bằng, phương pháp thống kê, so sánh làm rõ kết quả

thực hiện pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về thực
hiện pháp luật về thực hành quyền công tố, từ đó nâng cao hơn nữa nhận thức
của cán bợ, kiểm sát viên VKSND tỉnh Cao Bằng trong quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Các giải pháp luận văn đưa ra nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế
trong việc thực hiện pháp luật về THQCT của VKSND tỉnh Cao Bằng có thể làm
4


tài liệu tham khảo cho các cán bộ, kiểm sát viên tham khảo, rút kinh nghiệm mặt
còn tồn tại hạn chế, bất cập, đồng thời áp dụng các giải pháp mà luận văn đưa ra
để bảo đảm việc thực hiện pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án cụ thể.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy cho học
viên, sinh viên các cơ sở đào tạo nghiên cứu khoa học Luật; là tài liệu tham
khảo cho Kiểm sát viên các cấp tỉnh Cao Bằng nghiên cứu áp dụng trong hoạt
động thực tiễn nhằm nâng cao trình đợ lý luận và thực tế cơng tác thực hiện
pháp luật về thực hành quyền công tố.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về THQCT của
VKSND.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về THQCT của VKSND tỉnh
Cao Bằng.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về
THQCT của VKSND tỉnh Cao Bằng.

5



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN.

1.1.1 Khái niệm thực hiện pháp luật về thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân.
* Khái niệm Thực hành quyền công tố:
Quyền công tố là quyền của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện
việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội nhằm đưa người đó ra xét xử
trước Tòa án và đồng thời bảo vệ sự ḅc tợi đó. Khoản 1, Điều 107 Hiến
pháp 2013 có quy định: "VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp" và Điều 2 Luật Tổ chức VKSND 2014 cũng quy định
"VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của
nước CHXHCN Việt Nam". Như vậy, Thực hành quyền công tố là một trong
hai chức năng hiến định của VKSND.
Trong khoa học pháp lý hiện nay tồn tại nhiều quan niệm về quyền
công tố. Theo nghĩa hẹp, quyền công tố bắt đầu sau khi Cơ quan điều tra
(hoặc Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) kết
thúc việc điều tra tội phạm, ban hành bản kết luận điều tra và chuyển tồn bợ
hồ sơ vụ án hình sự sang VKS đề nghị truy tố. Thực hiện qùn cơng tố chính
là việc Viện kiểm sát thực hiện truy tố người phạm tội ra trước Tòa án bằng
bản Cáo trạng. Quyền công tố kết thúc sau khi Tòa án ra bản án (quyết định)
có hiệu lực pháp luật đối với người phạm tợi [27]. Hiện nay có các quan điểm
về phạm vi của quyền công tố như sau:
Quan điểm 1: Quyền công tố được bắt đầu sớm hơn, ngay từ khi Cơ
quan điều tra (hoặc Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra)
tiến hành các hoạt động điều tra tội phạm và kết thúc sau khi Tòa án xét xử, ra

6


bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đối với người phạm tội. Như vậy
thực hành quyền công tố được thực hiện trong cả giai đoạn điều tra, truy tố,
xét xử người thực hiện hành vi phạm tội [31]. Hiểu theo nghĩa này thì qùn
cơng tố được bắt đầu từ sau khi khởi tố vụ án (nghĩa là từ giai đoạn CQĐT
tiến hành các hoạt đợng điều tra thì quyền công tố đã xuất hiện).
Quan điểm 2: Quyền công tố bắt đầu từ giai đoạn VKS thụ lý giải quyết
vụ án (tức là khi CQĐT hoàn thành việc điều tra), chuyển hồ sơ và bản kết luận
điều tra sang cho VKS để nghiên cứu xem xét ban hành quyết định truy tố.
Quan điểm 3: Quyền công tố bắt đầu từ khi tiếp nhận, giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm. Nghĩa là quyền công tố được bắt đầu sớm hơn, VKS
thực hiện quyền này từ giai đoạn CQĐT tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác,
lúc này CQĐT chưa khởi tố vụ án mà chỉ thực hiện các biện pháp xác minh
để giải quyết tin báo, tố giác về tợi phạm để xác định có hành vi phạm tội xảy
ra hay không, xác định người phạm tội.
Quan điểm của tác giả: Tác giả đồng tình với quan điểm thứ ba, quan
điểm này cũng đã được luật hóa, cụ thể theo quy định tại Điều 159 BLTTHS
năm 2015 đã ghi nhận quyền công tố của Viện kiểm sát được bắt đầu từ giai
đoạn tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố. Thời
điểm này chưa khởi tố vụ án, khởi tố bị can mà chỉ là giai đoạn tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm. Các hoạt động thực hành quyền công tố ở
giai đoạn này bao gồm: Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế
quyền con người, quyền công dân...Ở Việt Nam, quyền công tố được giao cho
Cơ quan duy nhất là Viện kiểm sát nhân dân, đồng thời trong tố tụng hình sự
Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất tham gia đầy đủ các giai đoạn tố tụng. Khi
việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm được coi là "mợt giai đoạn" của tố
tụng hình sự thì Viện kiểm sát thực hành quyền công tố sớm hơn chứ không

phải bắt đầu từ khi điều tra vụ án. Việc Viện kiểm sát vào cuộc sớm hơn, bắt
7


đầu từ giai đoạn tiếp nhận giải quyết tin báo, tố giác tội phạm đã khẳng định
được chức năng Thực hành qùn cơng tố của Viện kiểm sát có ý nghĩa quan
trọng trong việc phân loại, xử lý nguồn tin về tội phạm. Thực hiện được tốt
khâu công tác này là yếu tố quyết định đến việc khởi tố đúng người phạm tội,
không làm oan người vô tội hay bỏ lọt tợi phạm, hạn chế thấp nhất việc bắt
giữ hình sự chủn xử lý hành chính vì khơng chứng minh được hành vi
phạm tội và ngược lại. Như vậy, phạm vi của thực hành quyền công tố từ giai
đoạn kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tợi phạm và kiến nghị
khởi tố được luật hóa và quy định cụ thể trong Bợ luật hình sự năm 2015.
BLTTHS năm 2015 đã có các điều luật quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND, theo đó VKSND thực hành quyền công tố trong 4 giai đoạn
tố tụng. Cụ thể: THQCT trong giai đoạn khởi tố quy định tại Điều 159
BLTTHS, THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án được quy định tại Điều 165
BLTTHS, THQCT trong giai đoạn truy tố quy định tại Điều 236; và THQCT
trong giai đoạn xét xử quy định tại Điều 266. Qua đó, có thể xác định THQCT
của VKSND bao gồm những nợi dung sau:
- Bắt đầu thực hành quyền công tố từ quá trình xác minh, điều tra đối với sự
kiện phạm tội (căn cứ để tiến hành khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự);
- Viện kiểm sát phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định KTBC của
Cơ quan điều tra (hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra) hoặc VKS trực tiếp ra quyết định KTBC đối với người thực
hiện hành vi phạm tội;
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra, khi xét thấy
cần thiết, VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra; trong trường hợp xét
thấy hành vi của điều tra viên có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì Viện kiểm sát yêu
cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi ĐTV theo quy định của pháp luật.

- Viện kiểm sát quyết định việc áp dụng hay không áp dụng một số biện
pháp hạn chế quyền, tự do của cá nhân người phạm tội (như phê chuẩn việc bắt,
8


gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc thực hiện các biện pháp ngăn chặn khác); Nếu
xét thấy các quyết định trên của CQĐT khơng có căn cứ và trái pháp luật thì có
qùn hủy bỏ.
- Trực tiếp tiến hành mợt số hoạt động điều tra trong các trường hợp cần
thiết như kiểm tra chứng cứ, bổ sung tài liệu, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung
mà thấy không cần thiết phải trả hồ sơ cho CQĐT...
- VKS ra quyết định truy tố, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án đối
với bị can, quyết định phục hồi vụ án...
- Hoạt động hực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử gồm công bố
cáo trạng và các quyết định khác về buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa. (hoặc
trình bày ý kiến về nợi dung kháng cáo, kháng nghị trong xét xử phúc thẩm);
Luận tội, xét hỏi, tranh luận và nêu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án
tại phiên tòa; Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp oan
sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
Như vậy, nội dung quyền công tố là sự buộc tội; thực hành quyền công
tố thực chất là hoạt động của Viện KSND để thực hiện việc buộc tội của Nhà
nước đối với người phạm tội. Quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực TTHS,
được thực hiện ngay từ khi giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Nếu mục tiêu của hoạt động kiểm sát là bảo đảm cho pháp luật được thực
hiện, được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất thì mục tiêu của cơng tố là
tập trung vào việc phát hiện, điều tra, truy tố, buộc tội một cách chính xác,
nhanh chóng, kịp thời, khơng để xảy ra oan sai, bỏ lọt tợi phạm.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm:
Quyền công tố là quyền của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện

việc truy cứu TNHS đối với cá nhân, tổ chức phạm tội nhằm đưa cá nhân, tổ
chức đó ra xét xử trước Tòa án và đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó.
Thực hành quyền cơng đó là việc thực hiện các hành vi tố tụng cần
9


thiết theo quy định của pháp luật TTHS để truy cứu TNHS cá nhân, tổ chức
phạm tội, đưa cá nhân, tổ chức phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự
buộc tội đó.
* Khái niệm thực hiện pháp luật:
Thực hiện pháp luật nghĩa là việc một chủ thể làm đúng những quy định
của pháp luật; là quá trình chuyển các quy định của pháp luật vào thực tiễn c̣c
sống xã hợi, là hoạt đợng nhằm mục đích làm cho các quy phạm pháp luật được
thực hiện trong thực tế. Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luậtKhoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nợi: "thực hiện pháp luật là mợt q trình hoạt
đợng có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống trở
thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật". [30]
Các hình thức thực hiện pháp luật gồm có tn thủ pháp luật; thi hành pháp
luật; sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Tn thủ pháp luật: là mợt hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Ở
hình thức thực hiện này đòi hỏi chủ thể thực hiện nghĩa vụ một cách thụ động,
thực hiện các quy phạm pháp luật dưới dạng không hành đợng.
Thi hành pháp luật: là mợt hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành đợng tích cực.
Sử dụng pháp luật: là mợt hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ
thể thực hiện pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện các hành vi
pháp luật cho phép).
Áp dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà
nước thơng qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức
cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình

căn cứ vào những quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh,
thay đổi, đình chỉ, hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
THQCT là hoạt động nhân danh nhà nước thực hiện quyền buộc tội của
của cơ quan kiểm sát đối với người phạm tợi. Do đó, thực hành qùn cơng tố của
10


VKSND chính là mợt trong những hình thức thực hiện pháp luật thông qua hoạt
động áp dụng pháp luật.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu thực hiện pháp luật về thực hành
quyền công tố như sau: Thực hiện pháp luật về thực hành quyền công tố là
hoạt động của VKSND để đưa những quy định của pháp luật TTHS về thực
hành quyền công tố được thực hiện trong thực tế nhằm đảm bảo mọi hành vi
phạm tội, cá nhân, tổ chức phạm tội phải được phát hiện và xử lý kịp thời,
nghiêm minh, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân.
Một là, Thực hiện pháp luật về thực hành quyền cơng tố là hoạt động mang
tính quyền lực nhà nước, chỉ diễn ra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Hoạt đợng cơng tố và hoạt đợng kiểm sát là hai hoạt động khác nhau,
nhằm thực hiện hai chức năng hiến định của VKS đó là "Thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp". Hoạt động công tố là hoạt động thực
thi quyền lực, pháp luật quy định cho VKS các nhiệm vụ và quyền hạn nhằm
thực hiện quyền truy cứu trách nhiệm hình sự của Nhà nước, tức là phát hiện,
điều tra, truy tố, buộc tội cá nhân, tổ chức phạm tội một cách chính xác, kịp
thời, khơng để xảy ra oan sai và bỏ lọt tội phạm. Như vậy hoạt động công tố
của VKS gắn liền với hoạt động điều tra, hoạt động công tố dựa trên các
chứng cứ thu thập được trong qúa trình điều tra.
Nếu kiểm sát hoạt đợng tư pháp xuất hiện trong cả quá trình giải quyết
vụ án hình sự, các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế, lao đợng... với tính chất

"Việc dân sự cốt ở đơi bên", có các ngun tắc như tơn trọng qùn tự định
đoạt của đương sự... thì các hoạt đợng thực hành quyền công tố chỉ xuất hiện
duy nhất trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Do vậy, thực hiện pháp
luật về thực hành quyền công tố mang tính quyền lực rất cao. Pháp luật quy
định cho VKSND một hệ thống các quyền năng pháp lý rộng lớn, trong đó
quyền nhân danh nhà nước truy tố người phạm tội ra trước tòa án để xét xử là
11


qùn duy nhất chỉ có ở VKSND và là mợt trong những quyết định trong q
trình thực hành qùn cơng tố. Các quyết định hạn chế quyền con người,
quyền công dân như lệnh bắt khẩn cấp, lệnh tạm giam, lệnh gia hạn tạm giữ,
quyết định KTBC... như đã nêu trên đều phải có phê chuẩn của VKSND. Việc
thay thế, hủy bỏ các lệnh, quyết định đó đều do cơ quan duy nhất thực hiện là
VKSND. Do vậy, việc thực hiện pháp luật về thực hành quyền công tố cần
triệt để, nghiêm minh, thận trọng, khách quan... bởi lúc này VKSND có qùn
sử dụng các qùn năng pháp lý của mình do pháp luật hình sự và tố tụng
hình sự quy định để truy cứu TNHS đối với người phạm tội.
Hai là, Thực hiện pháp luật về THQCT là hoạt động thuộc thẩm quyền duy
nhất của VKSND.
Nếu chủ thể thực hiện pháp luật trong hoạt đợng điều tra vụ án hình sự
được giao cho nhiều Cơ quan điều tra khác nhau như: Cơ quan điều tra của
Công an nhân dân (Cơ quan An ninh điều tra của Bộ Công an, Cơ quan cảnh
sát điều tra của Bộ Công an...Cơ quan An ninh điều tra của tỉnh; Cơ quan
cảnh sát điều tra cấp tỉnh, Cơ quan cảnh sát điều tra cấp huyện); CQĐT trong
Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
thì chủ thể thực hiện pháp luật thực hành quyền công tố chỉ duy nhất là
VKSND (các vụ được giao chức năng THQCT của VKSND tối cao, VKSND
tỉnh và VKSND cấp huyện, ngoài ra có VKS quân sự các cấp...). Người thực
hiện các quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố là Kiểm sát viên,

và do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao lãnh đạo tập trung, thống
nhất.
Ba là, Quan hệ pháp luật THQCT giữa VKSND với các chủ thể có sự
khác biệt lớn.
Khi Thực hiện pháp luật về THQCT, một bên chủ thể là cơ quan kiểm
sát, còn chủ thể phía bên kia trong quan hệ pháp luật là cơ quan nhà nước có
thẩm quyền (CQĐT, Tòa án...) hoặc cá nhân, tổ chức có hành vi phạm tợi.
Quan hệ pháp luật trong q trình THQCT đối với các cơ quan nhà nước có
12


thẩm quyền được thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật và mối quan hệ
phối hợp phát sinh trong quá trình cả hai cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn theo luật định để hỗ trợ, chế ước lẫn nhau cùng mục đích giải
quyết vụ án hình sự. Đối với chủ thể là cá nhân (hoặc tổ chức) phạm tội, là
đối tượng đã bị hạn chế mộ số quyền cơ bản của công dân, do vậy quan hệ
phát sinh đối với các chủ thể này là quan hệ mệnh lệnh và chấp hành mệnh
lệnh theo quy định của pháp luật.
Bốn là, Thực hiện pháp luật về thực hành quyền cơng tố được tiến hành
theo các trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ, cá biệt hóa các quy định của pháp
luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự vào các trường hợp, đối tượng cụ thể
Bản chất của hoạt động thực hành quyền công tố là nhằm đưa người
phạm tội ra xét xử. Trong quá trình THQCT từ giai đoạn giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố cho đến giai đoạn xét xử, các quyết
định của các cơ quan tiến hành tố tụng được ban hành trong giai đoạn này đều
tác động trực tiếp đến các quyền con người, quyền công dân của người phạm
tội, họ là chủ thể bị pháp luật hình sự điều chỉnh thơng qua các hoạt động áp
dụng pháp luật của các Cơ quan tiến hành tố tụng nhằm mục đích đưa họ ra
tòa xét xử về tội phạm đã thực hiện. Như vậy, các quyết định này ảnh hưởng
trực tiếp đến các quyền cơ bản, thậm chí là quyền sống, ảnh hưởng đến sinh

mạng chính trị của mợt con người. Vì vậy, đòi hỏi hoạt đợng đó phải được
tiến hành theo mợt trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ, cụ thể, đồng thời phải áp
dụng quy định của pháp luật đối với mỗi loại tội phạm cụ thể, với một người
phạm tội cụ thể để đưa ra những quyết định áp dụng pháp luật chính xác, có
căn cứ, mợt mặt khơng xâm phạm đến các quyền con người, quyền công dân
của người phạm tội, mặt khác đảm bảo mọi hành vi phạm tợi, người phạm tợi
phải được xử lý nhanh chóng, nghiêm minh.
Việc thực hiện triệt để, nghiêm minh, khách quan các quy định của
pháp luật về thực hành quyền công tố theo các trình tự, thủ tục chặt chẽ còn
có ý nghĩa quyết định đến việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
13


không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.
1.1.3. Vai trò thực hiện pháp luật về thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát nhân dân.
Thực hiện pháp luật về thực hành qùn cơng tố của VKSND có vai trò
chung là góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất qua đó bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, qùn cơng
dân. Vai trò đó được cụ thể hóa ở những nội dung sau:
Một là, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và
xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Hoạt động tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự chính là việc đi
ngược lại thời gian để tìm ra sự thật khách quan của vụ án, nhưng nhận thức của
con người có hạn, theo thời gian những dấu vết, chứng cứ chứng minh hành vi
phạm tội đã không còn nguyên vẹn hoặc mất đi, việc tìm ra sự thật khách quan
của vụ án là vơ cùng khó khăn... trong khi đó VKSND là cơ quan duy nhất được
giao chức năng THQCT: "Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với
người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

và kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử". Mục đích của
hoạt đợng THQCT là bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được
phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật, không
bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vơ tợi. Theo đó, pháp luật quy định cho
VKSND hệ thống các nhiệm vụ, quyền hạn, là công cụ, phương tiện để VKS thực
hiện chức năng. Do vậy, VKS có nghĩa vụ và trách nhiệm phải thực hiện các quy
định đó mợt cách nghiêm chỉnh, đúng đắn, đảm bảo tn thủ trình tự, thủ tục pháp
luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Bởi khơng mợt cơ quan nào có thể thay
thế VKS THQCT trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hay phê
chuẩn việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn... do vậy, VKS phải bảo đảm, phải
trông nom, phải thực hiện cho tốt, có vậy mới đạt được mục đích mọi hành vi
phạm tội được phát hiện kịp thời, nghiêm minh, đúng người đúng tội, đúng pháp
14


luật, không làm oan người vô tội, đồng thời không để lọt tội phạm.
Hai là, Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn
chế các quyền cơng dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh
dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật
Trong mỗi giai đoạn THQCT từ giai đoạn khởi tố đến giai đoạn xét
xử, VKS được giao những nhiệm vụ khác nhau nhưng đều hướng tới mục
đích bảo đảm mọi hành vi phạm tợi đều phải được khởi tố, điều tra, xét xử
kịp thời, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đồng thời
không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các
quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm một cách trái pháp luật. Đây chính là mợt chế định thể hiện vai trò bảo
vệ quyền con người, quyền công dân của VKSND thông qua các hoạt đợng
THQCT. Mục đích của việc áp dụng một số biện pháp hạn chế quyền con người,
quyền công dân là bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ quyền lợi ích của bị hại, người
liên quan... nhưng cũng cần chú ý bảo vệ quyền, lợi ích của đối tượng bị áp dụng.

Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố... trái pháp luật sẽ dẫn đến hậu quả oan, sai,
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ, ảnh hưởng đến sinh mạng chính trị
của mợt con người, làm giảm uy tín của nhà nước, làm giảm lòng tin của nhân dân
vào các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố... là yêu
cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và phải kiên quyết thực hiện,
nhưng không được phép tùy tiện, khơng thể viện bất cứ mợt lý do gì mà áp dụng
các biện pháp đó mợt cách tràn lan, khơng có căn cứ, sai đối tượng, sai mục đích...
làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Do vậy, VKSND có trách nhiệm bảo đảm bất cứ trường hợp nào bị bắt,
tạm giữ, tạm giam, bị khởi tố... phải có đủ các yếu tố: đúng người, đúng hành vi,
tuân thủ đúng quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục...
Ba là, Việc truy cứu TNHS đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp
luật.
Truy cứu THNS là việc áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự vào
15


các giai đoạn giải quyết vụ án hình sự từ khởi tố đến xét xử nhằm mục đích
ḅc người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm về hành vi
mình đã gây ra thơng qua hình phạt tương ứng. Trong quá trình truy cứu
trách nhiệm hình sự người có tợi ra trước tòa án nhân dân để xét xử, cơ
quan chứng minh tội phạm là CQĐT, trực tiếp là Điều tra viên, cơ quan có
quyền THQCT là VKS mà trực tiếp là kiểm sát viên; Hoạt động của các
chủ thể này đều chịu sự điều chỉnh của BLTTHS và để làm rõ các vấn đề
cần chứng minh được quy định tại Điều 85 BLTTHS: Có hành vi phạm tợi
xảy ra hay khơng? nếu có thì hành vi đó phạm vào tợi danh gì? Hành vi đó
được quy định trong điều khoản nào của BLHS? Người thực hiện tội phạm là
ai? CQĐT tiến hành các thủ tục điều tra có đúng theo quy định của BLTTHS
hay khơng... Các hoạt đợng đó nhằm mục đích xác định chính xác tợi phạm
và người phạm tợi, từ đó ban hành được các quyết định áp dụng pháp luật

trong quá trình truy cứu TNHS bị can có căn cứ, chính xác, đảm bảo đúng
ngưới, đúng tợi, đúng quy định của pháp luật, ví dụ như quyết định phê chuẩn
khởi tố bị can, phê chuẩn lệnh tạm giam bị can, yêu cầu điều tra...
1.2 . NỘI DUNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN.

Căn cứ vào quy định của Bộ luật TTHS năm 2015; Quyết định số
169/QĐ -VKSTC ngày 02/5/2018 ban hành Quy chế tạm thời công tác thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố; Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017
ban hành Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc
khởi tố, điều tra và truy tố; Quyết định số 170/QĐ-VKSTC ngày 02/5/2018
ban hành Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và giám
định (hiện đã được thay thế bởi Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày
17/4/2020 ban hành Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc
khởi tố, điều tra và truy tố). Theo đó thực hiện pháp luật về THQCT sẽ có các
16


nội dung sau:
1.2.1. Thực hiện pháp luật về thực hành quyền công tố trong việc
áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
Các biện pháp ngăn chặn trong TTHS được quy định tại Mục I chương
VII BLTTHS năm 2015 bao gồm: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Bắt
người (Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả
tang, bắt người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị
yêu cầu dẫn độ); biện pháp tạm giữ; Tạm giam; Bảo lĩnh; Đặt tiền để bảo
đảm; Cấm đi khỏi nơi cư trú; Tạm hoãn xuất cảnh.
Các biện pháp cưỡng chế trong TTHS được quy định tại Mục II chương

VII BLTTHS năm 2015 bao gồm: Áp giải, dẫn giải; Kê biên tài sản; phong
tỏa tài khoản;
Nội dung Thực hiện pháp luật về THQCT trong việc áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế bao gồm:
Thứ nhất: Xét, phê chuẩn việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, Việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn, biện pháp chưỡng chế như: lệnh bắt khẩn cấp, lệnh gia hạn
tạm giữ, lệnh bắt bị can để tạm giam, tạm giam bị can, biện pháp đặt tiền hoặc
tài sản có giá trị để bảo đảm thay thế biện pháp tạm giam phải được Viện
kiểm sát Nhân dân phê chuẩn. Đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và
biện pháp tạm hoãn xuất cảnh thì VKS khơng phê chuẩn, mà xét thấy khơng
đủ căn cứ thì VKS yêu cầu CQĐT hủy bỏ việc áp dụng, nếu CQĐT khơng
thực hiện thì VKS mới ra quyết định hủy bỏ việc áp dụng biện pháp đó.
Như vậy, khi xét phê chuẩn việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế, KSV phải kiểm tra tài liệu, chứng cứ đã thu thập được đã có
đủ căn cứ để phê chuẩn không, các quyết định của CQĐT có được ban hành
đúng thẩm qùn khơng... ví dụ: Căn cứ phê chuẩn bắt người bị giữ trong
17


trường hợp khẩn cấp tại Điều 110 BLTTHS; căn cứ phê chuẩn lệnh tạm giam
đối chiếu tại các Điều 113, 119, 173 BLTTHS ... Nếu thấy chưa đủ căn cứ để
xét phê chuẩn thì VKS phải yêu cầu CQĐT bổ sung tài liệu, chứng cứ.
Trường hợp cần thiết như người bị giữ, bị bắt không nhận tội KSV phải trực
tiếp lấy lời khai của họ trước khi đề xuất lãnh đạo Viện phê chuẩn. Việc xét
phê chuẩn lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải thực hiện trong thời
hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị của CQĐT, việc phê chuẩn lệnh
tạm giam, lệnh bắt tạm giam được thực hiện trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày
nhận được hồ sơ đề nghị hoặc tài liệu bổ sung. Nếu xét thấy lệnh bắt khẩn

cấp, lệnh gia hạn tạm giữ, lệnh bắt bị can để tạm giam, tạm giam bị can... là
khơng có căn cứ hoặc khơng cần thiết thì Viện kiểm sát nhân dân có quyền từ
chối phê chuẩn, người bị tạm giữ, tạm giam phải được trả tự do ngay. Đây là
nội dung thẩm quyền hết sức quan trọng của VKSND. Thực hiện tốt việc xét
phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam sẽ thể hiện rõ trách nhiệm pháp lý của
Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công
dân theo quy định của pháp luật.
Thứ hai: Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền điều tra hủy bỏ hoặc thay thế
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn hoặc VKS ra quyết định hủy bỏ, thay thế.
Điều 125 BLTTHS quy định về hủy bỏ Biện pháp ngăn chặn: "1. Mọi
biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng phải được hủy bỏ khi thuộc một
trong các trường hợp: a) quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự; b) đình chỉ
điều tra, đình chỉ vụ án; c) đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối
với bị can; d) bị cáo được tịa tun khơng có tội, miễn trách nhiệm hình sự,
miễn hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng án treo, hoặc hình phạt cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo khơng giam giữ....".
Theo đó VKS thực hiện quyền yêu cầu CQĐT hủy bỏ hoặc thay thế
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong các trường hợp sau: đối với trường
hợp việc áp dụng biện pháp ngăn chặn khơng do VKS phê chuẩn thì VKS sẽ
18


ban hành văn bản yêu cầu CQĐT có thẩm quyền điều tra ra quyết định hủy
bỏ; trường hợp CQĐT ra quyết định hủy bỏ nhưng VKS thấy khơng có căn cứ
thì VKS sẽ yêu cầu CQĐT hủy bỏ quyết định khơng có căn cứ đó.
VKS ra quyết định hủy bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn trong các
trường hợp: CQĐT không thực hiện các yêu cầu hủy bỏ hoặc thay thế biện
pháp ngăn chặn của VKS; trường hợp quyết định áp dụng biện pháp ngăn
chặn do VKS phê chuẩn thì VKS sẽ ra quyết định hủy bỏ.
1.2.2. Thực hiện pháp luật về thực hành quyền công tố trong việc

khởi tố
Thứ nhất: Thực hiện pháp luật về THQCT trong việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố:
Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, và kiến nghị khởi tố
được coi là một giai đoạn tố tụng, mở đầu cho các hoạt đợng tố tụng hình sự.
Đây là giai đoạn xác định có hay khơng có tợi phạm xảy ra, quyết định khởi
tố hay khơng khởi tố vụ án hình sự. Do vậy, VKSND phải ln chủ đợng, tích
cực, đồng hành với hoạt động của cơ quan điều tra trong việc tiếp nhận, phân
loại tố giác, tin báo về tội phạm, nếu thấy tin báo khơng tḥc thẩm qùn thì
phải chủn ngay đến cơ quan có thẩm quyền thụ lý giải quyết. Theo quy
định tại Điều 159, Điều 161 BLTTHS năm 2015, hoạt động THQCT của
VKSND ở giai đoạn này bao gồm: xem xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp hạn chế quyền con
người, quyền công dân; gia hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm; hủy bỏ các quyết định tạm giữ, khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình
sự, quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin; Yêu cầu CQĐT khởi tố vụ
án hình sự...
Trong trường hợp thấy cần phải kiểm tra tính xác thực của nguồn tin về
tội phạm, thu thập các tài liệu, chứng cứ để làm rõ các tình tiết liên quan đến
các vấn đề cần chứng minh thì KSV đề ra yêu cầu xác minh.
19


Khi có căn cứ quy định tại điểm c khoản 3 Điều 145 BLTTHS năm 2015
thì VKS có qùn trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm: Cơ quan có
thẩm quyền điều tra vi phạm pháp luật nghiêm trong trong hoạt đợng kiểm tra,
xác minh, có dấu hiệu bỏ lọt tợi phạm thì VKS phải có văn bản yêu cầu CQĐT
có thẩm quyền khắc phục vi phạm. Nếu VKS đã u cầu mà CQĐT khơng khắc
phục thì VKS dẽ trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo tợi phạm đó.
Trong q trình THQCT việc giải quyết tố giác, tin báo về tợi phạm,

VKS có qùn gia hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố. Việc gia hạn được thực hiện theo quy định tại Điều 147
BLTTHS, theo đó được gia hạn giải quyết tố giác tin báo tội phạm và kiến
nghị khởi tố một lần không quá 2 tháng.
Thứ hai: Thực hiện pháp luật về THQCT trong việc khởi tố VAHS:
Để phát sinh quy trình tố tụng hình sự giải quyết vụ án hình sự, CQĐT
phải ra quyết định khởi tố vụ án. Theo đó khi nhận được quyết định khởi tố
vụ án của CQĐT, VKS có quyền yêu cầu nếu:
+ Chưa rõ căn cứ để khởi tố vụ án thì VKS u cầu cơ quan có thẩm
qùn điều tra bổ sung tài liệu chứng cứ để làm rõ ;
+ Yêu cầu cơ quan đã ra quyết định khởi tố VAHS hủy bỏ quyết định
khởi tố vụ án không có căn cứ hoặc VKSND trực tiếp thực hiện việc hủy bỏ
quyết định khởi tố vụ án nếu thấy không có căn cứ khởi tố vụ án;
+ Nếu thấy tợi phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tợi hoặc
còn có tợi phạm khác chưa được khởi tố thì VKS có qùn u cầu CQĐT đã
ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố VAHS; Nếu CQĐT
khơng thực hiện thì VKS tự mình ra quyết định thay đổi, bổ sung quyết định
khởi tó vụ án.
+ Nếu thấy quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án của CQĐT
khơng có căn cứ thì VKS ra văn bản yêu cầu CQĐT hủy bỏ quyết định đó. Nếu
CQĐT khơng ra quyết định hủy bỏ thì VKS trực tiếp ra quyết định hủy bỏ quyết
20


×