Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm, SKKN - Dạy học đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.2 KB, 56 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................1
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát .................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................2
5. Đóng góp mới của đề tài..............................................................................................2
6. Kết cấu đề tài ...............................................................................................................2
NỘI DUNG .....................................................................................................................3
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI ..........................................................3
1.1. Dạy học đọc hiểu văn bản văn học trong chương trình Ngữ văn THPT ..................3
1.2. Dạy học đọc hiểu văn bản văn học theo định hướng phát triển phẩm chất và năng
lực của người học ............................................................................................................4
1.3 Thực trạng dạy học đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu trong nhà trường phổ
thông ................................................................................................................................5
1.3.1. Diện mạo và đặc điểm của văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ
văn trung học phổ thơng ..................................................................................................5
1.3.2. Dạy học đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu - nhìn từ định hướng sách
giáo khoa và hướng dẫn giảng dạy .................................................................................7
1.3.3. Hướng tiếp cận các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn
trung học phổ thông của giáo viên và học sinh .............................................................10
Chương 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC ĐỌC
HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC PHI HƯ CẤU .............................................................12
2.1. Đặc điểm nghệ thuật của văn bản văn học phi hư cấu ...........................................12
2.2. Tổ chức hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu trong chương
trình Ngữ văn THPT ......................................................................................................13
2.2.1. Hướng dẫn học sinh tự đọc văn bản....................................................................13
2.2.2. Gợi mở cho học sinh các hướng tích hợp văn bản văn học phi hư cấu ..............14
2.2.3. Gợi mở học sinh khám phá giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của văn bản ....................17
2.3. Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo ................................................................24
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ..................................................................25


3.1. Giới thiệu chung .....................................................................................................25
3.1.1. Mục đích thực nghiệm .........................................................................................25
3.1.2. Nhiệm vụ thực nghiệm .........................................................................................26
3.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm .........................................................26
3.2.1. Lựa chọn địa bàn thực nghiệm ............................................................................26
3.2.2. Lựa chọn đối tượng thực nghiệm ........................................................................26
3.3. Nội dung thực nghiệm ............................................................................................27
3.3.1. Nguyên tắc thiết kế giáo án và giáo án thực nghiệm ..........................................27
3.3.2. Tổ chức dạy thực nghiệm.....................................................................................42
3.4. Kết quả thực nghiệm...............................................................................................43
3.4.1. Kết quả định tính .................................................................................................43
3.4.2. Kết quả định lượng ..............................................................................................45
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .....................................................................................49
PHỤ LỤC .....................................................................................................................52


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong chương trình môn Ngữ văn trung học phổ thông, các văn bản văn
học phi hư cấu chiếm tỷ lệ không lớn, song khơng thể thiếu, nhằm cấp cho học sinh
một cái nhìn tồn diện về các hình thức văn bản văn học. Hầu hết các văn bản văn học
phi hư cấu được dạy, học trong chương trình THPT là văn học Việt Nam, tiêu biểu,
đặc sắc ở những thời kỳ khác nhau. Dạy học các văn bản này, vì vậy khơng chỉ để hiểu
nội dung văn bản, mà còn giúp các em hiểu hơn về con đường vận động, phát triển của
các hình thức văn học dân tộc.
1.2. Dạy học đọc hiểu là phương pháp dạy học tích cực, nhằm phát huy khả
năng chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc tiếp nhận những giá trị tư tưởng, nghệ
thuật đặc sắc của văn bản văn học. Tuy nhiên, cho đến nay những nghiên cứu về
phương pháp dạy học đọc hiểu văn bản văn học chưa có nhiều thành tựu, nhất là với
những văn bản văn học phi hư cấu. Người dạy và người học đang gặp khơng ít khó

khăn, cả trong nhận thức và thực tiễn dạy học.
1.3. Mỗi loại văn bản văn học có chức năng, cấu trúc, và sức hấp dẫn riêng.
Theo đó, dạy học đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu cũng có nguyên tắc, cách thức
riêng. Cái riêng đó là gì? Làm thế nào để giúp học sinh nhận biết được điều đó? Đó là
những vấn đề chưa có được sự rõ ràng trong nhận thức và thực tiễn dạy học môn Ngữ
văn ở trường THPT hiện nay.
1.4. Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi thực hiện đề tài “Dạy học đọc hiểu
các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT” với mong
muốn góp phần giải quyết một số vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Như tên đề tài đã xác định, mục đích nghiên cứu của đề tài là xây dựng
những nguyên tắc, phương pháp dạy đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu trong
chương trình Ngữ văn ở trường THPT.
2.2. Với mục đích đó, đề tài đặt ra nhiệm vụ
Thứ nhất, chỉ ra được cơ sở lý luận, thực tiễn để xây dựng nguyên tắc, phương
pháp dạy đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình mơn Ngữ văn ở
trường THPT.

1


Thứ hai, xây dựng được những nguyên tắc, phương pháp dạy đọc hiểu văn bản
văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn ở trường THPT.
Thứ ba, thực nghiệm sư phạm và đánh giá kết quả bước đầu. Từ đó, đề xuất
những giải pháp có tính khả thi trong hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản văn học phi
hư cấu ở trường THPT theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của người
học.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những nội dung, phương pháp dạy học
đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT.

3.2. Phạm vi khảo sát là các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình
Ngữ văn THPT.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng đồng thời hai
phương pháp: nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm. Trong đó sẽ áp dụng một số thao
tác cụ thể, như: khảo sát, thống kê, miêu tả; phân tích, tổng hợp; so sánh đối chiếu;
thực nghiệm sư phạm...
5. Đóng góp mới của đề tài
5.1. Đóng góp về lí luận
Đề tài góp phần xác lập quan điểm lí luận dạy học đọc hiểu các văn bản văn học
phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT.
5.2. Đóng góp về thực tiễn
Đề tài góp phần đánh giá một cách tồn diện thực trạng của vấn đề dạy học đọc
hiểu các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT.
Đề tài đề xuất được một số nội dung, phương pháp dạy học đọc hiểu các văn
bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Kiến nghị, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1:

Cơ sở khoa học của đề tài

Chương 2:

Một số biện pháp tổ chức hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản văn
học phi hư cấu

Chương 3:

Thực nghiệm sư phạm


2


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Dạy học đọc hiểu văn bản văn học trong chương trình Ngữ văn THPT
Dạy học đọc hiểu văn bản văn học là một nội dung then chốt trong chương trình
Ngữ văn ở nhà trường phổ thông. Thuật ngữ “đọc hiểu” chính thức xuất hiện trong
chương trình giáo dục phổ thơng lần đầu tiên vào năm 2002. Theo Nguyễn Thanh
Hùng: “Đọc hiểu là một khái niệm khoa học chỉ mức độ cao nhất của hoạt động đọc;
đọc hiểu đồng thời cũng chỉ năng lực văn của người đọc”, “Đọc hiểu là hoạt động truy
tìm và giải mã ý nghĩa văn bản”. Trong bài viết Đọc hiểu văn bản - khâu đột phá trong
dạy học văn hiện nay (2013) Trần Đình Sử quan niệm: “Đọc là hoạt động tâm lí nhằm
giải mã văn bản, chuyển văn bản kí hiệu văn tự thành văn bản bằng ngôn ngữ tương
ứng với văn bản chữ viết, là giải mã văn bản để tìm ý nghĩa”.
Nói đến đọc hiểu là nói đến một loại giờ học Ngữ văn trong nhà trường phổ
thông, tồn tại song song, đối sánh với giờ học lí luận văn học, văn học sử… “Đọc
hiểu” cũng là chuỗi hoạt động nhằm giúp HS nâng cao khả năng đọc rồi có thể đọc
hiểu những văn bản cùng thể loại. Từ đọc hiểu mà thấm thía các giá trị văn học, bản
thân có những trải nghiệm sâu sắc về cuộc đời, về con người, về chính mình, đồng thời
rút ra cách thức tiếp nhận văn bản, có thể vận dụng khi cần thiết. Khái niệm đọc
hiểu thể hiện sự thay đổi trong tư tưởng, quan niệm dạy học Ngữ văn. Nếu “giảng văn”
hay “phân tích” chủ ý nhấn mạnh vai trị người thầy gắn với quá trình truyền thụ một
chiều thì đọc hiểu đề cao vai trò chủ thể HS, đặt ra vấn đề tương tác nhịp nhàng giữa
thầy và trò trong hoạt động chiếm lĩnh văn bản.
Trong cấu trúc chương trình Ngữ văn phổ thông, đọc hiểu chiếm tỉ trọng đa
phần ở các khối lớp. Các văn bản đọc hiểu được xây dựng theo trục thể loại kết hợp
với trục lịch đại, chú trọng nguyên tắc tích hợp, chú ý định hướng phát triển năng lực ở
người học. Nội dung đọc hiểu trong SGK Ngữ văn THPT được sắp xếp theo trình tự

nhóm thể loại, văn bản văn học dân gian đến văn bản văn học viết thuộc các giai đoạn
từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, từ đầu thế kỉ XX đến 1945, từ 1945 đến 1975, từ sau
1975 đến hết thế kỉ XX. Song song với các tác phẩm văn học của dân tộc là nội dung
đọc hiểu các tác phẩm văn học nước ngoài được tinh tuyển bao gồm Sử thi Ấn Độ Hy Lạp cổ đại, thơ Đường (Trung Quốc), thơ Hai cư của Ba Sô (Nhật Bản), tiểu thuyết

3


chương hồi (Trung Quốc), truyện ngắn hiện thực trào phúng của A. Sê Khốp (Nga),
tiểu thuyết lãng mạn của V. Huy go (Pháp), thơ tình của A. Puskin (Nga) và R. Tagor
(Ấn Độ), …
Như vậy, cấu trúc chương trình đã thể hiện mục tiêu bồi dưỡng cho HS cách
thức đọc hiểu văn bản dựa trên đặc trưng loại hình và thể loại để thấy đặc sắc tác
phẩm.
1.2. Dạy học đọc hiểu văn bản văn học theo định hướng phát triển phẩm chất và
năng lực của người học
Với mục tiêu xây dựng một nền giáo dục nhân bản, khai phóng, việc phát triển
phẩm chất, năng lực cho người học được xem là một yêu cầu cốt lõi của giáo dục Việt
Nam trong thời hiện đại. Đây là một nhận thức mang tính nguyên tắc đã được khẳng
định trong Nghị quyết 88 (28/11/2014) của Quốc Hội. Theo đó: “Mục tiêu giáo dục
phổ thơng là tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực cơng
dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh”. Để
thực hiện mục tiêu này, giáo dục phổ thông cần: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống văn hóa, lịch sử, đạo đức, lối sống,
ngoại ngữ, tin học, năng lực và kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”.
Từ những định hướng trong Nghị quyết 88 của Quốc hội, chương trình giáo dục
phổ thơng (GDPT) sau năm 2015 đã xác định những phẩm chất, năng lực cốt lõi mà
HS Việt Nam cần phải có, bao gồm sáu phẩm chất (Yêu gia đình, quê hương, đất
nước; Nhân ái, khoan dung; Trung thực, tự trọng, chí cơng vô tư; Tự lập, tự tin, tự

chủ và tinh thần vượt khó; Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân
loại và môi trường tự nhiên; Thực hiện nghĩa vụ đạo đức, tôn trọng, chấp hành kỉ luật,
pháp luật) và ba năng lực (Năng lực làm chủ và phát triển bản thân: tự học, giải quyết
vấn đề, sáng tạo, quản lí bản thân; Năng lực xã hội: giao tiếp, hợp tác; Năng lực cơng
cụ: tính tốn, sử dụng ngôn ngữ, ứng dụng công nghệ thông tin).
Tháng 7 năm 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố dự thảo Chương trình phổ
thơng mới có sự thay đổi ít nhiều trong việc xác định mục tiêu, yêu cầu của giáo dục
phổ thơng. Theo đó, chương trình giáo dục phổ thơng hướng tới hình thành và phát
triển cho HS năm phẩm chất (yêu nước; nhân ái; chăm chỉ; trung thực; trách nhiệm)

4


và mười năng lực cốt lõi, trong đó có ba năng lực chung cho tất cả các môn học và
hoạt động giáo dục (tự chủ và tự học; giao tiếp và hợp tác; giải quyết vấn đề và sáng
tạo) và bảy năng lực chun mơn (ngơn ngữ; tính tốn; tìm hiểu tự nhiên và xã hội;
công nghệ; tin học; thẩm mĩ; thể chất).
Mặc dù có những khác biệt nhất định trong cách diễn giải về các phẩm chất,
năng lực cụ thể của HS, song nhìn chung các chương trình giáo dục phổ thông trong
những năm gần đây đều thống nhất trong định hướng giáo dục. Mục tiêu giáo dục phổ
thông đã được xác định cụ thể, rõ ràng. Đó là hình thành, phát triển phẩm chất, năng
lực cho HS.
Hầu hết các văn bản văn học được chọn học trong chương trình THPT đều
mang ý nghĩa tiêu biểu cho từng giai đoạn văn học, kiểu loại văn bản... Vì vậy, đều
chứa đựng một khả năng to lớn trong việc hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực
cho HS. Mỗi văn bản văn học, thơng qua q trình đọc hiểu của HS, ở những mức độ,
cách thức khác nhau đều góp phần hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực cho các
em. Trong số những phẩm chất, năng lực đã được xác định, so với các mơn học khác,
mơn Ngữ văn có những ưu thế vượt trội ở khả năng hình thành, phát triển năng lực
giao tiếp, năng lực thẩm mĩ và năng lực sáng tạo.

1.3 Thực trạng dạy học đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu trong nhà trường
phổ thông hiện nay
1.3.1. Diện mạo và đặc điểm của văn bản văn học phi hư cấu trong chương
trình Ngữ văn trung học phổ thông
Văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn chiếm số lượng khơng
nhiều, được phân bố rải đều ở cả ba khối của cấp học, bao gồm phần bắt buộc và đọc
thêm. Dựa vào sự phân biệt tương đối giữa hư cấu và phi hư cấu, có thể xếp những văn
bản sau đây vào loại văn bản văn học phi hư cấu:
- Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Ngô Sĩ Liên (Ngữ văn 10)
- Thái sư Trần Thủ Độ, Ngô Sĩ Liên (Ngữ văn 10)
- Vào phủ Chúa Trịnh, Lê Hữu Trác (Ngữ văn 11
- Những ngày đầu của nước Việt Nam mới,Võ Nguyên Giáp (Ngữ văn 12)
Ngồi bốn văn bản nêu trên, có thể xếp hai văn bản Người lái đị Sơng Đà của
Nguyên Tuân (Ngữ văn 12) và Ai đã đặt tên cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc

5


Tường (Ngữ văn 12) vào loại văn bản văn học phi hư cấu, mặc dù ở đó ranh giới giữa
hư cấu và phi hư cấu là hết sức nhòe mờ. Cả hai văn bản đều thuộc thể ký, được viết
dựa trên những hình ảnh, con người, sự việc có thật. Các chi tiết, sự kiện, hình ảnh hết
sức xác thực. Những rung động, sáng tạo của nhà văn đều dựa trên những sự thật đời
sống, nhất là ở Người lái đị Sơng Đà của Nguyễn Tn. Năng lực sáng tạo, tài năng
nghệ thuật của nhà văn không phải là ở khả năng tưởng tượng, hư cấu mà là ở cách kể,
cách tả, lối hành văn độc đáo. Những gì Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường kể, tả
trong hai tác phẩm Người lái đị Sơng Đà và Ai đã đặt tên cho dịng sơng? hồn tồn
khơng phải là sản phẩm của một trí tưởng tượng thuần túy mà là từ những quan sát,
vốn tri thức văn hóa, xã hội, lịch sử phong phú và sự trải nghiệm đời sống sâu sắc của
nhà văn. Cảnh sắc, sự vật, con người, chi tiết, sự kiện... hiện lên trong tác phẩm đều
thấm đẫm cảm xúc trữ tình và đầy mỹ cảm. Đó khơng chỉ là kể mà cịn là tả; khơng chỉ

nhìn thấy mà cịn tưởng tưởng, phóng tác. Các hình tượng trung tâm như sơng Đà,
Người lái đị sơng Đà, sơng Hương vừa thực một cách gần gũi lại vừa hư ảo qua sự
thăng hoa nghệ thuật của ngịi bút nhà văn. Nói cách khác, thực một cách tương đối, có
nhiều khác biệt so với các chi tiết, sự kiện... trong các văn bản văn học phi hư cấu đã
nêu trên. Cách tiếp cận hai văn bản này, vì vậy phải hết sức linh hoạt, biến hóa, khơng
thể rập khn máy móc.
Dưới góc nhìn loại hình văn học, có thể thấy trong số các văn bản văn học phi
hư cấu đã nêu trên, có ba văn bản thuộc loại hình văn học trung đại (Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc Tuấn; Thái sư Trần Thủ Độ; Vào phủ chúa Trịnh) và ba văn bản
văn học hiện đại (Người lái đị Sơng Đà; Ai đã đặt tên cho dịng sơng?; Những ngày
đầu của nước Việt Nam mới). Ba văn bản thuộc loại hình văn học trung đại đều có sự
pha trộn, đan cài giữa văn và sử. Ở đó, chi tiết, sự kiện là xương sống, hồn cốt làm nên
sức sống, sức hấp dẫn của văn bản và được tái hiện một cách tuần tự theo theo trật tự
tuyến tính. Tính chân thực là điều được coi trọng, đề cao. Sự can dự của người kể là
rất ít và được ẩn kín đằng sau cách kể, lối hành văn. Cách kể, lối viết luôn đề cao chân,
thực; khơng phóng đại, khoa trương, khơng vượt thốt tính quy phạm của văn xi
trung đại. Khác với các văn bản văn học trung đại, các văn bản văn học hiện đại lại
mang đậm dấu ấn nhà văn. Điều này không chỉ thể hiện ở hai văn bản Người lái đị
Sơng Đà của Nguyễn Tn và Ai đã đặt tên cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc

6


Tưởng mà cả ở đoạn trích Những ngày đầu của nước Việt Nam mới (trích hồi ký
Những năm tháng khơng thể nào quên, Võ Nguyên Giáp). Ở đó, dấu ấn của người kể
là hết sức rõ nét. Nó được thể hiện ở tâm thế, cách kể, cách bình và một ngôn ngữ giản
dị, gần ngôn ngữ đời sống. Người đọc có thể tìm thấy ở đó nhiều tư liệu lịch sử chân
xác, và qua đó có được một sự hình dung khá rõ ràng về một giai đoạn lịch sử dân tộc
không thể nào quên. Điều này cho thấy, phi hư cấu khơng hề loại bỏ hay kìm hãm
năng lực sáng tạo, dấu ấn của nhà văn.

Về mặt ngôn ngữ, các văn bản văn học trung đại được người đọc tiếp nhận qua
ngôn ngữ dịch. Sự sai khác so với ngun tác là điều khó tránh. Nhiều hình ảnh, từ
ngữ gốc Hán khá xa lạ với HS. Trong khi đó các văn bản văn học hiện đại được người
đọc tiếp xúc trên nguyên tác, với một ngôn ngữ phổ thông, gần gũi với người đọc.
Trong đọc hiểu văn bản văn học, sự phân biệt này là cần thiết. Bởi lẽ, tiếp nhận văn
bản văn học qua bản dịch có những nguyên tắc, phương pháp riêng so với tiếp nhận
văn bản văn học trên nguyên tác. Đây là điều cả người dạy, người học phải ý thức một
cách rõ ràng.
1.3.2. Dạy học đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu - nhìn từ định
hướng sách giáo khoa và hướng dẫn giảng dạy
Cấu trúc của bài đọc hiểu văn bản văn học bao gồm nhiều phần, trong đó phần
hướng dẫn học bài có vai trị hết sức quan trọng. Đó là những gợi mở mang tính định
hướng để các em khám phá, chiếm lĩnh văn bản. Trong SGK, phần hướng dẫn học bài
gồm một hệ thống câu hỏi được người biên soạn thiết kế với mục đích hướng dẫn HS
có thể tự tìm hiểu văn bản. Nhìn vào hệ thống câu hỏi ở các văn bản văn học phi hư
cấu, có thể thấy sự tương ứng, đồng đều về số lượng và kiểu dạng câu hỏi. Mỗi văn
bản bao gồm từ 4 đến 6 câu hỏi. Văn bản có số lượng câu hỏi nhiều nhất là Những
ngày đầu của nước Việt Nam mới (6 câu hỏi). Văn bản Vào phủ chúa Trịnh có số
lượng câu hỏi ít nhất (4 câu hỏi). Các văn bản cịn lại đều có 5 câu hỏi. Trong thời
lượng một bài học từ một đến hai tiết, số lượng câu hỏi như vậy là phù hợp. Tuy nhiên,
vấn đề khơng chỉ ở số lượng, mà cịn ở kiểu dạng, tính chất câu hỏi phải đáp ứng yêu
cầu một bài đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu. Đây là điều cần được quan tâm trong
thiết kế hệ thống câu hỏi hướng dẫn đọc hiểu.
Từ góc nhìn ấy, dựa trên khảo sát, phân loại câu hỏi hướng dẫn học bài trong

7


SGK, chúng tôi nhận thấy, hệ thống câu hỏi đều bám sát văn bản, tập trung khai thác
nội dung và nghệ thuật các văn bản. Đó là một định hướng đúng. Tuy nhiên, hạn chế

của hệ thống câu hỏi là chưa chú trọng đến các cấp độ của một bài đọc hiểu. Câu hỏi
về tác giả, thể loại của tác phẩm còn chưa được quan tâm. Trong khi đây là những yếu
tố góp phần khơng nhỏ để tiếp nhận, giải mã văn bản. Những câu hỏi mang tính sáng
tạo, theo lối gợi mở, phát huy tính tích cực chủ động của HS chưa được chú trọng.
Điều này ít nhiều đã làm giảm hứng thú học tập, nhất là những HS, có năng lực tư duy,
cảm thụ văn chương. Bên cạnh đó, một hạn chế khá rõ là cịn thiếu những câu hỏi
mang tính tích hợp, phát huy năng lực tư duy sáng tạo của HS. Tuy nhiên, nếu dừng lại
ở đó, những năng lực khám phá, sáng tạo, liên hệ, đối chiếu và khái quát, tổng hợp
những giá trị của văn bản cịn chưa được chú trọng. Bên cạnh đó, các câu hỏi định
hướng cách đọc hiểu, kĩ năng đọc hiểu chưa được quan tâm. Nói cách khác, con đường,
cách thức đọc hiểu một văn bản văn học phi hư cấu chưa được các nhà biên soạn sách
giáo khoa chú ý nhiều qua hệ thống câu hỏi. Trong ba mức độ nhận thức (nhận biết,
hiểu, sáng tạo), hệ thống câu hỏi mới chỉ thể hiện ở hai mức độ (nhận biết, hiểu). Qua
cách kể của Ngơ Sĩ Liên, có thể thấy những phẩm chất của nhân vật Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc Tuấn được tái hiện một cách chân thực, sinh động trên các mặt, như:
tài năng, phẩm chất, nhân cách, đạo đức. Hình tượng cái tơi tác giả Ngơ Sĩ Liên cũng
cần được định hướng, gợi mở để học sinh phát hiện (tài năng, trung thực, đáng kính).
Mặt khác, tính chất đọc hiểu văn bản văn học địi hỏi phải có những câu hỏi mang tính
mở, ví như: Lời cha dặn đã đặt Trần Quốc Tuấn trước những mâu thuẫn nào? Tại sao
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn lại không nghe lời cha lấy lại thiên hạ? Cách
giải quyết của ơng? Nếu là chúng ta thì sẽ giải quyết như thế nào? Các em có suy nghĩ,
nhận xét và đánh giá như thế nào về nhân vật người kể chuyện? Đó là một cái tơi như
thế nào? Thái độ, tình cảm…? Điều chúng ta học tập được ở Ngơ Sĩ Liên? Nhận xét về
nghệ thuật của đoạn trích? Liên hệ, so sánh với tác phẩm sử kí nổi tiếng của Trung Quốc
như Sử kí Tư Mã Thiên? Dĩ nhiên, trong khuôn khổ SGK không thể đưa tất cả những
câu hỏi này vào, song đó là những nội dung cần phải tính tới trong thiết lập hệ thống câu
hỏi hướng dẫn đọc hiểu mà người dạy phải quan tâm, gợi mở cho HS. Nghĩa là, người
dạy không thể chỉ dừng lại ở những câu hỏi trong SGK mà phải chủ động suy nghĩ, phát
triển, gợi mở thêm ở nhiều bình diện, cấp độ khác của văn bản. Hệ thống câu hỏi phải


8


được thiết kế theo hướng yêu cầu HS tự tìm hiểu, cắt nghĩa các chi tiết, yếu tố của văn
bản, sau đó liên kết chúng lại, so sánh, đối chiếu để tự rút ra ý nghĩa khái quát của nó. Vì
thế các yếu tố đặc trưng của văn bản văn học phi hư cấu, như: tính xác thực của nhân
vật, sự kiện; hình tượng cái tơi của người cầm bút và những đặc sắc nghệ thuật cần
phải đặc biệt chú ý.
Bên cạnh định hướng của SGK, hệ thống các tài liệu hướng dẫn dạy học đọc
hiểu văn bản văn học phi hư cấu cũng rất cần được người dạy quan tâm. Đó là các tài
liệu, như: sách giáo viên, thiết kế bài giảng, hướng dẫn học bài… Nhìn chung, các tài
liệu này đều bám sát hướng dẫn học bài của SGK để gợi mở, định hướng. Cấu trúc cơ
bản của những tài liệu này gồm hai phần: phần mục tiêu bài học và phần những điều
cần lưu ý. Trong phần mục tiêu, tác giả sách giáo khoa định hướng về kiến thức, thái
độ và kĩ năng. Ở phần lưu ý dạy học, các tác giả thường định hướng nội dung, phương
pháp giảng dạy, tiến trình tổ chức dạy học và cách kiểm tra đánh giá. Định hướng đọc
hiểu văn bản Vào phủ chúa Trịnh, sách giáo viên, tập một, do Phan Trọng Luận chủ
biên, phần mục tiêu bài học nêu: giúp HS hiểu rõ giá trị hiện thực sâu sắc của tác
phẩm, cũng như thái độ trước hiện thực và ngịi bút kí sự chân thực, sắc sảo của Lê
Hữu Trác qua đoạn trích miêu tả cuộc sống và cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa.
Khơng khó để thấy rằng, SGV chủ yếu mới định hướng về kiến thức, thái độ mà chưa
có định hướng về kĩ năng đọc hiểu văn bản kí sự, kĩ năng sống của HS. Phần định
hướng chưa chú ý đến cách tổ chức hoạt động đọc hiểu, như: khâu chuẩn bị, hệ thống
câu hỏi, các bước tiến hành. Định hướng dạy học đọc hiểu văn bản Những ngày đầu
của nước Việt Nam mới, SGV Ngữ văn 12, tập 1, do Phan Trọng Luận chủ biên, khơng
có phần định hướng về kiến thức, kĩ năng và thái độ, chỉ có phần gợi ý về thể loại, tác
phẩm Những năm tháng không thể nào quên và hướng dẫn đọc thêm. Định hướng
trong phần hướng dẫn đọc thêm cũng chỉ cung cấp nội dung kiến thức bằng cách trả
lời các câu hỏi hướng dẫn đọc thêm của SGK. Có thể thấy SGV là phần giảng giải
những câu hỏi đề ra ở phần Hướng dẫn học bài của SGK, chưa có định hướng cụ thể,

chi tiết cách dạy học đọc hiểu các văn bản nói chung và văn bản văn học phi hư cấu
nói riêng.
Từ những định hướng đọc hiểu trong SGK và SGV, có thể thấy vấn đề đặc
trưng của văn bản văn học phi hư cấu chưa được chú ý. Việc định hướng đọc hiểu các

9


văn bản văn học phi hư cấu khơng có gì khác so với định hướng dạy, học đọc hiểu văn
bản văn học hư cấu. Hệ quả của nó là cả người dạy và người học chỉ tập trung tìm
kiếm các giá trị nội dung, nghệ thuật của văn bản mà ít chú ý đến cách đọc văn bản.
Nói cách khác, phương pháp, kĩ năng đọc chưa được quan tâm. Mục tiêu phát triển
phẩm chất, năng lực của HS qua giờ dạy, học đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu,
chưa được thể hiện rõ qua hệ thống câu hỏi và định hướng dạy, học.
1.3.3. Hướng tiếp cận các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình
Ngữ văn trung học phổ thông của giáo viên và học sinh
Để có cái nhìn khách quan về tình hình dạy, học đọc hiểu các văn bản văn học
phi hư cấu ở trường THPT hiện nay, chúng tôi đã khảo sát thực tế bằng một hệ thống
phiếu trả lời trắc nghiệm. Đối tượng khảo sát là 20 GV Ngữ văn và 400 HS ở 2 trường
THPT trên địa bàn huyện A và huyện B. Nội dung khảo sát tập trung vào những vấn
đề về nhận thức, quan niệm, phương pháp dạy, học đọc hiểu các văn bản văn học phi
hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT. Kết quả khảo sát gợi cho chúng ta nhiều
điều phải suy nghĩ về thực trạng dạy, học văn hiện nay ở trường THPT.
Về phía giáo viên
Chúng tôi đã thiết lập một mẫu phiếu điều tra với 10 câu hỏi trắc nghiệm nhằm
khảo sát những vấn đề được nêu. Kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết GV đều ý thức
được tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của việc dạy học đọc hiểu các văn bản văn
học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT. Có tới 87.5% GV được hỏi cho
rằng việc dạy học đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ
văn THPT là cần thiết hoặc rất cần thiết. Bên cạnh đó cịn có một số GV tỏ thái độ

không quan tâm tới việc dạy học các văn bản văn học phi hư cấu (5%). Đặc biết có tới
20% GV cho rằng khơng có hứng thú với việc dạy học văn bản văn học phi hư cấu.
Nhiều GV chưa phân biệt được sự khác biệt giữa văn bản văn học hư cấu và văn bản
văn học phi hư cấu. Có tới 62,5% GV được hỏi cho rằng khơng có sự khác biệt giữa
văn bản văn học hư cấu với văn bản văn học phi hư cấu. Điều này đã dẫn tới những
khó khăn vướng mắc khi dạy học đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu. GV chủ
yếu dựa vào kinh nghiệm bản bản thân (50%) và tham khảo tài liệu (37.5%).
Khảo sát hiệu quả dạy học các văn bản văn học phi hư cấu, cho thấy chất lượng
khơng cao. Có 50% GV được hỏi đánh giá, mức độ hiệu quả của việc dạy học đọc hiểu

10


văn bản văn học phi hư cấu trong chương trình Ngữ văn THPT ở mức trung bình, 25%
đánh giá chưa đạt. Về hứng thú học tập và mức độ chuẩn bị bài ở nhà của HS khơng cao.
Có 55% GV được hỏi đánh giá mức độ chuẩn bị bài của HS là trung bình; 12,5% GV
đánh giá ở mức độ yếu. Trong đó, có 12.5% HS được đánh giá là hoàn toàn thụ động
trong đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu.
Về phía học sinh
Chúng tơi cũng đã tiến hành khảo sát về ý thức, thái độ học tập, sự nhận thức và
phương pháp đọc hiểu của HS. Kết quả khảo sát đặt ra cho chúng ta nhiều điều phải
suy nghĩ. Khi được hỏi về tính cần thiết của việc học các văn bản văn học phi hư cấu
trong chương trình Ngữ văn, có 86,5% HS được hỏi trả lời là cần thiết và rất cần thiết.
Tuy nhiên, khi được hỏi về đặc điểm của văn học phi hư cấu, nhận thức của các em
còn hết sức mơ hồ. Có 34.75% HS được hỏi cho rằng văn bản văn học phi hư cấu được
viết dựa trên trí tưởng tượng của nhà văn, 52.75% HS không nhận diện được văn bản
văn học phi hư cấu. Đa số HS đều không nắm được đặc trưng thể loại văn học này, và
không biết phương pháp tiếp cận. Hầu hết HS cho rằng khơng có sự khác biệt giữa văn
bản văn học hư cấu và văn bản văn học phi hư cấu; chỉ cần chuẩn bị bài theo hướng
dẫn của SGK là có thể hiểu đươc văn bản. Điều đáng buồn là HS khơng có hứng thú,

thậm chí là chán học loại văn bản này (37,25%). Nhìn vào kết quả khảo sát, có thể
thấy GV đang gặp nhiều lúng túng, khó khăn, trong việc hướng dẫn HS đọc hiểu các
văn bản văn học phi hư cấu. Trong đó, có những nguyên nhân nằm ở đặc điểm của văn
bản phi hư cấu, có nguyên nhân thuộc về năng lực, kĩ năng sư phạm của người dạy,
như không nắm vững nguyên tắc, phương pháp dạy học văn bản văn học phi hư cấu.

11


Chương 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC ĐỌC
HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC PHI HƯ CẤU
2.1. Đặc điểm nghệ thuật của văn bản văn học phi hư cấu
Nhìn vào chương trình Ngữ văn THPT, có thể chia các văn bản văn học thành
hai loại: hư cấu (fiction) và phi hư cấu (non-fiction). Văn bản văn học phi hư cấu được
xây dựng trên cơ sở những sự kiện, biến cố có thật, có thể được kiểm chứng một cách
khách quan. Đó khơng phải là câu chuyện được tưởng tượng, hư cấu, bịa đặt. Những
sự việc, con người ở đây đều được xác định rõ ràng về địa chỉ. Sức hấp dẫn mà văn
xuôi phi hư cấu đem lại chính là sức hấp dẫn của sự thật. Nhà văn khi sáng tạo một tác
phẩm theo lối phi hư cấu thường có tư chất của nhà nghiên cứu đi tìm sự thật. Điều
chính yếu làm nên giá trị, phẩm chất và ưu thế của văn học phi hư cấu là tính chính
xác và trung thực của nó. Sự kiện đã xảy ra khi nào? Ở nơi chốn nào? Ai đã tham gia
vào sự kiện đó? Trong tất cả những trường hợp này, người đọc đòi hỏi câu trả lời cặn
kẽ và rõ nghĩa, dù đó là con số, ngày tháng, lời khẳng định hay phủ định. Việc đọc
hiểu các văn bản văn học phi hư cấu phải chú trọng tới sự thật được nói tới trong tác
phẩm.
Văn bản phi hư cấu giống như những mảnh tranh ghép, được xây dựng từ
những bức chân dung nhân vật, những bức tranh miêu tả cảnh quan đời người và sân
khấu chính trị - xã hội, những suy niệm và trầm tư thế sự. Đồng thời là những bức
tranh thiên nhiên hết sức thơ mộng, trữ tình của quê hương, đất nước. Đương nhiên,
những bức tranh ấy được tơ điểm bằng tình cảm chân thật của người cầm bút, được tái

hiện thông qua các thủ pháp nghệ thuật điêu luyện. Với những đặc điểm đó, thể ký
điển hình cho văn học phi hư cấu. Bút ký, tùy bút, đặc biệt là hồi ký, ký sự đều coi
trọng tính chân thực, xem đó là phẩm chất nghệ thuật nổi bật của thể loại. Ngoài ra, tự
truyện, tiểu thuyết tư liệu cũng mang đặc điểm của văn học phi hư cấu. Cấu trúc nghệ
thuật của các văn bản văn học phi hư cấu có những khác biệt so với văn học hư cấu. Ở
đó người kể, cách kể, ngơn ngữ kể ln giữ vai trị quan trọng trong việc tái hiện hiện
thực đời sống. Những hư cấu, tưởng tượng, phóng tác được tiết giảm tới mức tối đa.
Mở một văn bản phi hư cấu, người đọc tin rằng đây là cuộc đời tự nó lên tiếng, người
trần thuật khơng can thiệp làm méo mó bản chất của sự kiện. Nhưng đồng thời, người
đọc cũng chờ đợi cuộc gặp gỡ với một người trần thuật sâu sắc và tinh tường, có năng

12


lực phán xét thông minh và nhạy bén. Cái tôi của người cầm bút được thể hiện một
cách rõ ràng, tràn đầy cảm xúc. Tác giả quan sát tinh tế, ghi chép chân thực, tỉ mỉ, tả
cảnh sinh động, kể diễn biến sự việc khéo léo, lôi cuốn sự chú ý của người đọc, bộc lộ
thái độ một cách kín đáo, để sự vật tự nói. Nếu như văn học hư cấu có thể trần thuật
những sự việc khơng có trong thực tế, trí tưởng tượng và hư cấu của nhà văn được
phát huy cao độ, miễn sao thế giới nhà văn kiến tạo phải đảm bảo lôgic của hiện thực
thì văn học phi hư cấu chỉ trần thuật người thật, việc thật một cách xác thực. Tuy
nhiên, điều này khơng có nghĩa là văn bản văn học phi hư cấu chỉ hồn tồn nói sự
thật. Trong chừng mực nào đó, văn học phi hư cấu cũng có sự hư cấu, như tổ chức, sắp
xếp, gia công thêm về sự kiện và mô tả tâm trạng. Đây là điều dẫn tới sự nhập nhằng
trong phân định giữa văn bản văn học hư cấu và văn bản văn học phi hư cấu, dẫn tới
sự đồng nhất về phương pháp giảng dạy của GV.
Như vậy có thể thấy, sức hấp dẫn của văn bản văn học phi hư cấu là sự thật.
Tính nghệ thuật của văn bản văn học phi hư cấu là ở khả năng tổ chức, dẫn dắt vấn đề
ở cách kể, lối kể và ngôn ngữ, giọng điệu người kể. Những điều này đều có trong văn
bản văn học hư cấu, song ở văn học phi hư cấu lại có những khác biệt, mang tính đặc

thù. Muốn dạy học đọc hiểu tốt các văn bản văn học phi hư cấu, nhất định cả GV và
HS phải nắm vững những đặc trưng của dạng văn bản này.
2.2. Tổ chức hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản văn học phi hư cấu trong
chương trình Ngữ văn THPT
2.2.1. Hướng dẫn học sinh tự đọc văn bản
Quá trình tự tìm hiểu văn bản văn học của HS là hết sức cần thiết, theo nguyên
tắc dạy học lấy người học làm trung tâm. HS muốn chiếm lĩnh tri thức một cách khoa
học, lôgic phải bắt đầu từ khâu tự đọc văn bản. Hoạt động tự đọc văn bản diễn ra ở
nhà, ở lớp, dưới sự hướng dẫn của GV.
HS tự đọc văn bản trước hết thông qua hệ thống câu hỏi phần Hướng dẫn học bài
ở SGK. Đó là hệ thống câu hỏi để hướng dẫn HS có thể tự mình tìm hiểu văn bản văn
học. Các câu hỏi Hướng dẫn học bài thường tập trung định hướng vào các yếu tố của
văn bản, hạn chế tối đa những câu hỏi biểu hiện nội dung cho sẵn. Loại câu hỏi đó
thường chỉ dạy HS tìm vị trí trên bản đồ của một địa danh đã cho biết trước, khơng giúp
phát triển trí lực, ít dạy cho HS tính chủ động và lòng tự tin. Hệ thống câu hỏi đó thiết

13


kế theo con đường như sau: yêu cầu HS tìm hiểu, cắt nghĩa các chi tiết, yếu tố của văn
bản; sau đó liên kết chúng lại, so sánh, đối chiếu để rút ra ý nghĩa khái qt của nó. Vì
thế, bấy nhiêu yếu tố thì cũng có bấy nhiêu câu hỏi nhằm vào việc khai thác, khám phá
chung. Câu hỏi về ý nghĩa của chi tiết, hình tượng, suy luận, biểu tượng; câu hỏi về kết
cấu; câu hỏi để tưởng tượng, suy luận; câu hỏi về chủ đề, tư tưởng; câu hỏi về phong
cách, sáng tạo của tác giả trên cơ sở bài đọc hiểu… Đó là những câu hỏi có tính gợi mở.
Và để cho HS đọc hiểu văn bản tốt nhất, GV cần phải thiết kế hệ thống câu hỏi ngắn
gọn, rõ ràng, dễ hiểu; đúng lúc, đúng chỗ; phù hợp với trình độ HS; kích thích suy nghĩ
của HS; sắp xếp từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp; không hỏi nhiều vấn đề cùng
một lúc; phải đa dạng hóa câu hỏi...
2.2.2. Gợi mở cho học sinh các hướng tích hợp văn bản văn học phi hư cấu

Một trong những đổi mới quan trọng của chương trình và SGK Ngữ văn là lấy
quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình và biên
soạn SGK. Những vấn đề như trục tích hợp, tích hợp dọc, tích hợp ngang…đã được
giới thiệu rộng rãi, có vai trị định hướng trong thiết kế bài giảng và cách thức dạy học
của GV. Lí thuyết liên văn bản đòi hỏi trong tiếp thu văn chương ln cần có sự đối
sánh. Theo đó, GV cần định hướng cho HS các địa chỉ tích hợp để HS đối sánh, tìm ra
điểm chung, điểm riêng, khắc sâu các kiến thức, kĩ năng được hình thành qua bài đọc
hiểu.
Dạy học văn bản Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên), GV
cần cung cấp cho HS các địa chỉ tích hợp, như: văn bản Hịch tướng sĩ (Trần Quốc
Tuấn - Ngữ văn 8,9); Thái sư Trần Thủ Độ (Ngơ Sĩ Liên - Ngữ văn 10). Ngồi ra,
cịn có thể tích hợp với các bài thơ thời Trần, để thấy rõ hào khí Đơng A, như: Tụng
giá hồn kinh sư (Phò giá về kinh - Trần Quang Khải), Thuật hồi (Tỏ lịng - Phạm
Ngũ Lão)… Dạy học văn bản Vào phủ chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự - Lê
Hữu Trác) GV cần cung cấp cho HS các địa chỉ tích hợp, như: Hồng Lê nhất
thống chí, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, (Ngữ văn 9); Vũ trung tùy bút (Phạm
Đình Hổ - Ngữ văn 9)… Các địa chỉ tích hợp này đều được sáng tác cùng thời kỳ,
có chung chủ đề, chung quan điểm, đồng thời lại có những điểm riêng về phong
cách, cá tính sáng tạo, có sự khác biệt trong cách thể hiện đối tượng. Tích hợp với
các văn bản này sẽ giúp HS có cơ sở, có định hướng để khám phá các văn bản văn

14


học.
Tính nguyên hợp là một đặc điểm nổi bật của văn học trung đại. Ở đó, mỗi văn
bản, ngồi yếu tố văn học chứa đựng các yếu tố khác, như: lịch sử, triết học… Nghĩa
là văn - sử - triết bất phân, một kiểu tích hợp kiến thức liên mơn. Đây cũng là xu thế
chung của việc đổi mới chương trình, SGK, kiểm tra đánh giá trong dạy học hiện nay.
Có thể thấy rõ điều này qua việc Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức cuộc thi: “Vận dụng

kiến thức liên mơn để giải quyết các tình huống thực tiễn” và cuộc thi “Dạy học theo
chủ đề tích hợp”. Đối với các văn bản văn học phi hư cấu thời trung đại, GV phải định
hướng để HS tích hợp những kiến thức liên môn, và định hướng cho GV những địa chỉ
tích hợp có cùng chủ đề. Văn bản Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn có thể tích
hợp với bài Quan niệm về đạo đức, (GDCD 10); văn bản Vào phủ chúa Trịnh có thể
tích hợp với bài 21 Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỉ XVIXVIII, (Lịch sử 10).
Bên cạnh đó, cần chú ý tích hợp ngang giữa ba phân mơn (Đọc văn, Làm văn,
Tiếng Việt). Đây là các phân mơn có yêu cầu, tri thức riêng, nhưng tất cả được tích
hợp trong hoạt động nghe, nói, đọc, viết, mà chủ yếu là đọc hiểu và làm văn. Do đó,
hai trục tích hợp chính của chương trình là đọc và viết. Các văn bản văn học được sắp
xếp trên hai trục chính: Đọc văn và Làm văn. Phần tiếng Việt vừa phục vụ cho việc
Đọc văn vừa phục vụ cho việc Làm văn. Trong chương trình Ngữ văn 10, các kiểu bài
làm văn tự sự được học với các bài đọc hiểu văn bản tự sự. Chính những lí thuyết về
văn tự sự giúp ích rất nhiều cho việc đọc hiểu các văn bản tự sự, trong đó có văn bản
văn học phi hư cấu. Trong khi đó bài Hoạt động giao tiếp bằng tiếng Việt ở đầu sách
Ngữ văn 10 sẽ là cơ sở đọc hiểu văn bản và làm văn.
Khi dạy học đọc hiểu các văn bản văn học phi hư cấu trong phần văn học hiện
đại Việt Nam, GV yêu cầu HS tích hợp với các văn bản văn học phi hư cấu trong phần
văn học trung đại Việt Nam. Đây là những văn bản có chung đặc trưng cấu trúc, nên
có cách tiếp cận và khám phá tương đối giống nhau. Tuy nhiên cũng cần phải so sánh,
đối chiếu đề tìm ra những khác biệt. Nếu đem so sánh với cái tôi Ngô Sĩ Liên trong
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, cái tôi Lê Hữu Trác trong Vào phủ chúa Trịnh
với cái tôi của Nguyễn Tuân trong Người đị Sơng Đà, cái tơi Hồng Phủ Ngọc Tường
trong Ai đã đặt tên cho dịng sơng? Có thể thấy những khác biệt rõ nét. Cái tôi trong

15


văn học trung đại là cái tơi phi ngã, cịn cái tôi trong văn hiện đại là cái tôi cá nhân, cá
thể. Ở mỗi văn bản cụ thể, GV phải định hướng cho HS tích hợp. Chẳng hạn: Dạy học

văn bản Người lái đị Sơng Đà (Nguyễn Tn), GV cần cung cấp cho HS các địa chỉ
tích hợp, như: Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân (Ngữ văn 11), Ai đã đặt tên cho dịng
sơng? - Hồng Phủ Ngọc Tường, (Ngữ văn 12)... Bên cạnh đó cần phải định hướng
cho HS tích hợp kiến thức liên mơn. Chẳng hạn, khi dạy học đọc hiểu văn bản Người
lái đị Sơng Đà (Nguyễn Tn), có thể tích hợp với bài 6 Đất nước nhiều đồi núi; bài
32 Vấn đề khai thác thế mạnh ở Trung du và miền núi Bắc Bộ (Địa lí 12). Đây là một
vùng đất với nhiều núi đá vôi, sông suối, đèo dốc. Quan sát bản đồ, để thấy được điểm
đặc biệt của sông Đà là trong khi mọi dịng sơng đều chảy về hướng đơng, sơng Đà lại
chảy về hướng bắc “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”. Sơng Đà nói
riêng và Tây Bắc nói chung là một vùng kinh tế tiềm năng về thủy điện, du lịch. Theo
đó, ở bài học này có thể tích hợp với bài 21.Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
đấu tranh chống đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gịn ở miền Nam (1954 - 1965) (Lịch
sử 12) để các em thấy được công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trong
đó có phong trào đi xây dựng vùng kinh tế mới Tây Bắc.
Hướng tích hợp tiếp theo là tích hợp ngang giữa ba phân môn: Đọc văn, Làm
văn và Tiếng Việt. Trong chương trình Ngữ văn 12, các tiết tiếng Việt: Thực hành một
số phép tu từ ngữ âm, cú pháp, sẽ được tích hợp với các văn bản nói trên để khai thác
văn bản một cách tồn diện. Ví dụ: văn bản Người lái đị Sơng Đà, Nguyễn Tn sử
dụng các pháp điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc: “Nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt cả năm” để diễn tả dịng chảy dữ dội, khủng khiếp
của dịng Sơng Đà. Những câu văn giàu giá trị tạo hình, gợi cảm được Nguyễn Tuân
sử dụng hết sức phong phú, đa dạng trong Người lái đị Sơng Đà thể hiện chất tài hoa,
un bác ở ông. Các tiết làm văn về nghị luận văn học như Nghị luận về một ý kiến
bàn về văn học cũng góp phần hiểu sâu sắc hơn về văn bản. Ngồi ra, GV cũng cần
định hướng HS tích hợp với bài lí luận văn học Q trình văn học và phong cách văn
học, để HS nhận biết phong cách của các nhà văn.
Vấn đề tích hợp các kĩ năng sống cho HS cũng cần phải được chú trọng. Có rất
nhiều kĩ năng sống, GV cần phải quan tâm tích hợp cho HS qua dạy học các văn bản
văn học phi hư cấu, như: kĩ năng tự nhân thức, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng giải


16


quyết mâu thuẫn, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng giải quyết vấn
đề… Khi dạy bài Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên), đứng trước
tình huống có vấn đề "Tại sao Trần Quốc Tuấn lại không nghe lời cha lấy lại ngai
vàng?" hay ở bài Những ngày đầu của nước Việt Nam mới - Võ Ngun Giáp, gặp
tình huống có vấn đề: Đất nước ở trong tình thế nguy nan. HS phải vận dụng kĩ năng
sống kiên định để tin tưởng vào mục tiêu, lí tưởng và con đường mình đã lựa chọn.
Không suy chuyển, dao động, đánh mất niềm tin vào Đảng, Chính phủ và đánh mất
niềm tin vào chính mình. GV có thể gợi ý HS đặt mình vào hồn cảnh đó để giải quyết
vấn đề.
2.2.3. Gợi mở học sinh khám phá giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của văn bản
Văn bản văn học trung đại nói chung, văn bản văn học phi hư cấu nói riêng có
những giá trị tư tưởng, thẩm mĩ đặc sắc riêng. Thông qua dạy học đọc hiểu các văn
bản cụ thể, GV cần hướng dẫn, gợi ý HS khái quát được các gia trị nội bật của văn
bản. Về cơ bản, dạy học đọc hiểu một văn bản văn học phi hư cấu trong văn học trung
đại Việt Nam, GV cần gợi ý cho HS khái quát những vấn đề sau:
a) Tính xác thực của nhân vật, sự kiện
b) Sự thể hiện cái tôi của người cầm bút
c) Đặc sắc nghệ thuật
Đặc trưng, ưu thế của văn học phi hư cấu là tái hiện một cách chân thực các
nhân vật, sự kiện. Văn bản Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngữ văn 10) là một
ví dụ. Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn được trích từ Đại Việt sử kí tồn thư
được Ngơ Sĩ Liên. Tác phẩm hoàn thành vào năm 1479, gồm 15 quyển, ghi chép lịch
sử từ thời Hồng Bàng cho đến khi Lê Thái Tổ lên ngôi (1428). Sách được biên soạn
dựa trên cơ sở cuốn Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu thời Trần và Sử kí tục biên của
Phan Phu Tiên ở đầu đời Lê. Đại Việt sử kí tồn thư là sử biên niên là loại sử lấy thời
gian làm trục chính. Trên cơ sở đó, các sự kiện lịch sử được ghi chép theo thời gian
(năm, mùa, tháng, ngày). Đây là bộ chính sử lớn của Việt Nam thời trung đại, thể hiện

tinh thần dân tộc mạnh mẽ, vừa có giá trị sử học, vừa có giá trị văn học. Trong văn bản
Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên), người đọc thấy rõ nhân vật lịch
sử Trần Quốc Tuấn được tác giả thuật lại một cách chi tiết, tỉ mỉ và hết sức sinh động.
Đặc điểm của sử là tôn trọng sự thật khách quan, không hư cấu.Tài năng của nhà viết

17


sử thể hiện ở việc lựa chọn sắp xếp các sự kiện, chi tiết để làm nổi bật chân dung lịch
sử vừa chân thực, vừa sống động. Trong đoạn trích có ba chuyện kể về Trần Quốc
Tuấn: chuyện về kế sách giữ nước, chuyện về lòng trung nghĩa và chuyện về công lao,
đức độ. Trong câu chuyện về kế sách giữ nước, tác giả tường thuật rõ về thời gian:
“Tháng 6, ngày 24, sao sa”, nhân sự kiện Hưng Đạo Đại Vương ốm, nhà vua tới thăm,
hỏi han và được dặn dò: tùy thời mà đưa ra sách lược phù hợp, binh pháp chống giặc
cần vận dụng linh hoạt; phải biết tập hợp đoàn kết toàn dân, phải “khoan thư sức dân
để làm kế sâu rễ bền gốc”. Qua việc trình bày kế sách giữ nước, ta thấy Trần Quốc
Tuấn là một người có kiến thức un bác, trí thơng minh tuyệt vời, tài năng phi
thường, và là một người có tầm nhìn xa trơng rộng, thương u dân, đất nước, tận
trung đến giây phút cuối cùng trong đời. Câu chuyện thật về lòng trung nghĩa được tác
giả thuật lại rất gay cấn và hấp dẫn. Việc ông làm trái lời di huấn của An Sinh Vương
Trần Liễu, cha ông, chứng tỏ ơng đã đặt lợi ích đất nước, triều đình lên trên quyền lợi
gia đình, cá nhân. Giữa chữ hiếu và chữ trung, ông đặt chữ trung lên trên một cách tự
nguyện, mặc dù trong hồn cảnh ấy ơng hồn tồn có thể giành lấy ngơi vua về tay
mình. Việc thử lòng Dã Tượng và Yết Kiêu, một mặt, thấy được nhân cách cao thượng
và tấm lòng trung nghĩa, thẳng thắn, cương trực, hết lịng vì chủ của hai gia nô, mặt
khác, khẳng định tư tưởng của Trần Quốc Tuấn hồn tồn đúng, nên đã tìm được sự
đồng cảm ở mọi người, kể cả tầng lớp gia nhân. Chi tiết ơng cảm động đến khóc, khi
nghe lời giãi bày của người gia nô là một chi tiết đắt giá, cho thấy nhân cách cao cả
của ông. Việc thử thách với hai người con trai Quốc Hiến và Quốc Tảng với hai câu
trả lời trái ngược nhau và hai thái độ khác nhau đã làm rõ tính cách thận trọng, trung

nghĩa và lối giáo dục con cái trong một nhà rất công bằng và nghiêm khắc của Hưng
Đạo Vương. Công lao, đức độ của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được lưu
truyền, được nhân dân quý mến, trân trọng bậc nhất. Ơng khơng chỉ là vị Quốc Cơng
Tiết chế văn võ song tồn, mà cịn là chỗ dựa tinh thần cho hai vua trong những lúc
vận nước lâm nguy. Câu nói khảng khái của ơng gợi nhớ đến câu nói của Trần Thủ Độ
mấy chục năm trước đó: “Đầu tơi chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo!”. Ơng tiến cử được
nhiều người tài, soạn nhiều sách huấn luyện quân sự, binh pháp, và khích lệ tinh thần
chiến đấu của tướng sĩ dưới quyền. Hình ảnh này đã được khắc họa đậm nét trong
Hịch tướng sĩ do ông viết (tác phẩm HS đã được học ở THCS). Mặc dù hình ảnh Hưng

18


Đạo Vương có chi tiết thần thánh hóa trong tâm thức của nhân dân, nhưng về cơ bản
nhân vật lịch sử này được tác giả thuật lại rất chân thật, sinh động và hấp dẫn.
Theo Nguyễn Đăng Na, “kí chỉ thực sự ra đời khi người cầm bút trực diện trình
bày đối tượng phản ánh bằng cảm quan của chính mình”. Quả đúng như vậy, với thể
loại kí, từ cổ chí kim, cái tơi của người cầm bút ln được thể hiện rõ nét. Theo đó,
trong một văn bản văn học phi hư cấu, cái tôi tác giả lúc nào cũng hiện diện. Đọc hiểu
văn bản, vì vậy phải nhận ra được cái tơi này. Tư tưởng, tình cảm, cách nhìn hiện thực
cuộc sống con người của nhà văn đều được thể hiện qua cái tôi tác giả. Vào phủ chúa
Trịnh là văn bản được viết theo hình thức ký sự. Cái tôi tác giả bộc lộ trước hết ở thái
độ, cách nhìn nhận của tác giả đối với cuộc sống nơi phủ chúa một cách chân thật,
khách quan. Lê Hữu Trác đã miêu tả, ghi chép tỉ mỉ, đầy đủ con đường vào phủ chúa,
từ khi được lệnh truyền cho đến khi y lệnh về chờ thánh chỉ. Sự xa hoa, quyền quý
trong bức tranh hiện thực được miêu tả, tự nó phơi bày ra trước mắt người đọc. Tác giả
cịn thể hiện trực tiếp thơng qua cách quan sát, lời bình và những suy nghĩ của mình về
sự tráng lệ, dư thừa, xa hoa nơi phủ chúa. Ông nhận xét: “cảnh giàu sang của vua chúa
thực khác hẳn người thường”. Tác giả còn làm một bài thơ miêu tả cái đẹp rực rỡ, sang
trọng của “lầu từng gác vẽ”, “rèm châu”, “hiên ngọc”, “hoa cung”, “vườn ngự”…

Ngoài ra, tác giả cịn xen vào những lời bình luận nhẹ nhàng mà sâu cay, như “Ơng
san mâm cơm cho tơi ăn. Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy
giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Ở đây, tác giả đã có những nhận xét khách
quan về vẻ đẹp, sự giàu sang của phủ chúa. Nhưng thái độ của tác giả thì lại hết sức
thờ ơ, dửng dưng, bàng quan với những quyến rũ vật chất ấy, tỏ thái độ khơng đồng
tình với cuộc sống ngột ngạt, thiếu ánh sáng, khí trời và đồng thời cũng thấp thoáng
một chút mỉa mai, châm biếm.
Người đọc cịn thấy được cái tơi của Lê Hữu Trác qua việc tái hiện cảnh bắt
mạch, kê đơn bốc thuốc. Mặc dù tác giả khơng chêm xen lời bình luận khi thấy không
cần thiết, nhằm tạo ấn tượng nổi bật về sự trung thành, trung thực của sự thật được ghi
chép, nhưng con người tác giả vẫn hiện lên một cách đậm nét. Chỉ qua một đoạn trích
ngắn, nhận ra ơng là một người hóm hỉnh, có tài quan sát, có tài thuật kể của một nhà
văn đích thực. Trong tư cách người thầy thuốc, ông rất tận tụy với cơng việc, có cái
tâm trong sáng của một kẻ sinh ra để trị bệnh cứu người. Khi nắm rõ bệnh trạng của

19


thế tử, ông biết không thể dùng thứ thuốc công phạt mà các lương y khác vẫn kê. Theo
ông, để khỏi làm hao mịn ngun khí của người bệnh, trước hết phải dùng thứ thuốc
thật bổ nhằm giữ “cái căn bản tiên thiên”. Nhưng ông lại sợ thành công trong việc
chữa trị theo hướng đó sẽ ràng buộc ơng vào danh lợi, khiến ông không thể “về núi”
theo tâm nguyện một đời. Có lúc ơng suy tính: “Chi bằng ta dùng thứ phương thuốc
hịa hỗn, nếu khơng trúng thì cũng không sai bao nhiêu”. Tất nhiên, cuối cùng ông đã
không là thế. Ơng nghĩ: “Cha ơng mình đời đời chịu ơn nước, ta phải dốc hết cả lòng
thành, để nối tiếp cái lịng trung của cha ơng mình mới được”. Có lẽ, trong tác phẩm,
đây là trường hợp hiếm hoi mà lời được chép ra, dù hết sức chân thành, lại khơng hồn
tồn phản ánh đúng nỗi băn khoăn có thật trong lòng tác giả.Với cách đọc hiểu hiện
nay, ta hiểu lời được ơng viết ra đó mới chỉ nói lên được phần thói quen, phần qn
tính trong cách nghĩ, cách phát ngôn của một thời mà thôi. Sự thực, đó phải là nỗi băn

khoăn xuất phát từ đạo đức nghề nghiệp, từ lòng vị tha của một nhân cách cao cả, từ
một con người có những phẩm chất cao quý: khinh thường danh lợi, quyền quý, yêu
thích cuộc sống tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị nơi quê nhà.
Điều hấp dẫn và tạo nên sự thành công cho đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh thể
hiện chi tiết, sự kiện có những nét riêng. Tác giả quan sát tinh tế, ghi chép chân thực, tỉ
mỉ, tả cảnh sinh động, kể diễn biến sự việc khéo léo, lôi cuốn sự chú ý của người đọc,
bộc lộ thái độ một cách kín đáo, để sự vật tự nói. Ngồi ra, tác giả cịn kết hợp giữa
văn xi và thơ làm tăng chất trữ tình cho tác phẩm. Cái tơi cá nhân của tác giả được
bộc lộ mạnh mẽ, rõ ràng. Mọi sự kiện trong đoạn trích đều quy tụ về cái tôi cá nhân
của tác giả: tôi thấy, tôi nghĩ, tơi cho rằng, tơi bảo, tơi nói… để rồi, khép lại đoạn trích
là hình ảnh một Lê Hữu Trác với nhiều tư cách khác nhau: nhà nho, nhà văn, nhà sử
học và thầy thuốc.
Sự khác biệt trong kí sự của Lê Hữu Trác so với những tác phẩm kí khác thời
trung đại Việt Nam biểu hiện ở chỗ, tác giả ghi chép sự việc theotrật tự thời gian. Qua
việc miêu tả hành trình vào chữa bệnh trong phủ chúa, chúng ta biết được quang cảnh
và cung cách sinh hoạt nơi đây. Thái độ phê phán của tác giả kín đáo ẩn sau sự việc.
Phần trích cịn có những đoạn tái hiện tâm trạng của nhân vật trong thiên kí sự giúp
người đọc hiểu rõ hơn về con người tinh thần của Lê Hữu Trác. Trong khi đó, một tác
phẩm kí trung đại khác là Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ (Học sinh được học

20


đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh ở lớp 9), phản ánh sự thật cùng thời điểm
lại có sự ghi chép tản mạn, chủ quan, khơng gị bó theo hệ thống kết cấu, song vẫn
tuân theo mạch tư tưởng, cảm xúc chủ đạo là phê phán thói ăn chơi xa xỉ, tệ nhũng
nhiễu nhân dân của vua chúa và quan lại hậu cần. Thái độ phê phán, bất bình của tác
giả khá rõ rệt.
Trong khi đó, sự hấp dẫn của văn bản bản Hưng Đạo đại vương Trần Quốc
Tuấn (Ngô Sĩ Liên) là nghệ thuật kể chuyện và khắc họa nhân vật. Nhân vật được khắc

họa trong những tình huống có kịch tính, có độ căng đầy thử thách (mâu thuẫn hiếu trung, lời vua vờ hỏi trong lúc thế giặc mạnh). Phẩm chất nhân vật được hiện lên qua
nhiều mối quan hệ, nhiều góc nhìn: quan hệ với vua, quan hệ với dân, quan hệ với
tướng sĩ dưới quyền, quan hệ với con cái và đối với bản thân. Trong nghệ thuật trần
thuật, tác giả không tuân thủ việc trình bày các chi tiết về nhân vật theo trật tự ngày
tháng đơn điệu. Dấu hiệu của sự gia công ở nhà ghi sử thể hiện ở cách đảo thời gian
khi kể về nhân vật: bắt đầu bằng sự kiện Hưng Đạo Đại Vương ốm, vua đến thăm để
hỏi về kế sách giữ nước. Tiếp đó là giới thiệu những nét riêng về nhân vật. Trở lại với
dòng sự kiện: Trần Quốc Tuấn mất, được tặng những danh hiệu cao quý. Sau đó tác
giả nói tiếp về đức độ, công lao của ông qua những mẫu chuyện sinh động để gián tiếp
giải thích cho sự phong tặng trên. Phần cuối nói đến những trước tác của ơng để lại.
Phía sau các chi tiết là mạch kể nhất quán, lôgic, nghệ thuật kể chuyện phức hợp nhiều
chiều thời gian, vừa liên tiến vừa hồi ức, kết hợp trong lời kể là những nhận xét của
người viết, bộc lộ chính kiến và định hướng cho người đọc.
Nghệ thuật kể chuyện và khắc họa nhân vật đã đem lại hứng thú cho người đọc
khi tiếp xúc với nhân vật lịch sử qua các văn bản văn học phi hư cấu thời trung đại.
Điều này đã tạo nên màu sắc văn chương cho một tác phẩm chính sử đồ sộ. Nhờ sự tơn
trọng sự thật và tài năng văn chương, Ngô Sĩ Liên đã tạo cho câu chuyện lịch sử đậm
màu sắc văn chương. Dù không hư cấu nhưng sự phụ gia yếu tố văn học đã làm cho
văn bản trở nên cuốn hút, sâu sắc và có sức sống lâu bền trong lòng người đọc.
Văn bản văn học phi hư cấu trong văn học Việt Nam hiện đại tiếp nối nghệ
thuật kí truyền thống đó là tơn trọng sự thật, trần thuật người thật, việc thật một cách
xác thực. Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân) là một tác phẩm rút từ tập ký Sông Đà
(1960). Đây là kết quả của chuyến đi lên Tây Bắc trước đó của Nguyễn Tuân. Cảm

21


hứng chủ đạo của cả tập kí là tìm kiếm “chất vàng mười” của thiên nhiên, con người
Tây Bắc, một “thứ vàng mười đã thử lửa” như cách nói của ông. Sông Đà, là một con
sông hung bạo ở miền núi Tây Bắc của Tổ quốc. Nó thể hiện ở hình dáng, bờ vách,

thác nước, hút nước chết người... Hiện hình như một “kẻ thù số một của con người”.
Đó là những chi tiết có thực, được ngịi bút tài hoa của Nguyễn Tuân khắc họa đầy ấn
tượng trong tác phẩm. “Sự thực” về Sơng Đà khơng chỉ có vậy. Nó cịn có một “sự
thực” khác. Đó là vẻ đẹp trữ tình thơ mộng, là tiềm năng giàu có của nguồn thủy điện.
Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Sơng Đà đã hiện lên qua
hình ảnh mềm mại như một “áng tóc trữ tình”, những bờ bãi hai bên bờ sông với vẻ
đẹp nguyên sơ như thời hồng hoang... Khơng khó để “kiểm chứng” những “sự thật” ấy
của Sông Đà. Đến với Sông Đà, với Tây Bắc, khơng chỉ có thiên nhiên hoang sơ, hùng
vĩ, trữ tình làm đắm say du khách, mà cịn có những người lao động cần cù, giản dị, tài
hoa. Đó là hình ảnh người lái đị Sơng Đà vừa mang vẻ đẹp của một trang sĩ trên trận
chiến với thác nước Sơng Đà, vừa mang trong mình phong thái, tâm hồn nghệ sĩ. Qua
ngòi bút của Nguyễn Tuân, người lái đị Sơng Đà hiện lên mộc mạc, gần gũi, thơ ráp
(tay dài lêu nghêu như sào chống đò, chân khuỳnh khuỳnh, nhỡn giới xa vời vợi) vừa
chân thực, vừa giàu sức gợi.
“Sự thật” trong tùy bút Ai đã đặt tên cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc
Tường là dịng sơng Hương, và rộng hơn là vùng đất cố đô Huế thơ mộng; là trầm tích
văn hóa, lịch sử của Huế; là vẻ đẹp tâm hồn con người xứ Huế. Có một “sự thật” khác
của Sơng Hương, núi Ngự là nó đã trở thành nguồn cảm hứng cho thơ ca từ bao đời
nay. Dưới ngịi bút Hồng Phủ Ngọc Tường, những vẻ đẹp tiềm ẩn của sông Hương,
núi Ngự với những kinh thành trầm mặc uy nghi, những con người Huế dịu dàng... đã
hiện lên vừa gần gũi, vừa có sức khơi gợi về thiên nhiên, con người của một vùng đất
còn nhiều tiềm ẩn.
Trong văn bản Những ngày đầu của nước Việt Nam mới (Trích Những năm
tháng khơng thể nào quên- Võ Nguyên Giáp), “sự thật” hiện lên chân thực, sống động
qua những chi tiết, sự kiện lịch sử dân tộc ngay sau khi giành được chính quyền. Văn
bản viết dưới hình thức hồi kí, một hình thức địi hỏi nghiêm nhặt tính xác thực của chi
tiết, sự kiện, từ thời gian, không gian cho đến nhhững con người cụ thể. Trong đoạn
trích, người đọc nhận ra tình thế hiểm nguy “ngàn cân treo sợi tóc” của vận nước trong

22



những ngày đầu nước Việt Nam mới. Thù trong, giặc ngồi, giặc đói, giặc dốt... hồnh
hành khắp nơi. Nhưng chính trong hồn cảnh khó khăn chồng chất ấy, sức mạnh của
niềm tin vào cách mạng, vào Đảng, Bác Hồ đã giúp nhân dân ta vượt qua tất cả. Giữa
muôn trùng khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiện lên như một vị “cứu tinh” của
dân tộc. Bản lĩnh, vững vàng, lập trường kiên định, hành xử uyển chuyển, có tầm nhìn
xa rộng, Bác đã đưa dân tộc vượt qua thử thách, bước vào một thời kỳ mới của lịch sử.
Đó là những “sự thật” hiển nhiên đã được lưu truyền trong sử sách, trong ký ức của
nhiều thế hệ người Việt.
Cùng với việc tái hiện chân thực hiện thực đời sống, các văn bản văn học phi
hư cấu còn thể hiện cái tôi của người cầm bút. So với cái tôi trong văn học trung
đại, cái tôi trong văn hiện hiện đại có nhiều khác biệt. Đó là cái tôi cá nhân, cá thể
với một sự ý thức sâu sắc về con người cá nhân, cá tính. Ở Người lái đị Sơng Đà,
đó là cái tơi tài hoa, mạnh mẽ đến quyết liệt; ở Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là cái
tơi tài hoa, un bác, giàu tình cảm. Tôn trọng sự thật song thể ký không hề hạn chế
năng lực sáng tạo của nhà văn. Nhờ đó, qua các văn bản ký người đọc đón nhận
được một lượng thông tin phong phú, đa dạng, vừa chân thực, vừa giàu sức gợi. Tất
cả những điều đó phụ thuộc vào tài năng, vốn sống, sự trải nghiệm của nhà văn.
Được rút từ một hồi ký lịch sử của một trong những “khai quốc công thần”, Những
ngày đầu của nước Việt Nam mới đã thể hiện rõ nét cái tôi của người viết. Đó là
con người khiêm nhường, giản dị, chân thành, có tầm nhìn xa trơng rộng, mang
phong thái cốt cách một vĩ nhân.
Trên phương diện nghệ thuật, các văn bản phi hư cấu trong văn học hiện đại
được học trong chương trình Ngữ văn THPT cũng có nhiều đặc sắc, như ngôn ngữ trần
thuật, tổ chức trần thuật, khắc họa nhân vật, nghệ thuật tổ chức lời văn... Mỗi văn bản
có những đặc sắc riêng. Trong Người lái đị Sơng Đà, Nguyễn Tn kể, tả Sơng Đà từ
nhiều góc nhìn, với những cử li khác nhau. Có khi là sự tinh tường, tỉ mỉ của một nhà
khoa học; có khi thì bằng con mắt của một họa sĩ; khi thì qua ống kính của một nhà
quay phim dạt dào cảm xúc; có lúc là một lữ khách ngước xi sơng nước... Ngơn ngữ

trần thuật linh hoạt biến hóa, kết hợp giữa kể, tả, bình với một lối viết tài hoa. Viết về
sơng Hương, Hồng Phủ Ngọc Tường viết bằng giọng điệu trữ tình giàu chất suy
tưởng, triết lý. Trong khi trần thuật, tác giả đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật với

23


những hình ảnh đặc sắc, giàu nhạc điệu, thấm đẫm chất thơ.
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là những nghệ sĩ tài hoa, giàu cá tính,
có vốn sống, vốn văn hóa sâu rộng, là hai “bậc thầy” viết ký trong văn học hiện đại
Việt Nam. Họ say mê cái đẹp, suốt đời đi tìm cái đẹp. Nhưng với Nguyễn Tn, ơng
ln có thiên hướng đi tìm cảm giác mạnh. Cái đẹp phải là những hiện tượng đập
mạnh vào giác quan của người nghệ sĩ, gây ấn tượng khác thường, thậm chí là dữ dội.
Là người đẹp, phải đẹp “đổ quán xiêu đình”, “nghiêng nước nghiêng thành”; là thiên
nhiên đẹp, phải là đèo cao, thác dữ, là gió cuồng, bão táp... Trong khi đó, với Hồng
Phủ Ngọc Tường, cái đẹp phải thơ mộng, dịu dàng. Ở đoạn trích Những ngày đầu của
nước Việt Nam mới của Võ Nguyên Giáp, có những nét đặc biệt trong nghệ thuật thể
hiện. Tác giả tái hiện những chi tiết, sự kiện lịch sử từ điểm nhìn của một người lãnh
đạo trong chính quyền cách mạng. Vừa là nhân chứng, vừa là là người can dự vào sự
kiện lịch sử. Các sự kiện, vì vậy được kể lại mang tính tồn cảnh, tổng thể, được phác
họa ở những nét lớn, những cái gây ấn tượng sâu sắc với nhiều người. Giọng điệu trần
thuật khách quan. Những cảm nghĩ, nhận xét, đánh giá thường mang tính khách quan,
điển hình cho cảm nghĩ chung của những người lãnh đạo Đảng và Chính phủ. Cách
trần thuật như vậy đã làm cho tác phẩm mang tính chất một cuốn biên niên sử. Về mặt
này, có thể thấy có sự gần gũi với những văn bản kí trung đại đã học ở các lớp dưới,
GV cho HS tích hợp, đối chiếu, so sánh để làm rõ ràng đặc trưng của văn bản văn học
phi hư cấu.
Gợi mở cho HS khái quát các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ đặc sắc qua đọc hiểu
văn bản văn học là việc làm cần thiết. Bởi lẽ, suy đến cùng sau khi đọc xong một văn
bản những điều cốt yếu nhất đọng lại ở các em là gì. Do văn bản văn học phi hư cấu có

những đặc trưng riêng so với văn bản văn học hư cấu, nên việc gợi mở cho HS khái
quát giá trị tư tưởng thẩm mĩ có những khác biệt. Mặt khác, cách thức và nội dung gợi
mở ở văn bản văn học phi hư cấu hiện đại cũng có những khác biệt nhất định so với
văn bản văn học phi hư cấu trong văn học trung đại. Ba phương diện chủ yếu HS cần
khái quát được (tính xác thực của nhân vật, sự kiện; cái tôi nhà văn; đặc sắc nghệ
thuật) là giống nhau, song ở văn học hiện đại cách thể hiện có nhiều khác biệt.
2.3. Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo
Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục có định hướng được tổ chức ngoài

24


×