Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.25 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ VĂN DƯƠNG

TRÁCH NHIỆM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM
HÀNG HÓA CỦA NHÀ SẢN XUẤT THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG

HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ “Trách nhiệm đảm bảo chất lượng
sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất theo pháp luật Việt Nam hiện nay”, là
cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu, thơng tin, trích dẫn được sử
dụng trong Luận văn này hồn tồn chính xác, trung thực, tin cậy; kết quả có
được là do q trình học tập, nghiên cứu của bản thân và sự giúp đỡ, hướng dẫn
tận tình của Giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Cương.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2020


Tác giả luận văn

Vũ Văn Dương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA VÀ
TRÁCH NHIỆM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA
CỦA NHÀ SẢN XUẤT ...................................................................................... 6
1.1. Lý luận cơ bản về chất lượng sản phẩm, hàng hóa ................................ 7
1.2. Lý luận cơ bản về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa
của nhà sản xuất ........................................................................................... 15
1.3. Pháp luật của một số quốc gia về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất ................................................................ 22
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM
HÀNG HÓA CỦA NHÀ SẢN XUẤT TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY .......... 28
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm bảo đảm chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất ................................................................ 28
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất ................................................................ 48
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM HÀNG
HÓA CỦA NHÀ SẢN XUẤT .......................................................................... 62
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện quy định về trách nhiệm sản phẩm của nhà sản
xuất trong bối cảnh hiện nay........................................................................ 62
3.2. Những kiến nghị nhằm nâng cao, hoàn thiện các quy định của pháp luật về
trách nhiệm sản phẩm của nhà sản xuất ở Việt Nam hiện nay ......................... 63
3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm đảm

bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất ở Việt Nam hiện nay ... 71
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 78


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng với quan điểm phát triển nên
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, trong hơn
ba thập kỷ qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội, nền kinh tế phát triển mạnh với sự đa dạng
của các hình thức sở hữu; sản phẩm, hàng hóa trong nước sản xuất đã có sự
phát triển vượt bậc về lượng và thay đổi quan trọng về chất. Sản phẩm, hàng
hóa do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất ngày càng phong phú, đa dạng
về chủng loại và cấp độ sản phẩm, chất lượng không ngừng được nâng cao,
đáp ưng ngày càng tốt hơn nhu cầu sử dụng đa dạng và phong phú của người
tiêu dùng.
Chất lượng sản phẩm, hàng hố khơng những là thước đo quan trọng
khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn là chuẩn mực trong các quan
hệ kinh tế, thương mại và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chất lượng sản
phẩm, hàng hố liên quan trực tiếp đến sự an tồn, vệ sinh, sức khỏe con
người, tài sản và môi trường. Trong bối cảnh hội nhập và tồn cầu hố, bên
cạnh việc tạo điều kiện thuận lợi để lưu thông, trao đổi hàng hóa, các nước
cũng cần ngăn cản các sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng, khơng bảo đảm
an tồn để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ sản xuất trong nước và
lợi ích quốc gia.
Để nâng cao hiệu lực điều chỉnh của pháp luật với các quan hệ xã hội
về chất lượng sản phẩm, hàng hóa tương xứng với vai trị quan trọng của nó
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhà nước đã ban hành
Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006; Luật Chất lượng sản phẩm,

hàng hóa năm 2007; Luật An toàn thực phẩm năm 2010 và Luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng năm 2010, Bộ luật Dân sự năm 2015. Đây là các đạo luật

1


điều chỉnh về chất lượng sản phẩm, hàng hoá với phạm vi điều chỉnh tương
đối đầy đủ, hệ thống phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đáp ứng nhu cầu vật
chất, tinh thần ngày càng cao của nhân dân.
Tuy nhiên, tình trạng hàng hóa, đặc biệt là thực phẩm khơng bảo đảm
chất lượng cịn phổ biến và rất khó kiểm sốt, gây thiệt hại không nhỏ cho
người tiêu dùng, nhà sản xuất và nhà nước. Điều này cịn ảnh hưởng khơng
nhỏ đến niềm tin của người tiêu dùng và sự phát triển bền vững của nền kinh
tế cũng như uy tín của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Những năm
gần đây, pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hố nước ta ngày càng được
hồn thiện nhằm phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và bối cảnh hội nhập của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Tuy nhiên, các quy định về chất lượng sản phẩm, hàng hóa vẫn cịn có
sự chồng chéo, mâu thuẫn, chưa thực sự đồng bộ, nhiều nội dung chưa được
điều chỉnh kịp thời, phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội và hội nhập
quốc tế. Trong bối cảnh đó, việc tìm hiểu cơ sở lý luận và các quy định pháp
luật về “Trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà
sản xuất theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn to lớn ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kể từ khi Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; Luật chất lượng sản
phẩm, hàng hóa được ban hành và có hiệu lực đến nay, đã hơn 12 năm thực
hiện nhưng sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong giới luật học và giới kinh
doanh cũng chưa nhiều. Đã có một vài cơng trình nghiên cứu có liên quan trực

tiếp đến đề tài như:
- Ngô Thị Út Quyên (2012) Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của một
số nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật

2


học Khoa Luật - Trường Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Chu Đức Nhuận (2012) Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất
lượng sản phẩm, hàng hóa, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội;
- Trần Thanh Thất (2014) Trách nhiệm của nhà sản xuất đối với chất
lượng sản phẩm, hàng hóa theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
2010, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học Xã hội;
- Lê Thị Hải Ngọc (2017) Trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong
việc cung cấp thơng tin về chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng, Luận án
tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
Các đề tài đã đề cập đến các khía cạnh nhất định của trách nhiệm của
doanh nghiệp đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tuy nhiên dư địa nghiên
cứu về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn còn. Đề tài mà tác giả
nghiên cứu sẽ tập trung nghiên cứu pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất
lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất hiện nay ở Việt Nam theo hướng
làm rõ lý luận và quy định của nhà nước, những điểm mới, tiến bộ của các luật
có liên quan đến như Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, Luật Tiêu
chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 2010. Đây là các đạo luật chuyên ngành về chất lượng sản phẩm,
hàng hoá với phạm vi điều chỉnh tương đối đầy đủ, hệ thống về quy định của
pháp luật đối với sản phẩm, hàng hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thơng qua việc nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng quy định pháp

luật về trách nhiệm của nhà sản xuất trong việc đảm bảo chất lượng của sản
phẩm, hàng hóa ở Việt Nam hiện nay, học viên đề xuất các giải pháp hoàn
thiện, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật có liên quan, nhằm góp phần đảm
bảo an tồn pháp lý trong hoạt động của nhà sản xuất đối với sản phẩm, hàng

3


hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng: Những quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm đảm
bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất và thực tiễn thi hành.
- Về phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành
về trách nhiệm của nhà sản xuất trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng
hóa, đồng thời có so sánh, đối chiếu với quy định pháp luật của một số quốc
gia trên thế giới.
+ Về thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về trách
nhiệm của nhà sản xuất trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm hàng hóa từ
năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật và quan điểm,
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền dựa
trên nền tảng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình
nghiên cứu, tìm hiểu, luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, luận
văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau bao gồm:
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng

trong tất cả các chương của luận văn để phân tích các khái niệm, phân tích quy
định của pháp luật, phân tích các số liệu...
+ Phương pháp so sánh: Được sử dụng trong luận văn để so sánh một số
quy định của pháp luật trong các văn bản khác nhau.
+ Phương pháp diễn giải: Được sử dụng trong luận văn để diễn giải các

4


số liệu, các nội dung trích dẫn liên quan và được sử dụng tất cả các chương của
luận văn.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp nghiên cứu khác
trong đó có phương pháp thống kê...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận văn góp phần củng cố cơ sở khoa học trong q trình hồn thiện
pháp luật và đảm bảo hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất
lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất ở Việt Nam;
- Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo giúp chính quyền và các
cơ quan ban ngành nghiên cứu hồn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà
sản xuất ở Việt Nam trong gian đoạn tới.
7. Kết cấu của luận văn
Nội dung của luận văn gồm phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo và ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm, hàng hóa và trách
nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất
Chương 2: Thực trạng quy định và thực tiễn thực hiện pháp luật về trách
nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất tại Việt Nam
hiện nay
Chương 3: Giải pháp nâng cao và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm

đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất

5


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA VÀ TRÁCH
NHIỆM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA CỦA

6


NHÀ SẢN XUẤT
1.1. Lý luận cơ bản về chất lượng sản phẩm, hàng hóa
1.1.1. Khái niệm sản phẩm, hàng hóa
Trước khi đi vào phân tích các khái niệm chất lượng, chất lượng sản
phẩm, hàng hóa chúng ta cần tìm hiểu và phân biệt khái niệm sản phẩm và
khái niệm hàng hóa.
Theo định nghĩa sản phẩm là bất kỳ thứ gì có thể đưa ra thị trường để thu
hút sự chú ý, được mua về, sử dụng hay tiêu dùng mà có thể thoả mãn mong
muốn hay nhu cầu. Sản phẩm khơng chỉ là những hàng hố hữu hình. Theo
định nghĩa khái quát, sản phẩm bao gồm các đối tượng vật chất, các dịch vụ,
các sự kiện, địa phương, tổ chức, ý tưởng, và tổ hợp của các thực thể này. Như
vậy, trong toàn bộ luận văn này, chúng ta sử dụng thuật ngữ sản phẩm một cách
khái quát để bao gồm bất kỳ hay toàn bộ những thực thể này.
Thuật ngữ sản phẩm được hiểu là cả hàng hoá lẫn dịch vụ. Sản phẩm là
bất cứ thứ gì có thể đem chào bán để thoả mãn một nhu cầu hay mong muốn.
Ý nghĩa quan trọng của sản phẩm vật chất bắt nguồn khơng phải từ việc sở hữu
chúng, mà chính là từ việc có được những dịch vụ mà chúng đem lại. Người
tiêu dùng mua một chiếc xe không phải để ngắm nhìn nó mà vì nó cung ứng

khả năng vận chuyển. Người tiêu dùng mua một cái bếp không phải để chiêm
ngưỡng mà vì nó là phương tiện khơng thể thiếu để thực hiện hoạt động nấu
nướng. Vì vậy, các sản phẩm vật chất thực sự là những phương tiện đảm bảo
phục vụ con người.
Theo Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000:2000 thì “sản phẩm” là kết quả của
một quá trình, trong đó:
- Q trình là tập hợp các hoạt động có liên quan lẫn nhau hoặc tương

7


tác (với nhau) để biến đổi đầu vào (input) thành đầu ra (output).
Như vậy, các đầu vào của một quá trình thường là đầu ra của các q
trình khác. Có 4 chủng loại sản phẩm phổ biến nhất, đó là:
- Dịch vụ - service (ví dụ: vận chuyển);
- Phần mềm - softwave (ví dụ: chương trình máy tính, từ điển);
- Phần cứng - hardware (ví dụ: động cơ, các chi tiết cơ khí);
- Vật liệu chế biến - processed material (ví dụ: dầu mỡ bơi trơn).
Nhiều sản phẩm được cấu thành bởi các chủng loại sản phẩm khác nhau.
Ví dụ: một sản phẩm ô tô được chào bán bao gồm cả sản phẩm phần cứng (săm
lốp), vật liệu chế biến (nhiên liệu, chất lỏng làm mát máy), phần mềm (phần
mềm kiểm soát động cơ, sổ tay hướng dẫn lái xe) và dịch vụ (các giải thích
hướng dẫn vận hành do người bán hàng thực hiện). Trong những trường hợp
như vậy, tên gọi của sản phẩm phải căn cứ vào thành phần chủng loại sản phẩm
chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Dịch vụ và phần mềm thường khơng hữu tình. Trong khi đó, sản phẩm
phần cứng (hardware) và vật liệu chế biến (processed meterial) thường là hữu
hình và thường được gọi là hàng hoá (goods).
Như vậy, khái niệm sản phẩm của Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000:2000 là
khái niệm rộng bao trùm cả “hàng hố”. Khái niệm này khơng dựa trên tính

chất trao đổi (mua bán) để định nghĩa mà dựa trên chu trình sống của sản phẩm
qua từng giai đoạn và bản chất của các chủng loại sản phẩm.
Nếu dựa trên tính chất mua bán để phân biệt giữa sản phẩm và hàng hố
thì tồn bộ chu trình sống của sản phẩm (từ lúc hình thành cho đến lúc hết khả
năng sử dụng) bao gồm các giai đoạn sau:
1

2

3

4

5

Ý tưởng Triển Sản xuất Sản xuất Lưu thông
- thiết bị khai

thử

hàng trên thị trường

8

6

7

Sử dụng Kết thúc
sử dụng



Như vậy, sản phẩm trở thành hàng hoá thực chất ở giai đoạn lưu thông
sản phẩm trên thị trường.
Đồng thời, chất lượng của sản phẩm không sinh ra trong khâu lưu thơng
trên thị trường. Chất lượng của nó được hình thành trong giai đoạn từ 1 đến 4,
tức là từ khâu thiết kế cho đến kết thúc quá trình sản xuất. Trong giai đoạn lưu
thông, chất lượng của sản phẩm hay như ta gọi là chất lượng của “hàng hoá”
phải được duy trì để khơng bị suy giảm trước khi đến tay người tiêu dùng. Việc
duy trì này được thực hiện bằng các biện pháp như vận chuyển, bảo quản thích
hợp và thường được quy định trong tiêu chuẩn của sản phẩm. Tiêu chuẩn này
thường do người sản xuất quy định.
Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 3 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng
hóa năm 2007 thì:
+ Sản phẩm là kết quả của quá trình sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ
nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng.
+ Hàng hoá là sản phẩm được đưa vào thị trường, tiêu dùng thông qua
trao đổi, mua bán, tiếp thị.
Như vậy thơng qua các khái niệm và quy định trên có thể hiểu sản phẩm
là kết quả của hoạt động, quá trình; hàng hóa là sản phẩm được đưa vào tiêu
dùng, thị trường thông qua trao đổi, mua bán. Không thể có hàng hóa khi sản
phẩm được làm hoặc sản xuất chỉ nhằm mục đích tiêu dùng cá nhân, khơng
mang ra trao đổi, mua bán.
1.1.2. Khái niệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường xuyên tiếp cận và nói nhiều
các thuật ngữ "chất lượng", "chất lượng sản phẩm", "chất lượng cao"... Mỗi
quan niệm đều có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau nhằm thúc
đẩy khoa học quản lý chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện.
Theo quan điểm của triết học Mác thì chất lượng là mức độ, thước đo biểu


9


hiện giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của sản phẩm làm nên tính hữu ích
của sản phẩm và nó chính là chất lượng sản phẩm.
Theo Giáo sư Ishikawa chuyên gia về chất lượng của Nhật Bản cho rằng:
“Chất lượng là sự thõa mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất” [10].
Theo Philip B. Crosby: “Chất lượng là tính phù hợp với các yêu cầu” [13].
Theo A.W. Feigenbaum: “Chất lượng là những đặc điểm tổng hợp và
phức hợp của sản phẩm và dịch vụ về các mặt: marketing, kỹ thuật, chế tạo và
bảo dưỡng mà thơng qua đó khi sử dụng sẽ làm cho sản phẩm đáp ứng được
điều mong đợi của khách hàng” [7].
Từ khi tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO đưa ra định nghĩa chất lượng
tại ISO 9000 thì các cuộc tranh cãi lắng xuống và nhiều nước chấp nhận định
nghĩa này: "Chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng
các u cầu" [24].
Qua các định nghĩa trên, có thể nêu ra 3 điểm cơ bản về chất lượng sản
phẩm, hàng hoá sau đây:
+ Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các chỉ tiêu, các đặc trưng thể
hiện tính năng kỹ thuật nói lên tính hữu ích của sản phẩm.
+ Chất lượng sản phẩm phải được gắn liền với điều kiện cụ thể của nhu
cầu, của thị trường về các mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội và phong tục.
+ Chất lượng sản phẩm phải được sử dụng trong tiêu dùng và cần xem
xét sản phẩm thoả mãn tới mức nào của người tiêu dùng.
Chất lượng của sản phẩm, hàng hoá thể hiện ở mức độ đáp ứng của
sản phẩm, hàng hóa với nhu cầu của người tiêu dùng và bảo đảm an tồn cho
con người, động thực vật, tài sản, mơi trường. Chất lượng của sản phẩm, hàng
hố là đặc tính của sản phẩm, hàng hóa thể hiện ở cấu tạo, thành phần hóa
học, vật lý, độ bền, độ tin cậy, tính tiện dụng, tính thẩm mỹ và tính an tồn.
Theo định nghĩa của Tổ chức Tiêu chuẩn hoá, chất lượng sản phẩm, hàng hoá


10


là tổng thể các chỉ tiêu, các đặc trưng của sản phẩm, thể hiện được sự thoả
mãn nhu cầu trong các điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng
của sản phẩm. Như vậy, theo định nghĩa này, chất lượng sản phẩm, hàng hoá
bao gồm nhiều chỉ tiêu, trong đó an tồn chỉ là một trong các chỉ tiêu của sản
phẩm, hàng hoá.
Ở nước ta, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quan niệm hẹp hơn,
chỉ là các u cầu về an tồn mà sản phẩm, hàng hố phải đáp ứng. Luật Chất
lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2007 định nghĩa chất lượng sản phẩm, hàng hoá
“là mức độ của các đặc tính của sản phẩm, hàng hố đáp ứng yêu cầu trong tiêu
chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng”.
Như vậy, theo pháp luật hiện hành, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được
hiểu là chất lượng về mặt an toàn của sản phẩm, hàng hoá đối với người tiêu
dùng nên thực chất Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá là luật về bảo đảm an
tồn của sản phẩm, hàng hóa. Sản phẩm, hàng hố và chất lượng sản phẩm,
hàng hoá cơ bản do yếu tố con người, công nghệ và nguyên liệu đầu vào quyết
định nhưng với mục tiêu bảo đảm an toàn nên luật chỉ điều chỉnh các quan hệ
để bảo đảm an tồn của sản phẩm, hàng hố từ khâu sản xuất, đưa ra lưu thông
trên thị trường đến bảo đảm an tồn trong q trình sử dụng của người tiêu
dùng. Người sử dụng phải sử dụng, vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, bảo trì, bảo
dưỡng hàng hố theo hướng dẫn của người sản xuất để bảo đảm an tồn cho
chính người đó và cho xã hội khi sử dụng hàng hố đã được phép lưu thông.
Đối với những sản phẩm, hàng hố có nguy cơ gây mất an tồn trong q trình
sử dụng như thang máy, xe ơ tơ, máy bay, nhà nước tổ chức thực hiện kiểm
định định kỳ và chỉ được tiếp tục sử dụng nếu có chứng nhận an toàn của cơ
quan kiểm định.
1.1.3. Đặc điểm của chất lượng sản phẩm, hàng hóa

Chất lượng sản phẩm được cấu thành bởi nhiều yếu tố, vì vậy, nó sẽ có

11


rất nhiều đặc điểm khác nhau. Dưới đây là một vài đặc điểm chung nhất của

12


chất lượng sản phẩm, hàng hóa:
Thứ nhất: Chất lượng sản phẩm là một phạm trù tổng hợp các yếu tố kinh
tế, xã hội, kĩ thuật, vì vậy, nó được thể hiện thông qua một hệ thống các chỉ tiêu
kinh tế, kĩ thuật, văn hoá của sản phẩm.
Thứ hai: Chất lượng có ý nghĩa tương đối có nghĩa là chất lượng thường
xun thay đổi theo khơng gian và thời gian.
Có thể ở giai đoạn này sản phẩm có chất lượng được đánh giá là cao nhưng
ở giai đoạn sau thì khơng chắc đã cao do khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển
và nhu cầu của con người cũng ngày càng cao hơn. Vì vậy, chất lượng chỉ được
đánh giá theo từng thời điểm. Các nhà sản xuất phải nắm chắc đặc điểm này để
luôn luôn đổi mới và cải tiến công nghệ để ngày càng nâng cao chất lượng sản
phẩm để ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường.
Thứ ba: Chất lượng chỉ phù hợp ở từng thị trường cụ thể do nhu cầu và
sở thích của người dân ở mỗi vùng là khác nhau. Vì vậy, khi đưa sản phẩm mới
vào thị trường thì doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ thị trường đó.
Thứ tư: Chất lượng vừa mang tính trừu tượng vừa mang tính cụ thể. Tính
trừu tượng thơng qua sự phù hợp, nó phản ánh mặt chủ quan của sản phẩm và
phụ thuộc vào nhận thức của khách hàng. Nâng cao chất lượng loại này sẽ có
tác dụng tăng khả năng hấp dẫn thu hút khách hàng nhờ đó tăng khả năng tiêu
thụ sản phẩm. Chất lượng phải thông qua các chỉ tiêu kinh tế, kĩ thuật, cụ thể

được thể hiện thông qua chất lượng tn thủ thiết kế, thơng qua tính khách quan
của sản phẩm. Nâng cao chất lượng loại này làm giảm chi phí và tạo điều kiện
cho doanh nghiệp có khả năng thực hiện chính sách giá cả linh hoạt.
Thứ năm: Chất lượng sản phẩm chỉ thể hiện đúng trong điều kiện tiêu
dùng cụ thể, phù hợp với mục đích sử dụng nhất định.
1.1.4. Vai trò của chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Trong mơi trường phát triển kinh tế hội nhập ngày nay, doanh nghiệp

13


muốn tồn tại và phát triển phải tăng khả năng cạnh tranh của mình thơng qua
hai chiến lược cơ bản là phân biệt hóa sản phẩm (chất lượng sản phẩm) và chi
phí thấp. Chất lượng sản phẩm trở thành một trong những chiến lược quan trọng
nhất làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì vậy, có thể khẳng định
được một điều là: "Nâng cao chất lượng sản phẩm, có tầm quan trọng sống cịn
đối với các doanh nghiệp". Điều này thể hiện ở chỗ:
Chất lượng luôn là một trong những nhân tố quan trọng quyết định khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Nâng cao chất lượng sẽ tạo
được uy tín, danh tiếng, cơ sở cho sự tồn tại, phát triển lâu dài của doanh
nghiệp. Tăng cường sản phẩm tương đương với tăng năng suất lao động xã hội
sẽ tạo điều kiện cho việc tiêu thụ và nâng cao chất lượng chu chuyển trên thị
trường. Nâng cao chất lượng sản phẩm còn là biện pháp hữu hiệu kết hợp các
loại lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng và người lao động. Nâng cao
chất lượng sẽ góp phần quan trọng cho việc tiết kiệm nguyên vật liệu, vật tư,
năng lượng và thời gian lao động. Bên cạnh đó nâng cao chất lượng sản phẩm
cịn có ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế - chính trị - xã hội của đất
nước: Nâng cao chất lượng sản phẩm là nâng cao vị trí và uy tín của doanh
nghiệp trên thương trường, mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, do đó
nâng cao thu nhập cho nhà quản lý cũng như người lao động…

Như vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với sự phát triển
kinh tế nhanh chóng và ổn định trong doanh nghiệp nói riêng và tồn bộ nền
kinh tế nói chung. Chất lượng sản phẩm cịn có ý nghĩa chính trị tư tưởng và xã
hội to lớn.
Tóm lại, nâng cao chất lượng sản phẩm là cơ sở quan trọng cho việc đẩy
mạnh quá trình hội nhập, giao lưu kinh tế và mở rộng trao đổi thương mại quốc
tế của các doanh nghiệp Việt Nam. Chất lượng sản phẩm có ý nghĩa đến nâng
cao khả năng cạnh tranh, khẳng định vị thế của sản phẩm hàng hoá Việt Nam

14


và sức mạnh kinh tế của đất nước trên thị trường thế giới. Mặt khác, nâng cao
chất lượng sản phẩm sẽ tăng thêm giá trị sử dụng cho sản phẩm và tiết kiệm
hao phí cho xã hội. Chất lượng sản phẩm chính là yêu cầu quan trọng đối với
mọi doanh nghiệp và cũng chính là vấn đề tối quan trọng cho nền kinh tế đất
nước. Nâng cao chất lượng sản phẩm có vai trị to lớn trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và sự tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp
nói riêng.
1.2. Lý luận cơ bản về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng
hóa của nhà sản xuất
1.2.1. Khái niệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Đảm bảo chất lượng là cốt lõi của quản trị chất lượng, bao gồm một đảm
bảo sao cho người mua hàng có thể mua một sản phẩm, dịch vụ với lòng tin và
sự thoải mái là có thể sử dụng một thời gian dài. Đảm bảo chất lượng giống
như một lời hứa hoặc hợp đồng với khách hàng về chất lượng.
Bất kỳ nhà sản xuất nào cũng cần áp dụng chính sách đảm bảo chất lượng
nhằm đoán chắc với khách hàng rằng trước khi mua, trong khi mua và giai đoạn
nào đó sau khi mua, sản phẩm, dịch vụ phải có đủ độ tin cậy làm thỏa mãn khách
hàng và chiếm được lòng tin của họ. Các doanh nghiệp cần xây dựng chính sách

đảm bảo chất lượng sao cho khách hàng tin vào hàng hóa của cơng ty mình hoặc
xa hơn nữa là tin tưởng vào chất lượng của chính bản thân cơng ty, như vậy
khách hàng sẽ yên tâm khi mua sản phẩm, dịch vụ mới.
Theo ISO 9000, "Đảm bảo chất lượng là toàn bộ hoạt động có kế hoạch
và hệ thống được tiến hành trong hệ thống chất lượng được chứng minh là đủ
mức cần thiết để tạo tin tưởng thỏa đáng rằng thực thể (đối tượng) sẽ thỏa mãn
đầy đủ các yêu cầu chất lượng. Đảm bảo chất lượng bao gồm cả đảm bảo chất
lượng trong nội bộ lẫn đảm bảo chất lượng với bên ngoài".
Đảm bảo chất lượng bao gồm mọi việc từ lập kế hoạch sản phẩm cho đến

15


khi làm ra nó, bảo dưỡng, sửa chữa và tiêu dùng. Vì thế, các hoạt động đảm
bảo chất lượng cần được xác định rõ ràng, điều gì cần làm ở mỗi giai đoạn để
đảm bảo được chất lượng trong suốt vịng đời của sản phẩm.
Đảm bảo chất lượng khơng những bao gồm mọi hoạt động về kiểm tra
chất lượng bên trong các phòng ban, mà còn giữa các phòng ban với nhau. Điều
này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới cơ cấu tổ chức từ quản trị theo chức
năng sang quản trị theo chức năng chéo nhằm hướng mọi nỗ lực của các thành
viên vào việc thực hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp là thỏa mãn tốt nhất
nhu cầu của người tiêu dùng và thu được lợi nhuận.
1.2.2. Vai trò của đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Chất lượng của sản phẩm, hàng hố thể hiện ở mức độ đáp ứng của sản
phẩm, hàng hóa với nhu cầu của người tiêu dùng và bảo đảm an toàn cho con
người, động thực vật, tài sản, môi trường. Bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng
hố ngồi việc có ý nghĩa rất quan trọng với người tiêu dùng, người sản xuất
mà cịn quan trọng đối với việc duy trì an ninh, trật tự cơng cộng, lợi ích quốc
gia.
Chất lượng sản phẩm cịn là chính sách để các doanh nghiệp thực hiện

chiến lược quảng cáo nhằm mục đích tạo uy tín và danh tiếng cho sản phẩm
của chính doanh nghiệp và khẳng định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường,
tạo tiền đề cho sự tồn tại và phát triển vững bền của doanh nghiệp. Mặt khác,
bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa cịn giúp tiết kiệm ngun vật liệu và
giảm thiểu tác động xấu môi trường trong quá trình sản xuất sản phẩm, hàng
hóa.
Hiện nay, với sự phát triển của khoa học và công nghệ cho phép các nhà
sản xuất nhạy bén có khả năng đáp ứng ngày càng cao nhu cầu khách hàng, tạo
ra lợi thế cạnh tranh điều này dẫn đến cuộc cạnh tranh toàn cầu sẽ trở nên ngày
càng mạnh mẽ với quy mô ngày càng lớn. Với tình hình như vậy, chất lượng

16


trở sẽ trở thành yếu tố cạnh tranh hàng đầu quyết định sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm, hàng hóa tốt, bảo đảm chất lượng sẽ dẫn tới việc
kích thích tiêu dùng. Riêng đối với sản phẩm là tư liệu sản xuất, chất lượng sản
phẩm tốt còn đảm bảo cho việc trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc
dân, nâng cao năng suất lao động. Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được đảm
bảo khơng chỉ làm tăng uy tín sản phẩm, hàng hóa của nước ta trên thị trường
quốc tế mà cịn đem lại tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
Đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hố, tích cực đấu tranh chống hàng
giả, hàng nhái, chống hàng lậu, hàng không đảm bảo chất lượng, không rõ
nguồn gốc, không đảm bảo vệ sinh an tồn thực phẩm, góp phần tích cực trong
việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng Việt Nam.
1.2.3. Trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất
Q trình lưu thơng hàng hóa có sự tham gia của rất nhiều chủ thể với các
vai trò khác nhau như nhà sản xuất, người nhập khẩu, người phân phối, người bán
hàng… Quan hệ giữa các chủ thể này là quan hệ biện chứng, có tác động qua

lại lẫn nhau, trong đó các bên đều có lợi ích trong quan hệ này.
Các chủ thể nêu trên là những thực thể của xã hội có quan hệ và tác động
qua lại nhau để cùng tồn tại và phát triển. Xã hội chỉ tồn tại khi có hoạt động
sản xuất nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích của con người vì vậy quan hệ giữa
nhà sản xuất, người nhập khẩu, người phân phối, người bán hàng… là một trong
những quan hệ xã hội thường xuyên và cơ bản nhất vì. Con người trong xã hội
hiện đại khơng thể tồn tại nếu khơng có hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Nhưng nhà sản xuất cũng không thể tồn tại nếu khơng có khách hàng vì chủ thể
này quyết định sự phát triển của nhà sản xuất. Để quan hệ xã hội nói chung và
quan hệ giữa các chủ thể này nói riêng phát triển lành mạnh địi hỏi nhà sản
xuất phải thực hiện các hành vi có trách nhiệm với các chủ thể còn lại trong

17


việc sản xuất sản phẩm, hàng hóa. Đó chính là trách nhiệm bảo đảm chất lượng

18


sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất.
Chất lượng sản phẩm, hàng hoá chịu ảnh hưởng tác động đồng thời của
các chủ thể là nhà nước, người sản xuất và các chủ thể liên quan. Để sản phẩm,
hàng hoá bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản, mơi trường,
địi hỏi mỗi chủ thể phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình để tác động lên các
yếu tố về chất lượng của sản phẩm, hàng hoá. Sản phẩm, hàng hoá do các doanh
nghiệp sản xuất và cung cấp cho xã hội để tiêu dùng nên doanh nghiệp hoàn
toàn tự quyết định và chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm, hàng hố đó,
nhà nước khơng can thiệp trực tiếp vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Theo quy định của pháp luật, việc đảm bảo chất lượng đối với sản phẩm, hàng

hóa trước khi đưa ra thị trường là nghĩa vụ của nhà sản xuất, việc sản xuất sản
phẩm đảm bảo chất lượng là vi phạm quyền tài sản, quyền nhân thân của cá
nhân nên nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm đối với các đối tượng liên quan về
các thiệt hại do sản phẩm không đảm bảo chất lượng. Để làm rõ trách nhiệm
của người sản xuất đối với sản phẩm, hàng hố của mình, pháp luật đã xác định
trách nhiệm cụ thể đối với nhà sản xuất để bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng
hoá.
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ trách nhiệm được hiểu theo hai nghĩa
khác nhau: một là những việc mà các chủ thể nhất định phải thực hiện, hai là
những hậu quả mà chủ thể thực hiện những hành vi nhất định phải gánh chịu.
Luận văn này sử dụng khái niệm “trách nhiệm” theo nghĩa thứ hai. Theo đó,
trách nhiệm bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất là những
hậu quả bất lợi mà nhà sản xuất phải gánh chịu do sản xuất các sản phẩm không
bảo đảm chất lượng.
Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất bao gồm các trách nhiệm chính sau:
Một là, trách nhiệm đảm bảo chất lượng của sản phẩm, hàng hóa theo

19


tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật: Theo quy định của pháp luật, nhà sản xuất
có trách nhiệm sản xuất sản phẩm, hàng hóa phù hợp với tiêu chuẩn cơng bố áp
dụng và quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật là các
quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật mà sản phẩm, hàng hố phải
tn theo để bảo đảm an tồn, vệ sinh, sức khoẻ con người; tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật phải đáp ứng yêu cầu về an toàn. Đối với sản phẩm, hàng hoá
trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng mục
đích mà vẫn tiềm ẩn khả năng gây hại cho con người, tài sản thì nhà nước ban
hành quy chuẩn kỹ thuật, người sản xuất phải tuân theo quy chuẩn kỹ thuật này

trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hố có liên quan của mình. Đối với
sản phẩm, hàng hố trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng
hợp lý và đúng mục đích khơng gây hại cho con người, tài sản thì người sản
xuất tự cơng bố tiêu chuẩn và phải tuân theo tiêu chuẩn đã công bố trong hoạt
động sản xuất kinh doanh hàng hố có liên quan của mình.
Hai là, trách nhiệm cung cấp thơng tin cho người tiêu dùng: Theo quy
định của pháp luật, trách nhiệm cung cấp thông tin cho người tiêu dung bao
gồm các nội dung như sau: ghi nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật;
niêm yết công khai giá hàng hóa, dịch vụ tại địa điểm kinh doanh; cảnh báo khả
năng hàng hóa, dịch vụ có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của
người tiêu dùng và các biện pháp phịng ngừa; cung cấp thơng tin về khả năng
cung ứng linh kiện, phụ kiện thay thế của hàng hóa; cung cấp hướng dẫn sử
dụng, điều kiện, thời hạn, địa điểm, thủ tục bảo hành trong trường hợp hàng
hóa, dịch vụ có bảo hành; thơng báo chính xác, đầy đủ cho người tiêu dùng về
hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trước khi giao dịch. Trường hợp
tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp thông tin cho người
tiêu dùng thông qua bên thứ ba thì bên thứ ba có trách nhiệm bảo đảm cung cấp
thơng tin chính xác, đầy đủ về hàng hóa, dịch vụ được cung cấp; yêu cầu tổ

20


chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp chứng cứ chứng minh
tính chính xác, đầy đủ của thơng tin về hàng hóa, dịch vụ; chịu trách nhiệm liên
đới về việc cung cấp thơng tin khơng chính xác hoặc không đầy đủ, trừ trường
hợp chứng minh đã thực hiện tất cả biện pháp theo quy định của pháp luật để
kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của thơng tin về hàng hóa, dịch vụ; tuân thủ các
quy định của pháp luật về báo chí, pháp luật về quảng cáo.
Ba là, trách nhiệm bảo hành hàng hóa, linh kiện: trách nhiệm bảo hành
hàng hóa, linh kiện, phụ kiện của nhà sản xuất là trách nhiệm của nhà sản xuất

trong việc sửa chữa, thay thế hoặc hồn trả hàng hóa, linh kiện, phụ kiện đối
với người tiêu dùng trong trường hợp hàng hóa, linh kiện, phụ kiện đó được
các bên thỏa thuận bảo hành hoặc bắt buộc bảo hành theo quy định của pháp
luật. Đặc điểm của loại trách nhiệm này đó là: Cơ sở phát sinh trách nhiệm bảo
hành là do thỏa thuận của các bên hoặc do pháp luật quy định bắt buộc bảo
hành trong những trường hợp nhất định; Trách nhiệm bảo hành thông thường
chỉ áp dụng đối với hàng hóa, linh kiện, phụ kiện (hàng hóa hữu hình); Trách
nhiệm bảo hành được xác lập trong một thời hạn nhất định.
Bốn là, trách nhiệm thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật: Thu hồi
sản phẩm là áp dụng các biện pháp nhằm đưa sản phẩm không đảm bảo an toàn
thực phẩm ra khỏi chuỗi sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu và lưu thông trên thị
trường. Theo quy định của pháp luật, cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh sản
phẩm, hàng hóa khơng bảo đảm chất lượng đã đăng ký hoặc cơng bố và hàng
hóa khác khơng bảo đảm chất lượng, điều kiện lưu thơng thì phải thu hồi các
sản phẩm, hàng hóa vi phạm đang lưu thông trên thị trường.
Năm là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất do hàng hóa
có khuyết tật gây ra: theo quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng
hóa nhà sản xuất phải bồi thường thiệt hại cho người bán hàng hoặc người tiêu
dùng khi hàng hóa gây thiệt hại do lỗi của người sản xuất không bảo đảm chất

21


lượng hàng hóa, trừ các trường hợp khơng phải bồi thường. Việc bồi thường
thiệt hại được thực hiện theo thoả thuận giữa các bên có liên quan hoặc theo
quyết định của toà án hoặc trọng tài.
1.2.4. Đặc điểm của trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của
nhà sản xuất
Thứ nhất, trách nhiệm của nhà sản xuất đối với đảm bảo chất lượng
sản phẩm, hàng hóa là trách nhiệm pháp lý với các hậu quả xấu mà nhà sản

xuất phải gánh chịu, bao gồm các biện pháp phòng ngừa, hạn chế thiệt hại gây
ra, bồi thường khi sản phẩm, hàng hóa khuyết tật gây thiệt hại cho các chủ thể
liên quan.
Thứ hai, trách nhiệm của nhà sản xuất đối với đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa phát sinh do sản phẩm, hàng hóa khơng đảm bảo chất lượng gây
thiệt hại cho các chủ thể liên quan, không phụ thuộc giữa nhà sản xuất sản phẩm,
hàng hóa khơng đảm bảo chất lượng và các chủ thể liên quan dùng bị thiệt hại có
quan hệ hợp đồng hay khơng.
Thứ ba, trách nhiệm của nhà sản xuất đối với đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa có thể là trách nhiệm riêng lẻ hoặc liên đới. Nếu sản phẩm, hàng
hóa không đảm bảo do nhiều nhà sản xuất gây ra thì các nhà sản xuất này chịu
trách nhiệm liên đới khi các chủ thể liên quan bị thiệt hại.
Thứ tư, trách nhiệm của nhà sản xuất đối với đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa là trách nhiệm tương đối vì nhà sản xuất có thể được miễn trách
nhiệm trong một số trường hợp nhất định.
1.3. Pháp luật của một số quốc gia về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất
Chủ thể chịu trách nhiệm sản phẩm là người sản xuất hoặc người bán hàng,
tức phải là một chủ thể nhất định tham gia vào quy trình đưa một sản phẩm, hàng
hóa đến tay người tiêu dùng. Chủ thể đó có thể có mối liên hệ trực tiếp với người

22


×